Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[37-48]

12 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 12149)
[37-48]
VI TIẾU
Tác giả: Viên Minh

[37-48]

 

37. SINH LÃO BỊNH TỬ

Sau nhiều năm tinh tấn tu hành, một vị tăng vẫn không sao đạt được mục đích mà ông hướng đến là thoát ly sinh, già, đau, chết. Đang lúc buồn nản thì Sư đến thăm. Vị tăng hỏi:

- Làm sao thoát khỏi sinh - lão - bịnh - tử?

Sư than:

- Chỉ tội cho Sinh - Lão - Bịnh - Tử thoát không khỏi ông!

۞ 

Lời góp ý: 

Có hai loại sinh - lão - bịnh - tử nơi mỗi người:

1) Của thế giới tự nhiên tâm - sinh - vật lý.

2) Của thế giới ảo tưởng ngã kiến vọng chấp.

Tâm - sinh - vật lý là diễn biến tự nhiên của sự sống:

- Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thuộc về sinh lý.

- Sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về vật lý.

- Ý và pháp thuộc về tâm lý.

Ba yếu tố này tương quan, tương duyên, tương dung, tương tác, tương sinh, tương khắc mà hợp thành cái gọi là “con người” có sinh, có già, có bịnh, có chết, có khổ, có lạc, có xả một cách tự nhiên, vô tư, vô ngã.

Nhưng khi sự tương - quan - vận - hành - tâm - sinh - vật lý này bị nhìn qua ảo tưởng vọng thức (Tập đế) thì liền trở thành bản ngã cùng với sự xuất hiện của ảo giác thời gianđau khổ (Khổ đế). Bấy giờ không phải là sinh - lão - bịnh - tử tự nhiên nữa mà là luân hồi sinh tử của bản ngã vọng chấp.

Ngược lại, khi sự tương - quan - vận - hành - tâm - sinh - vật lý này được trí tuệ soi chiếu (Đạo đế) thì không còn ảo tưởng vọng thức, không còn ảo giác thời gianđau khổ, nghĩa là toàn bộ luân hồi sinh tử của bản ngã chấm dứt (Diệt đế). Ngay khi đó, thế giới tự nhiên tâm - sinh - vật lý được trả về đúng với bản chất nguyên thủy của nó: Sinh - Lão - Bịnh - Tử “hiện toàn chân”như thị như thực (yathàtathatà), chẳng cần thêm bớt.

Người mê không lo giải thoát khỏi sinh - lão - bịnh - tử của ngã kiến vọng chấp, lại cứ lo can thiệp vào bản chất sinh - lão - bịnh - tử tự nhiên tâm - sinh - vật lý. Ví như người quáng mắt tưởng sợi giây là con rắn rồi cứ nhè sợi giây mà đánh, chỉ tội cho sợi giây bị đòn oan trong khi con rắn ảo thì muôn đời vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi!

 


 

38. SẮC KHÔNG

Sư ghé thăm một vị tăng nổi tiếng uyên thâm Phật Pháp và có nhiều sở đắc. Vừa thấy Sư, vị tăng dùng phép thần thông ẩn mình đâu mất.

Sư hỏi:

- Ông làm gì vậy?

Vị tăng nói:

- Đó là “sắc tức thị không”.

Sư nói:

- Đã “sắc tức thị không” sao ông lại phải biến mất làm gì. Hơn nữa ông chỉ mới giấu được cái sắc thân, còn cái bản ngã của ông xem ra lại càng lộ rõ hơn!

Vị tăng cả giận hỏi lại:

- Còn Thầy thì sao?

Sư đáp:

- Ngươi không thấy ta “sắc bất dị không” hay sao?

Lời góp ý: 

SẮC KHÔNGvấn đề được bàn cãi hàng ngàn năm vẫn chưa ngã ngũ. Và tiếc thay nó đã trở thành một triết lý đầu môi! Tất nhiên là vậy, vì đây đâu phải là VẤN ĐỀ để lý luận, mà chính là SỰ KIỆN thân chứng (kàyasakkhì) hoặc thấy bằng con mắt tuệ (pannacakkhunà passati).

SẮC không phải là SẮC TƯỚNG - đối tượng của nhãn căn, không phải là SẮC THÂN - bao gồm tứ đại, không phải là SẮC PHÁP - đối nghĩa với Danh pháp.

SẮC dùng trong ngũ uẩn là sự tập khởi của một diễn trình tương duyên, tương tác và tương ứng giữa sáu căn, sáu trần và sáu thức (mười tám giới). Vậy SẮC không phải là một hiện hữu cố định hay có sẵn, mà là một phản ứngđiều kiện. Ngay khi ta đang ngồi đây, SẮC có thể có, có thể không tùy theo điều kiện tập khởi

Nhưng SẮC có hay không chẳng có gì quan trọng, có cũng được mà không cũng được. Quan trọng là ở chỗ CÁI NHÌN. Nếu cái nhìn là ảo tưởng vọng thức (Vipallatthasanna) thì có - không đều là ảo ảnh (màyà), như người nằm mộng, thấy có thấy không đều là mộng.

Nếu cái nhìn là Tuệ Không Quán Chiếu (Sunnanupassananana) thì có - không đều như thị. Không - có chẳng rời, có - không chẳng khác.

 Trong mộng có - không đều ảo mộng

 Tỉnh ra không - có cũng hoàn không

 Mặc ai có có không không đó

 Lặng lẽ hồn nhiên một nụ cười.

 


39. KHÔNG CÓ AI CẢ

Sư đang quét sân, thiền sinh hỏi:

  - Thế nào là thiền?

Sư nói:

- Quét sân, quét sân...

Thiền sinh thắc mắc:

- Vậy ai quét sân cũng là thiền sư sao?

 Sư nói:

- Không có ai quét sân cả.

 ۞

Lời góp ý: 

 Thế nào là thiền?

Ngay khi “lý trí muốn biết” lang thang dong ruổi tìm đạo tìm thiền, thì than ôi, thiền đã xa xôi ngàn dặm ra đi!

Thấy thế, Sư vội đánh thức gã “túy sinh” trở về thực tại. Nhưng ngay nơi thực tại hắn lại toan đội lốt mọc sừng”.

Một lần nữa, Sư lại ra tay lột mặt nạ cái gã “mộng du” bép xép. Chảng biết gã có thấy ra được “mặt mũi xưa nay” của mình không?

  Ra đi khắp bốn phương trời

 Tìm ai mỏi gót muôn đời còn xa

 Ta về gặp lại tình ta

 Dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân

 


40. XIN HOÃN LẠI

Một tục gia đệ tử đến bái yết Sư, muốn biết anh ta tu bao lâu nữa mới đạt đến Niết Bàn.

Sư nói:

- Còn lâu lắm.

Nghe vậy, người đệ tử vô cùng chán nản.

Nhưng Sư lại nói tiếp:

- Thôi được, ta có pháp môn này có thể đạt đến Niết Bàn ngay, để ta dạy cho ngươi.

Bấy giờ người đệ tử bối rôi thưa:

- Thưa Thầy, chưa được, để hoãn hoãn cho con thu xếp việc nhà đã. 

۞ 

Lời góp ý: 

Phần lớn người tu ai cũng nói đến mục đích giác ngộ giải thoát: viễn lý điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Nhưng trên thực tế, người ta lại cố tình trì hoãn.

Người ta viện đủ lý do chính đáng, những lý do trì hoãn cực kỳ thiện xảo tinh vi, những nhãn hiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy: nào hạnh nguyện vị tha, nào vào ra sinh tử độ tận chúng sanh, nào dấn thân nhập thế cư trần bất nhiễm..., thế là đã có chỗ ẩn náu an toàn cho bản ngã ung dung làm trò múa rối!

Những bậc Đại Bồ Tát nghe chúng sanh viện lẽ cũng phải cười dài, tội nghiệp cho chúng sanh mê muội cứ tưởng giác ngộ giải thoát là chẳng còn gì tất, nên nấn ná đầu sào trăm trượng chẳng dám nhảy bước cuối cùng, đâu hay chính lúc đó “thập phương thế giới hiện toàn chân”.

Như xưa có một vị hoàng tử từ nhỏ bị lạc vào rừng. Tù trưởng bộ lạc thấy dễ thương đem về cho chơi với bọn trẻ. Để hoàng tử khỏi buồn, Tù trưởng bày trò chơi “vua tôi” cho bọn chúng và bảo hoàng tử làm vua, bọn trẻ con bộ lạc làm thần dân, suốt ngày vui chơi thỏa thích, quên cả nhớ nhà. Một hôm, vua cha sắp băng hà, sai các vị đại thần đi tìm hoàng tử về nối ngôi. Khi tìm được hoàng tử, các đại thần khẩn khoản cầu xin hoàng tử hồi cung đăng quang kế vị. Hoàng tử nghĩ: “Bây giờ ta đã làm vua rồi còn về cung làm gì nữa, biết có hơn gì không?” Thế là hoàng tử viện cớ trí hoãn chẳng chịu trở về, say mê chơi trò con nít !!! 

 Ham chơi trò con nít

 Ôi lộng giả thành chơn

 Biết bao giờ tỉnh ngộ

 Nhìn thấy tận nguồn cơn.

 


 41. VĨNH CỬU

 Một đạo sĩ du già tin rằng một ngày kia, sau khi đã dày công khổ luyện, ông sẽ thoát khỏi thế giới huyễn hóa (màyà) này để đạt đến một cõi vĩnh hằng, ở đó, con người mãi mãi trường sinh bất tử. Đạo sĩ trình bày với Sư quan điểm đó để xem Đạo Phật lý giải thế nào. ông hỏi:

- Đạo Phật có tin một thế giới vĩnh cửu không?

Sư chỉ một giọt sương trên đóa hoa phù dung vừa mới nở, nói:

- Có, đây chính là thế giới vĩnh cửu.

Đạo sĩ ngạc nhiên:

- Đức Phật cũng nói “các pháp hữu vi là vô thường” kia mà?

Sư nói:

- Thế ông tưởng cái gì lâu dài mới vĩnh cửu sao?

۞ 

Lời góp ý: 

Nghe Lão Tử nói đến đạo thường, các đạo gia liền mơ tìm cõi đào nguyên trường sinh bất tử. Nghe Phật nói Pháp tướng vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh thì lý trí liền vẽ ra một thể tánh thường - lạc - ngã - tịnh làm mục đích trốn chạy cõi vô thường, để rồi người ta đổ xô đi tìm... viễn mộng!

Lầm lẫn đáng thương nhất trên đời là đồng hóa vĩnh cửu với thời gian. Vĩnh cửu không hề đối nghịch với vô thường. Vĩnh cửu mà tìm ngoài vô thường, cũng như pháp tánh mà tìm ngoài pháp tướng thì chỉ gặp lông rùa sừng thỏ, uổng công dã tràng xe cát!

Còn bản ngã thì còn ý niệm, còn ý niệm thì còn thời gian, còn thời gian thì chẳng bao giờ thấy được vĩnh cửu! Nhưng ngay khi bản ngã, ý niệmthời gian chấm dứt thì liền thấy vĩnh cửu đang du hí thần thông trong trò chơi ảo hóa vô thường.

 Vĩnh cửu mong tìm mà chẳng được

 Vô thường muốn bỏ lại cưu mang

 Mai sau nhắn với hàng con cháu

 Chớ mất công toi chuyện dã tràng!

 


42. XUẤT MÔN

 Một chú tiểu đang say mê nghiên cứu cuốn “Diệu Pháp Nhập Môn”, thỉnh thoảng đắc ý nói một mình: “Thật là tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!”

Sư đi ngang qua nói:

- Ngươi đọc xong cuốn đó ta sẽ cho học “Diệu Pháp Xuất Môn”.

- Bạch Thầy, nhập được môn này con thấy kỳ diệu quá sao lại xuất môn?

Sư nói:

- Bởi vậy người ta mới nói nhập môn đã là kỳ diệu mà xuất môn lại càng kỳ diệu hơn.

۞ 

Lời góp ý: 

Xưa có hai cha con ông bá hộ, vì chiến tranh loạn lạc phải bỏ nhà ra đi tha phương cầu thực. đến lúc thái bình thì người cha đã già yếu sắp lìa bỏ cõi trần. ông bá hộ bèn viết chúc thư giao lại tòa lâu đài của ông tại quê nhà cho con. Trong chúc thư ông tả rõ đường về quê cũ, dáng dấp ngôi nhà và từng công dụng chi tiết của những vật báu bên trong.

Người con hằng ngày cứ ngồi đọc chúc thư với lòng tự hào hãnh diện rằng mình là chủ nhân của một tòa lâu đài tráng lệ. Càng đọc, anh càng say mê với sự kỳ diệu của những vật báu trong kho tàng vô giá.

Có người thấy thế hỏi: “Kho tàng quý giá của anh hiện giờ ở đâu?” Anh tự hào chỉ chúc thư và nói: “Thì đây chứ còn đâu nữa!”

Diệu Pháp (Abhidhamma) là một trong ba tạng giáo điển của nhà Phật. Diệu Pháp cũng chính là đệ Nhất Nghĩa đế (chân lý rốt rạo - paramatthasacca). Như vậy, Diệu Pháp vừa có nghĩa là ngôn ngữ chỉ bày thực tại, vừa có nghĩa là chính tự thân thực tại. Nhưng khi một người còn say mê với ngôn ngữ kỳ diệu nói về thực tại thì có nghĩa là anh ta chưa hề thấy thực tại kỳ diệu bao giờ. 

 Mau mau thoát khỏi rừng kinh điển

 Mở mắt mà xem chuyện gì đây

 Chớ luận Tam Hoàng rồi Ngũ đế

 Cũng đừng nằm mộng giữa ban ngày.

 


43. THÁNH KHÔNG BIẾT ĐAU

Thị giả của Sư nghe người ta kể rằng chủ nhà của hiền triết Epitète đối xử với ông rất tệ. Người chủ cho vặn chân Épitète để tiêu khiển. Nhà hiền triết nói:

- Nếu ngài tiếp tục thì chân tôi sẽ gãy.

Nhưng người chủ vẫn tiếp tục và chân ông gãy thật. Epitète ôn tồn nói:

- Đấy, tôi nói có sai đâu.

Nghe xong, thị giả cứ khen hoài: “Thật là một nhà hiền triết siêu việt!” Rồi thị giả chợt nghĩ rằng: “Thầy mình là một thiền sư nổi tiếng, vậy để xem có bằng Épitète không?” Nhân Sư đang nằm nghỉ, thị giả tụm lấy chân Sư vặn mạnh. Sư nói:

- Đau, đau.

Thị giả thất vọng nói:

- Còn đau thì đâu phải là đạt đạo!

Sư nói:

- Chứ ngươi muốn ta đạt cái đạo vô cảm giác hay sao?

Lời góp ý: 

Đạt đạo không phải là luyện thành mình đồng da sắt, mà đơn giản chỉ là đau thấy đau, lạnh thấy lạnh, trong sáng bình thường chẳng cần thêm bớt. Nhưng phần lớn người tu không chịu nổi “bình thường tâm thị đạo” nên tự đặt cho mình những lý tưởng phi thường, những sở đắc siêu nhiên.

Nhưng sở đắc chỉ là con đẻ của vô minh ái dục, dù sở đắc có vĩ đại cách mấy cũng chỉ là ảo mộng.

Khí công thượng thừa, định lực kiên cố, pháp thuật cao cường, thần thông quảng đại, v.v... là những mục đích hấp dẫn của người tu luyện. Thế là trần gian trở thành một... trường đua vĩ đại!

Càng đấu tranh, càng tiến bộ, càng đạt nhiều thành quả, càng bước lên địa vị cao siêu thì lại càng xa đạo. Vì sao vậy? Vì đó chỉ là con đường bành trướng của bản ngã mộng mơ.

Tu là bỏ. Bỏ là không chấp trước, chứ không phải lấy - bỏ theo nghĩa thường tình. đạt đạo là bỏ hết, chẳng những không còn một chút ảo tưởng mộng mơ, mà ngay cả Niết Bàn cũng không chấp trước (Nibbànam n’àbhinandati - Kinh Căn Bản Pháp Môn, Trung Bộ Kinh). Chư Phật và A La Hán không phải là địa vị sở đắc như người ta lầm tưởng, mà chính là dẹp hết chẳng còn SỞ gì để đắc, phá hết chẳng còn ĐỊA nào để đứng.

Khi nghe nói vậy, chúng sanh sợ khiếp, bèn vội vàng lập địa vị để tu, bày sở cầu để chứng. Không biết rằng: “Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc”, chẳng luyện, chẳng đắc, chẳng cầu, chẳng chứng.

 Trong ngoài lặng lẽ chẳng vin đâu

 Sáng suốt hồn nhiên khỏi vọng cầu

 Buông hết một phen đừng luyến tiếc

 Ai hay ngay đó thấy đạo mầu.

 


44. LÀM CHỦ

 Chủ nhân một xí nghiệp lớn nọ xin vào thiền viện cư thất một tháng. ông rất tinh tấn nên ai cũng nghĩ là ông sẽ thành công như ông đã thành công trong việc điều hành xí nghiệp.

Nhưng khi ra thất, ông bạch với Sư:

- Con đã cố gắng, nhưng sao chưa làm chủ được mình?

Sư nói:

 - Tại ông đã quen cái nghề làm ông chủ mất rồi!

۞ 

Lời góp ý: 

Nguyên nhân gây ra ba cõi không yên như ngôi nhà cháy chính là bản ngã, đứa con cưng của vô minh ái dục. Vậy mà người tu cứ bất mãn với bản ngã này, rồi dựng lên bản ngã khác cao thượng hơn, hoàn hảo hơn,..., rồi lại bất mãn, rồi lại dựng lên..., cứ thế mà luân hồi sinh tử, trôi lăn ba cõi sáu đường.

Bản ngã nhỏ (tiểu ngã) thì khổ nhỏ, bản ngã lớn (đại ngã) thì khổ lớn, chạy trời không khỏi nắng được đâu.

Trong bản ngã hàm chứa ý niệm, thời gianđau khổ nên tự nó chẳng bao giờ viên mãn. Bản ngã này vừa mới sinh ra thì kẻ bất mãn bản ngã cũng vừa xuất hiện. Kẻ bất mãn đòi phê phán, sửa sai và làm chủ bản ngã, có ngờ đâu, chính hắn cũng là bản ngã, cho nên ngay sau lưng hắn, một kẻ bất mãn khác cũng đã trực chờ. Vậy biết bao giờ ai làm chủ được ai?

Xưa có người nằm mơ, thấy mình lọt vào một ngôi nhà kính vạn hoa, anh bỗng thấy mình phân thân cùng khắp. Chẳng biết ai là chân, ai là giả. Anh cười, những người kia cũng cười; anh giận, những người kia cũng giận; anh nói chúng là ảo ảnh, chúng cũng bảo anh là ảo ảnh;... Cãi vả om sòm, hét la ầm ĩ cho đến khi tất cả đều té nhào ngất xỉu. Giật mình tỉnh dậy chẳng thấy một ai, té ra, tất cả chỉ đều là mộng.

 Tu hành lấy vọng để cầu chân

 Nào có hay đâu vọng hai lần

 Chẳng vọng chẳng chân, ngay tại đó

 Bản lai diện mục hiện toàn chân.


 


45. SAO LẠI HỎI TÔI

Người học đạo thường muốn hiểu chữ tâm họ tìm tòi trong Abhidhamma (thuộc Nam Tông) hoặc Duy Thức Luận (thuộc Bắc Tông) để phân tích cho rành rẽ thế nào là tâm. Nhưng khi bước vào các môn luận này, họ đụng phải một rừng thuật ngữ chuyên môn, nào bằng tiếng Pàli, nào bằng tiếng Sanskrit, lại còn cả những từ ngữ chữ Hán nữa. Đó là chưa kể việc các môn học này cũng chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về nhiều vấn đề. Vì vậy, người học tưởng chừng sáng được cái tâm, ai dè càng thêm tăm tối.

Một học giả đành đến tham vấn Sư:

- Thưa Ngài! Thức, tâm, ý, tình, trí v.v... khác nhau như thế nào?

Sư nói:

- Ủa, cái đó anh tự hỏi anh chứ sao lại hỏi tôi?

۞ 

 

Lời góp ý: 

Biết bao người có thói quen tìm chân lý trong ngôn ngữ.

Thuộc lòng một số định nghĩa trong kinh, trong sách đã ba hoa nói chân nói lý. Còn tự thân chân lý thì chẳng biết nơi đâu mà tìm cho được.

Lấy kinh luậnnghiên cứu tâm đã là chuyện buồn cười, lại nhè người khác mà vấn nạn tâm thì quả là đáng khóc.

 Hướng ngoại cầu tâm tâm chẳng ổn

 Đem tâm kiếm đạo đạo còn lâu

 Tâm ở gốc tâm sao chẳng thấy

 Đạo còn nơi đạo mãi tìm đâu?


46. THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

Mặc dù đã học nhiều kinh sách cũng như đi nghe giảng pháp ở nhiều đạo tràng, anh ta vẫn không hiểu đích xác “Thập Nhị Nhân Duyên” là gì. Cuối cùng anh đến tham vấn Sư:

 - Xin Thầy chỉ cho pháp Thập Nhị Nhân Duyên.

Sư nói:

- Anh vừa bỏ mất một bài Thập Nhị Nhân Duyên rồi!

Tưởng Sư vừa giảng xong bài pháp đó mà anh đến trễ, chàng thanh niên đành để dịp khác. Ít lâu sau, anh đến lại xin hỏi về Thập Nhị Nhân Duyên. Sư nói:

- Anh lại vừa để mất một bài Thập Nhị Nhân Duyên nữa!

۞ 

 Lời góp ý: 

Đức Phật dạy: “Thấy thập nhị nhân duyên tức thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Như Lai”.

Ngài Huyền Giác nói: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh”.

Hai câu nói hoàn toàn đồng nghĩa.

Thấy thực tánh vô minh tức là minh. Minh tức là giác, giác tức là Phật tánh, Phật tánh tức Như Lai. Thấy thực tánh vô minh tức thấy “y tánh duyên khởi pháp” của thập nhị nhân duyên.

Nói thập nhị nhân duyên dành cho Duyên Giác là chuyện ấu trĩ thật buồn cười. Không ai thành Phật mà không thấy thực tánh của vô minh, không ai giác ngộ mà không có con mắt thấy Pháp (Pháp nhãn). Tất cả Bồ Tát đều phải giác ngộ y tánh duyên khởi của thập nhị nhân duyên.

Thập nhị nhân duyên lại không khác Tứ đế. Phân Tứ đế cho Thanh Văn, Nhân Duyên cho Duyên Giác lại là chuyện buồn cười hơn nữa. Vô minh tức Tập đế. Vô minh tạo ra ảo giác sinh tử khổ đau tức Khổ đế. Thấy thực tánh vô minh tức đạo đế. Vô minh chỉ là ảo tưởng không có thật, nên thấy thực tánh vô minh có nghĩa là thấy vô minh không có thực tánh, hay nói một cách khác, vô minh diệt tức Diệt đế. Vậy Thập Nhị Nhân Duyên là một cách nói khác của Tứ đế mà thôi.

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát-nhã-ba-la-mật-đa chính là tu Đạo Đế. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không: ngũ uẩn tức Tập Đế, giai không tức Diệt Đế. độ nhất thiết khổ ách: khổ ách tức Khổ Đế. Vậy Bồ Tát muốn đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu Tam-bồ-đề phải tu Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên. Tất cả chư A La Hán Chánh Đẳng Giác đều đã thấy năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhân duyên, bốn Đế giai không y như nhau cả.

Tiếc thay người mê chỉ học Pháp trên ngôn ngữ rồi luận Bắc luận Nam, nói đại nói tiểu mà bỏ mất bài học của Pháp ngay chính nơi thực tại hiện tiền.

 


 47. PHẨM PHỔ MÔN THẬT

 Một bà tín nữ thường ngày tụng niệm Phẩm Phổ Môn nhiều lần, tin rằng sẽ tai qua nạn khỏi và cầu gì được nấy. Chẳng bao lâu bà thấy có nhiều ứng nghiệm.

Nhân đến trình pháp với Sư, bà nói:

- Thưa Thầy, con tụng Phẩm Phổ Môn thấy quả thật linh ứng.

ngạc nhiên nghĩ thầm: “Bà này mới tụng Phổ Môn giả mà hiệu nghiệm như thế, huống chi nếu bà tụng được Phẩm Phổ Môn thật!”

۞

Lời góp ý: 

Tất cả kinh giáo đều như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng mới là “kinh thật”, còn ngón tay chỉ là “kinh giả” lập phương tiện. Nghe nói Phẩm Phổ Môn cầu gì được nấy, người ta chẳng cần đọc hết kinh Pháp Hoa làm gì, cứ một Phẩm Phổ Môn là đủ cầu Đức Quán Thế Âm ban cho đủ điều ước nguyện. Có ngờ đâu đóPhẩm Phổ Môn giả, còn Phẩm Phổ Môn thật lại chính là pháp tu “phản văn tự kỷ” mà mỗi người phải tự đóng vai Đức Quán Thế Âm để tự nghe tự độ. Chỉ cần thất niệm bất giác, phóng dật hướng ngoại là mất ba mươi hai thân! Mỗi người phải biết làm Đức Quán Thế Âm hay làm Quán Tự Tại Bồ Tát để “phản văn tự kỷ mỗi thường quan”. Cho nên, kinh Lăng Nghiêm nói rõ Đức Quán Thế Âm điển hình đã “sơ y văn trung nhập lưu vong sở” cho đến khi “tịch diệt hiện tiền” thì “nhĩ căn viên thông” trong ngoài nghe suốt. Nhưng không phải nghe như thiên nhĩ thông của chư thiên đâu, đây là cái nghe của người giác ngộ, nghe bằng trí tuệ quán chiếu (Vipassanà nàna). Vậy Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại là lắng nghe soi chiếu thế giới tự thân cho đến khi thông suốt trong ngoài là nhĩ căn viên thông vậy. 

Xưa có anh chàng khờ may được một cuốn Thần Dược Thư. Trong đó nói có một vị Thần Y chữa lành bá bịnh và ghi rõ cách chữa trị của người. Chàng khờ nghe nói Thần Y chữa lành bá bịnh liền ngày đêm cầu nguyện Thần Y, nhưng bịnh anh càng ngày càng nặng. Xóm giềng thấy vậy hỏi sao anh không theo toa trong sách mà bổ thuốc về uống, cầu nguyện làm gì. Anh khờ nổi giận bảo hàng xóm là đồ ngu, chẳng tin thần thánh, rồi tiếp tục ngồi cầu!

 


48. KHÔNG MẤT MÁT GÌ

Sư đang đi kinh hành. Một thiền sinh đến hỏi:

- Làm sao thấy được chân tướng của vạn pháp?

Sư nói:

- Bỏ ý nghĩ đó đi.

- Như thế không cần thấy chân tướng của vạn pháp sao?

Sư mắng:

- Ngươi thấy hay không thấy thì chân tướng của vạn pháp đâu có mất mát gì.

۞ 

Lời góp ý: 

Thấy tánh thấy tướng mà còn khởi “ý niệm thấy” thì tánh tướng đó chỉ là hoa đốm giữa hư không trước con mắt bịnh. Dầu có ai thấy hay không thấy thì tánh tướng vẫn y nhiên thong dong tự tại. Vậy chẳng thà đừng thấy còn hơn thấy lầm thấy bậy. Vì thấy lầm chỉ khổ cho mình, cho người chứ tánh tướng có mất mát gì đâu.

Kinh Aggi-vacchagotta nói: “Kết luận pháp là thường, vô thường, hữu biên, vô biên, đồng nhất, dị biệt, có, không, vừa có vừa không, không có không không,... đều là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, tàn hại, não hại, nhiệt não, không hướng đến yếm ly, ly tham đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn”.

Vậy chớ có bắt chước Thánh Nhân mà gạn cho pháp những nhãn hiệu vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh hay thường , lạc, ngã, tịnh rồi đảo điên tánh tướng, bôi bác chân như (yathàbhùta), nhiễu loạn tín chúng.

Xưa có đứa con ngu dốt, mời Thầy thuốc về chữa bịnh cho mẹ. Thầy thuốc bắt mạch, kê toa, dặn dò liều lượng chu đáo. Quả nhiên mẹ uống vài thang đã hoàn toàn bình phục. Đứa con thấy thuốc hay, liền tự xưng Thầy thuốc, chữa bịnh cho người. Bất kỳ bịnh gì anh cũng cho toa thuốc đó với liều lượng y nguyên. Bịnh chẳng thấy lành, nhiều người chết oan. Cuối cùng bị vua bắt đem ra pháp trường xử trảm.

 Thấy thì nên nói thấy

 Không thấy cứ bảo không

 Chẳng thà rằng không thấy

 Còn hơn thấy bông lông.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11444)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10531)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10808)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9877)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9551)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12906)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13319)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13470)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19847)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12545)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13266)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13555)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13027)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12380)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18586)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10694)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12411)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11005)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11206)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14708)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22615)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11594)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10179)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34553)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17750)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32712)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22122)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11223)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17598)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17167)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10702)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10864)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9602)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10614)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10608)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10559)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12483)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12418)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9990)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13225)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9733)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9126)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11826)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13486)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12075)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11299)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11613)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10340)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10261)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10911)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28230)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10811)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7414)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9337)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11774)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11671)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11109)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10320)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10272)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13811)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14969)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10504)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11907)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10894)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10533)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10658)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9910)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10675)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9303)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10194)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10524)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10614)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10537)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10116)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9836)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13549)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16327)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13483)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11566)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11130)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11100)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12195)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15357)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10620)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11706)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10622)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11093)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10030)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10405)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11418)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11017)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12937)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24396)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12619)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10303)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28685)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19360)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10953)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23355)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant