Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện Đời Không Huyền Thoại Của Vị Thiền Sư Nổi Tiếng Nhất Trung Quốc

02 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12395)
Chuyện Đời Không Huyền Thoại Của Vị Thiền Sư Nổi Tiếng Nhất Trung Quốc
CHUYỆN ĐỜI KHÔNG HUYỀN THOẠI
CỦA VỊ THIỀN SƯ NỔI TIẾNG NHẤT TRUNG QUỐC

Bằng Hư

Kể từ Bồ Đề Đạt Ma mang Thiền tông tới Trung Quốc cho tới thời Huệ Năng thì Thiền tông đã truyền được 5 đời, song chỉ tới vị tổ đời thứ 6 này thì Thiền tông Trung Quốc mới trở thành một dòng riêng, có đường lối rõ rệt và vững chắc. Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông với những câu chuyện đậm chất huyền thoại. Tuy nhiên, vẫn có một Lục Tổ Huệ Năng bằng xương bằng thịt và câu chuyện đời hoàn toàn không thần thánh…

Từ bài kệ xuất thần của kẻ ngoại đạo


Huệ Năng vốn mạng họ Lư, quê gốc tổ tiên vốn ở Hán Dương, Hà Bắc, đến đời cha ông là Lư Hành Thao thì gia đình chuyển đến Tân Châu, Lĩnh Nam, (nay là huyện Tân Hưng, Quảng Châu). Huệ Năng sinh vào năm 638, tức năm Trinh Quán thứ 12 đời nhà Đường. Khi Huệ Năng còn rất nhỏ thì cha ông qua đời, gia cảnh trở nên khốn quẫn, ông cùng mẹ phải chuyển tới Nam Hải, sống dựa vào nghề bán củi.


Một hôm, đang bán củi trong thành, Huệ Năng nghe có người trong quán tụng “Kinh Kim Cương”, tự nhiên thấy có hứng thú nên dò hỏi người tụng kinh nguồn gốc bài kinh vừa tụng. Người tụng kinh nói rằng đã tu học với thiền sư Hoằng Nhẫn tại chùa Đông Thiền, núi Phùng Mao, Hoàng Mai (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc).


Nghe xong, Huệ Năng đã có ý muốn tìm Hoằng Nhẫn để cầu học, nhưng lại sợ mình bỏ đi như vậy không ai lo cho mẹ già ở nhà. Sau đó, có người biết chuyện cho Huệ Năng 10 lạng bạc để lo cho mẹ. Huệ năng sắp xếp cho mẹ xong, quyết tâm bắc hành, tìm thầy cầu Phật. Hai năm sau đó, vào năm 672, Huệ Năng tìm tới chùa Đông Thiền gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.


blankblank
Cổng và chính điện chùa Nam Hoa nơi thờ nhục thân bất hoại Lục Tổ Huệ Năng

Thời bấy giờ, người phương Bắc vẫn coi những tộc người thiểu số phương nam là dân di mọi, có ý rất xem thường. Huệ Năng vốn sinh ra ở vùng Lĩnh Nam, sau đó lại chuyển xuống Nam Hải sống bằng nghề bán củi, thành ra trong mắt những người phương Bắc, Huệ Năng cũng là dân di mọi, khó có thể giáo hóa được. Chính vì vậy, khi nhìn thấy Huệ Năng tìm đến chùa của mình, Hoằng Nhẫn đã hỏi: “Cư sĩ từ nơi nào tới, muốn cầu điều gì?” Huệ Năng thành thật trả lời: “Đệ tử là người Lĩnh Nam, chỉ cầu làm Phật!”.

Hoằng Nhẫn nghe xong nói: “Người là người Lĩnh Nam, lại là kẻ di mọi, làm sao thành Phật?”. Huệ Năng kiên cường đáp: “Người có chia Nam Bắc nhưng Phật tính thì nào chia Nam Bắc? Phật tính của thầy với Phật tính của kẻ di mọi không có gì khác biệt, thầy có thể thành Phật thì đệ tử cũng có thể thành Phật”. Hoằng Nhẫn thấy Huệ Năng đối đáp nhanh lẹ, lại tỏ ra là người thông hiểu Phật pháp, không nhận làm đệ tử nhưng cho ở lại chùa, sai làm công việc vặt trong nhà bếp.


Từ đó, Huệ Năng bắt đầu ở lại chùa Đông Thiền làm nhiệm vụ chẻ củi, gánh nước, giã gạo trong nhà bếp. Tuy nhiên, vì một lòng cầu Phật, nên mặc dù bị mọi người trong chùa khinh rẻ, coi thường, Huệ Năng vẫn nỗ lực học hỏi, mong một ngày có thể xuất gia, giác ngộ.


Khi Huệ Năng làm việc trong nhà bếp chùa Đông Thiền được 8 tháng thì một hôm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lệnh cho các học trò mỗi người viết một bài kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ của mình. Khi đó Hoằng Nhẫn tuổi đã cao nên muốn qua bài kệ của các học trò tìm ra người có đủ phẩm chất và trí tuệ để truyền y bát, kế thừa vai trò Tổ Thiền, trở thành Lục Tổ.


Trong đám học trò của Hoằng Nhẫn lúc bấy giờ, người nổi tiếng nhất có Thần Tú. Sau khi nhận lệnh của thầy, các học trò khác đều cho rằng, trong chùa chỉ có Thần Tú xứng đáng là người được truyền y bát, trở thành Tổ thứ 6 nên mọi người chẳng ai bảo ai, không có người nào làm bài kệ trình lên Hoằng Nhẫn, có ý nhường lại cho Thần Tú.


Thần Tú cũng biết việc đó, song nếu như làm bài kệ trình lên thầy thì hóa ra mình tham ngôi Tổ, còn nếu không làm thì lại sợ trái lệnh thầy nên băn khoăn mãi. Cuối cùng, Thần Tú nghĩ ra một cách là đem bài kệ mình làm ra viết lên bức tường dưới mái hiến đặt phía trước giảng đường, định rằng, nếu Hoằng Nhẫn thấy bài kệ của mình mà chấp nhận thì sẽ nói đó là kệ của mình, còn không thì tự mình sẽ lui về chốn rừng sâu để mai danh ẩn tích.


Bài kệ của Thần Tú viết rằng: “Thân thị Bồ đề thụ, Tâm như minh kính đài, Thời thời cần phất thức, Mạc sử nhạ trần ai”. Nghĩa là, bản thân con người như cây Bồ đề, tấm lòng giống như chiếc đài gương, vì vậy cần phải thường xuyên lau chùi, để giữ cho tâm hồn trong sạch, không nhiễm bụi trần.


blank
Lục Tổ

Các đệ tử trong chùa thấy bài kệ, ai cũng tấm tắc khen hay truyền nhau tụng niệm. Đêm hôm đó, Hoằng Nhẫn cho gọi Thần Tú vào phòng, nói rằng, bài kệ ấy chứng tỏ Thần Tú vẫn chưa thấy được Phật tính, mới chỉ ở ngoài ngõ chứ chưa vào được bên trong. Ngũ Tổ bảo Thần Tú hãy lui ra suy nghĩ tiếp để làm kệ khác trình lại, nếu được thì Tổ sẽ truyền trao y bát, truyền lại ngôi Tổ cho. Thần Tú vâng lệnh lui ra nhưng qua vài ngày sau vẫn không làm được bài kệ, đi đứng chẳng yên, tinh thần không được vui vẻ.

Qua ngày hôm sau, khi Huệ Năng còn đang mải mê giã gạo trong bếp thì nghe thấy một chú tiểu ngâm nga đọc bài kệ của Thần Tú. Huệ Năng hỏi chú tiểu đọc bài kệ của ai, chú tiểu mới kể lại chuyện Hoằng Nhẫn lệnh cho các học trò làm kệ trình thầy và bài kệ trên vách của Hoằng Nhẫn. Huệ Năng nghe xong nhờ chú tiểu đọc lại cho mình nghe bài kệ của Thần Tú, rồi bản thân cũng tự làm một bài kệ. Làm xong bài kệ của mình, Huệ Năng cũng không biết làm cách nào trình lên Hoằng Nhẫn. Huệ Năng vốn không biết chữ nên cũng không thể tự mình viết bài kệ lên vách tường như Thần Tú được.


Cuối cùng, Huệ Năng đành phải tìm người giúp, viết bài kệ của mình lên vách tường. Bài kệ của Huệ Năng viết: “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ hữu trần ai?”. Nghĩa rằng, Bồ đề vốn không phải là cây, gương sáng vốn cũng chẳng có đài, Từ xưa tới nay vốn chẳng có vật gì, vậy thì làm sao mà có chuyện dính bụi được.


Đọc bài kệ của Huệ Năng, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Huệ Năng hơn hẳn so với Thần Tú, nhưng lại sợ nếu mình truyền ngôi Tổ cho một kẻ ngoại đạo lại di mọi như Huệ Năng thì sẽ khó tránh dị nghị mà lại làm hại cho Huệ Năng nên Hoằng Nhẫn quyết định bí mật truyền pháp cho Huệ Năng.


Nửa đêm hôm đó, Hoằng Nhẫn cho gọi Huệ Năng vào phòng và giảng giải toàn bộ “Kinh Kim Cương” cho Huệ Năng nghe. Nghe xong giảng kinh, Huệ Năng đại ngộ, Hoằng Nhẫn khi đó quyết định truyền lại y bát và ngôi Tổ lại cho Huệ Năng. Tuy nhiên, vì Huệ Năng xuất thân thấp hèn nên Hoằng Nhẫn sợ rằng sau khi mình chết đi, những đệ tửdanh vọng trong chùa như Thần Tú sẽ không phục, cho nên ông khuyên Huệ Năng đi về phương Nam và mở rộng Thiền tông ở đó. Huệ Năng nhận y bát, những tín vật truyền tư thời Đạt Ma chính thức trở thành Lục Tổ của Thiền Tông Trung Quốcbí mật trở đi về phía Nam. 


Đến vị thiền sư nổi tiếng nhất lịch sử


Các đệ tử của Hoằng Nhẫn biết chuyện Huệ Năng đã được truyền y bát của môn phái rồi bí mật đi về phương Nam rất tức giận, cho người thăm dò tông tích của Huệ Năng để cướp lại tín vật. Tuy nhiên, vì vùng Lĩnh Nam núi non trùng điệp hiểm trở, người phương Bắc không quen đi lại nên không cách nào tìm ra được tông tích của Huệ Năng.


Về phần mình, suốt hơn 15 năm sau đó, Huệ Năng tìm mọi cách mai danh ẩn tích, sống như một cư sĩ ẩn dật và hàng ngày nghiền ngẫm kinh Phật. Sau đó, vào năm 675, Huệ Năng đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu ở và tu hành. Sư trụ trì ở chùa này khi đó là Ấn Tông đang giảng về “Kinh Niết Bàn” thì trong đám học trò nổ ra cuộc tranh cãi về chiếc phướn vì sao lay động. Có người nói chiếc phướn lay động là do gió, có người lại tranh cãi bản thân chiếc phướn nó lay động, chẳng ai chịu ai, thành ra tranh cãi càng ngày càng gay gắt.


Lúc đó, Huệ Năng đứng ở bên ngoài nghe giảng, mới tiện miệng chen vào một câu rằng: “Gió chẳng động mà chiếc phướn cũng chẳng động, chẳng qua là tâm các người động mà thôi”. Mọi người nghe xong cảm thấy rất lạ, chỉ có Ấn Tông nghe thấy giật mình hỏi: “Nghe nói y pháp Thiền Tông từ Hoàng Mai đã truyền xuống phía Nam, chẳng lẽ lại là ngài đây?”.


Lúc này, Huệ Năng không giấu nữa, tự nhận mình là Tổ đời thứ 6 do Hoằng Nhẫn truyền lại. Ấn Tông nghe xong vội vàng mời Huệ Năng làm lễ cạo đầu, xuất gia, tôn Huệ Năng làm thầy. Hai tháng sau đó, dưới gốc cây bồ đề trong chùa Pháp Tính, Huệ Năng thành lập Thiền Tông phía Nam, gọi tắt là Nam Tông. Ở phía Bắc, sau khi Hoằng Nhẫn qua đời, Thần Tú cũng tự nhận mình là người kế thừa Ngũ Tổ, lập nên môn phái Thiền Tông ở phía Bắc, gọi tắt là Bắc Tông.


blank
Lục Tổ chẻ củi

Nếu như Bắc Tông của Thần Tú chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách để đi đến giác ngộ thì Nam Tông của Huệ Năng lại đề ra lý thuyết “đốn ngộ”, nghĩa là giác ngộ một cách nhanh và bất ngờ.

Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái Nam và Bắc Tông còn kéo dài nhiều thế kỷ sau đó, tuy nhiên, Nam Tông với học thuyết đốn ngộ rất cởi mở của Huệ Năng ngày càng chứng tỏ được ưu thế của mình. Trong khi đó, phái Bắc Tông của Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là đã khô kiệt, không thể phát triển được nữa.


Việc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn quyết định truyền tâm ấn của Thiền Tông cho một người “thấp hèn” và “ít học” như Huệ Năng đã tạo nên một bước chuyển mới cho Thiền Tông Trung Quốc.


Với học thuyết mới mẻ của mình, Huệ Năng cùng với các thế hệ tiếp theo của Nam Tông đã đưa Thiền Tông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống, tạo nên sức sống bền bỉ Thiền Tông cho tới tận ngày nay. Chẳng phải ngẫu nhiên, cái tên Lục Tổ Huệ Năng lại được các đệ tử Thiền môn nhắc tới với sự kính trọngsùng bái đến như vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13521)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14106)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10290)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10758)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11291)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11248)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11410)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10145)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9946)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10682)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11308)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42143)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10465)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11841)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9998)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10445)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10592)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45701)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32085)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10670)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11285)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10608)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13447)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12360)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11011)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10597)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12282)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11131)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11816)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29225)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9195)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10522)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10204)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10546)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10891)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10790)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32102)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17766)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11842)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12240)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10431)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11685)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10409)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10751)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28007)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10125)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10248)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10627)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10758)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11210)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10382)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10683)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11458)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18225)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10499)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12825)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11737)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29130)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28261)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13299)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22756)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13422)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11547)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13786)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26039)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22273)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14467)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12052)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11785)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11680)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11464)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33147)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31818)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12006)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39595)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11948)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14202)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13341)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14296)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12040)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10385)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11214)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13282)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34481)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12597)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12207)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13522)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12600)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12946)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16280)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11708)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28376)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13382)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant