Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Huệ Năng với niềm cô đơn không cùng

22 Tháng Chín 201000:00(Xem: 12632)
Huệ Năng với niềm cô đơn không cùng


“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”

 Nếu sự hiện diện của Bồ Đề Đạt Ma là kẻ đi trong cô đơn nhất, thì sự hiện hữu của Lục Tổ Huệ Năng là kẻ sống với cô đơn nhất. Huệ Năng con người đã được mệnh xưng là kẻ siêu việt trong lịch sử Thiền Tôngcho đến bây giờ chưa một ai có thể đương đầu nổi, một kẻ cô đơn vượt thoát ra ngoài tử sinh chỉ duy nhất một lần nghe kinh.

 

Những lời thuyết pháp của Huệ Năng cho đến bây giờ vẫn còn vang động trong vô cùng, hình bóng của người trở thành biểu tượng cao cả phủ xuống che mát thiền môn, làm tác độngsống lại tinh thầnưng vô sở trụ” mà mười ba thế kỷ trôi qua, ảnh hưởng đó vẫn hiện hữu mãnh liệt trong mỗi con người, trong mỗi thời đại theo sự chuyển vần của thời gian vô cùng, không gian vô tận, bể dâu của cuộc đời. Huệ Năng đắc pháp năm 23 tuổi là một thanh niên đầy đủ tự tin, vùng lên với tất cả khí phách của một kẻ phi thường, hoán chuyển mọi tối tăm trở thành thứ ánh sáng quét sạch bóng đêm phủ xuống cuộc đời chớp nhoáng như điện xẹt.

Từ một chú tiều đốn củi nuôi mẹ bỗng chốc trở thành Thiền Tổ Huệ Năng. Chặng đường cô đơn ban đầu ấy không một sự truyền thừa tra vấn nào cả, nhưng Huệ Năng đã đạt được tâm Phật nhờ một người tụng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

Sự giác ngộ của ngài hẳn nhiên là sự chấn động trực tiếp, đẩy lùi tất cả những dính mắc vướng bận của tâm, chuyển hóa những vướng bận ấy trở thành cơn dông bão mà công năng của nó tàn phá và san bằng những trì trệ ứ đọng trong hành trình tiêu hủy đập phá vô minh.

Huệ Năng đã khai quật nội tâm của mình trong sự cô đơn cùng cực nhất, là người không biết lấy một chữ, không có thầy để trao truyền Phật Tâm, nhưng rồi trở thành một kẻ độc đáo nhất trong việc khơi mở đốn giáo mà chưa có ai sánh bằng. Những tuyệt kỷ và công lựcHuệ Năng tung ra làm đảo lộn hành trình đi đến giác ngộ bằng phương pháp tiệm giáo. Phải chăng nội tâm của Huệ Năng là giải đất bằng mầu mỡ chỉ cần trong tích tắc nào đó là hột gống giác ngộ ấy chổi dậy ngay? Chặng đường của có không, giác ngộ bùng vỡ trong sát na, như nhát dao chém phăng vào thân cây tách rời ra khỏi gốc rễ chằng chịt. Và phải chăng Huệ Năng dùng cả ý lực của mình trong việc chặt phá thân cây như là những nhát dao đoạn trừ sự vướng động của tâm thức? Nếu Huệ Năng giác ngộ từ sự truyền thừa của sư phụ thì điều này không thể gọi là sự cô đơn trong giác ngộ. Và có lẽ trước đó chưa một lần nào Huệ Năng đọc kinh sách bởi lẽ Ngài vốn không biết chữ, thì như vậy sự bùng vỡ của giác ngộ vốn đã được huân trưởng tu tập từ trước. Trường hợp của Huệ Năng khác xa với Huyền Giác trong việc ngộ rồi sau đó mới nhờ thầy ấn chứng. Huyền Giác là một tăng sĩ thuộc thành phần trí thức chuyên tu tập theo kinh luận Phương Đẳng và phép chỉ quán của Thiên Thai, nhưng sau nhờ bộ kinh Duy Ma mà ngài đạt được tâm Phật. Với Huệ Năng, ngài đã không có được điều kiện để đọc kinh sách hay nghiên cứu tu tập từ trước mà sự giác ngộ của ngài trong sự bất chợt thoáng qua, duy nhất một lần nghe kinh và giác ngộ ngay tức khắc. Bù lại điều đó Huệ Năng có một tuyệt kỷ phi thường trong việc mở cánh cửa đi thẳng vào giác ngộ trong sát na, không cần phải đi quanh co. Huệ Năng không biết chữ, nhưng tất cả ẩn nghĩa tiềm ẩn đằng sau văn tự thì Huệ Năng rõ như rõ chính nội tâm giác ngộ nơi ngài. Văn tự chỉ là phương tiện diễn đạt cho kẻ khác hiểu, đằng này Huệ Năng đã hiểu và đang sống trọn vẹn với sự hiểu chân chính đó, thì văn tự nếu không phải thừa với ngài sao? Huệ Năng còn được gọi là kẻ “vô học”. Thật ra không có gì để Huệ Năng phải học cả, tất cả mọi thứ đều không thể nào thoát ra khỏi bổn thể chân như. Huệ Năng đã từ đó mà đi ra nên chỉ việc vung tay là cả càn khôn chấn động, mở miệng là pháp âm thậm thâm vi diệu tuôn trào.

I. CUỘC TRẮC NGHIỆM GIỮA NGŨ TỔ HOẰNG NHẪNHUỆ NĂNG:

Huệ Năng đã âm thầm lên núi Hoàng Mai bái yết Ngũ Tổ trong một tâm trạng giữa mê và ngộ, giữa cái sống và chết, giữa sự quyết định thành tựu giác ngộ hay bung xuống vực sâu của tử sinh. Ngài tìm đến Ngũ Tổ không phải để cầu pháp mà để được trắc nghiệm và nhờ ấn chứng cho sự giác ngộ của mình. Huệ Năng nhờ sự công phá và gõ nhịp liên tục của toàn bộ tinh thần “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cangthành tựu được sự giác ngộ của mình.

Kinh Kim Cangcông năng phá trừ những mê vọng, hiển bày sự giác ngộ chặt tan những nghi ngờ và làm hưng khởi chân tâm một cách toàn triệt. Ngã chấpphá chấp bị san bằng tiêu hủykinh Kim Cang đã thuyết minh. Không trụ vào bất cứ ở đâu, vì không có chỗ nào cần thiết để trụ cả. Còn có quan niệm trụ thì phải trôi lăn trong vòng sinh tử, còn phải tốn công tháo gỡ trói buộc.

Một khi sự chấp trước tham đắm không còn thì tâm như vừng nhật nguyệt, theo đó mới thể nhập trọn vẹn vào giác ngộ. Huệ Năng đã nhờ vào tinh thần đó ngự trị và tác động liên tục không một phút giây nào dừng lại nên Huệ Năng tự tại trong mọi chiều hướng.

Huệ Năng tìm đến Ngũ Tổ không phải để cầu thầy dạy bảo mà chỉ duy nhất phơi bày sự giác ngộ của mình để Tổ ngắm xem.

- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn hỏi Huệ Năng: “Ngươi ở phương nào đến đây muốn cầu việc gì ?”

- Huệ Năng thưa rằng: “Đệ tử người ở Lĩnh Nam, vốn chỉ là một tên thường dân ở Tân Châu, nay lặn lội từ phương xa đến bái lạy Hòa Thượng chỉ cầu làm phật chứ không cầu gì khác.”

- Tổ nói: “Ngươi là người Lĩnh Nam lại thuộc giống mọi rợ làm thế nào mà thành Phật được ?”

- Huệ Năng thưa rằng: “Con người tuy có Nam Bắc, Phật tánh lại chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân Hòa Thượng nhưng Phật tánh không có gì sai khác.

Ngũ Tổ trắc nghiệm Huệ Năng bằng những câu hỏi thông thường dù rằng chỉ để tìm hiểu tông tích của kẻ mới đến, nhưng trong đó đã hàm chứa những ẩn ngữ thâm sâu, nếu khôngnội công thâm hậu không dễ gì thoát được và tạo sự chú ý của ngài. Huệ Năng vốn dứt trừ được sự phân biệt, đối đãi mà yếu nghĩa của kinh Kim Cang tác động liên tục trong ngài, những nghi hoặc, sai biệt bỗng chốc vỡ tung ra từng mảnh, chỉ còn lại tinh thần trong trắng và sự ngự trị của chân tâm tròn đầy. Bằng vào tinh thần ấy, Huệ Năng mới thoát được những đòn bí hiểm thí mạngNgũ Tổ đã trắc nghiệm. Sau đó vì sự có mặt đông đảo của đồ chúng, Ngũ Tổ bảo Huệ Năng lui ra đi xuống dưới làm việc. Hơn tám tháng trường đạp chày giã gạo, chưa hề được phép lên nhà tổ để nghe kinh, nhưng nhờ tinh thần trinh nguyên, và sự nung nấu của kinh Kim Cang, thêm bầu không khí thiền hằng ngày Huệ Năng cảm nhận và chính nhờ vào bài kệ của Thần Tú tác động mãnh liệt trong nội tâm, những hoang mang giữa sự biết gì và không biết gì không còn là sự mơ hồ, mà trở thành những đường nét rõ ràng xuất hiện ngay trong tâm của ngài đè bẹp tất cả sự biết và không biết đó trong một thoáng, từ chú tiều bỗng chốc trở thành Thiền Tổ Huệ Năng.

Bài kệ của Thần Tú viết trên vách tường, Huệ Năng không biết chữ nên nhờ người khác đọc hộ. Âm vang của nó khiến cho Huệ Năng bay bổng lên tận mây ngàn và thấy rằng mình tách rời ra khỏi những sai biệt, dính mắc, mài dũa tâm thức. Nếu không nhờ có Thần Tú hẳn nhiên đã không có Huệ Năng, phải chăng Thần Tú đã tự nguyện mang hạnh nguyện chuyển tiếp cho sự bùng lên của Huệ Năng? Và vô tình Thần Tú trở thành thầy của Huệ Năng theo nghĩa thầy mà không biết hay chưa hề biết mình là thầy. Công ơn của Thần Tú đối với Huệ Năng không ít vậy.

Nếu khôngbài kệ của Thần Tú:

Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Mạc sử nhạ trần ai

Tạm dịch:

Thân là cội bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi bậm

Hẳn nhiên khôngbài kệ của Huệ Năng:

Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?

Tạm dịch:

Bồ đề vốn không cội
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính trần ai?

Những tháng ngày Ngũ Tổ chờ đợi để có dịp trao truyền y bát cho người thừa kế, may mắn thay ngài đứng trước miếng đất tâm đã cày bừa sẵn, hạt giống bồ đề đang chờ đợi cái ấn mạnh tay của ngài là chổi dạy che mát cả bầu trời. Để rồi Huệ Năng với bài kệ ấy được trao truyền y báttâm ấn của Thiền Tông trở thành Lục Tổ Huệ Năng.

Sở dĩ Ngũ Tổ trao pháp cho Lục Tổ (thay vì trao cho Thần Tú), là vì Lục Tổ lặng lẽ mà hợp với đạo, thầm kín mà hội được diệu nghĩa Như Lai.” (Truyền Tâm Pháp Yếu).

Lối canh ba Huệ Năng được Ngũ Tổ phó chúc y bátthuyết kinh Kim Cang cho ngài nghe. Từng lời kinh len lõi vào tận tiềm thức, ngự trị trong đó, để rồi cả cuộc đời của Huệ Năng y cứ vào yếu nghĩa thâm sâu của Bát Nhã phát huy và trao truyền cho nhân thế. Cho đến bây giờ lời kinh ở Tào Khê vẫn còn vang vọng đâu đây trong mỗi con người.

Huệ Năng nhận lãnh y bát trong âm thầm lặng lẽ không một ai hay biết, sau đó Ngũ Tổ đưa Huệ Năng qua sông về phương nam giáo hóa. Huệ Năng đã không thể giảng pháp ngay lúc bấy giờ vì bị quân dữ đuổi, ngài phải âm thầm cô đơn lánh nạn trong nhóm thợ săn gần mười sáu năm trường. Một người đắc pháp trong âm thầm và phải lánh nạn trong thời gian dài như thế thật là sự cô đơn khủng khiếp nhất. Dĩ nhiên sự cô đơn này nói lên tâm trạng của một kẻ vượt thoát ra ngoài tương quan giữa có và không, hiện hữu và mất mát. Và sự cô đơn này cũng có nghĩa vận dụng tất cả những thắng duyên của nội tại, đắm mình trong diệu dụng của chân như, mà không cần sự tác động của bên ngoài.

Khám phá nội tại là điều tối cần trong việc truy tìm uyên nguyên của giác ngộ, những đối tượng bên ngoài chỉ là phương tiện nhất thời, và không một ai có thể đưa ta đến giác ngộ bằng chính ta. Cuộc đời của Huệ Năng quả là sự cô đơn không cùng, chính nhờ sự cô đơn này nung nấu rèn luyện ngài trở thành một người phi thường mà cả mười mấy thế kỷ rồi trong lịch sử Thiền Tông chưa một ai có thể sánh kịp. Với Huệ Năng con người thoát ra khỏi đối đãi nên không thấy nhị nguyên, có không, mà tất cả trở nên vô nghĩa, không trở ngại bước tiến của ngài, dù điều đó được xây dựng trên đông đảo, hay trong cô liêu.

II. KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Những lời thuyết pháp của Huệ Năng đã gây chấn động mãnh liệt và vang dội trong tận cùng tâm thức, làm lung lay những vọng tưởngcon người đang trực diện. Nó tựa như cơn gió lốc cuốn phăng đi những trì trệ ứ đọng mà con người lẩn quẩn trong đó. Điều trước hết và trên hết để đi vào tư tưởng của Huệ Năng cần nhất là phải lắng đọng và thanh tịnh nội tâm của mình. Trong mỗi con người vốn sẵn có bổn lai diện mục, trí tuệ bát nhã, nhưng vì sự bao phủ của những sai biệt nên chìm đắm trong tử sinh. Nếu xoay tất cả những nắm bắt ra bên ngoài, chiếu rọi vào nội tâm làm hưng khởi sự an tịnh thì chặng đường đi đến giác ngộ mới không lạc lối. Sự thanh tịnh bừng lên phải qua quá trình lắng đọng trong những đối diện, tiếp xúc mà không khởi lên những quan niệm tham đắm. Chính sự lắng đọng trong những sinh hoạt từng phút giây là dấu hiệu đạt được thanh tịnhnội tâm.

Dĩ nhiên điều này được thành tựu một khi hành giả buông thỏng tất cả, kể cả ý niệm của thanh tịnh, vì nếu còn vướng bận dù đó chỉ là ý niệm thì vẫn rơi vào vi tế của chấp trước. Như thế hành trình đi đến giác ngộ vẫn còn ngăn cách. Tìm đến tư tưởng của Huệ Năng trong khi tâm thức vẫn còn dong ruổi theo trần thế thì không thể nào cảm nhận được những gì mà ngài đã thuyết giảng chỉ luống công mà thôi, không khéo trở thành kẻ tri thức chỉ biết suy luận trong đống kho tàng kinh sách, chính sở tri chướng ấy trở ngại cho chặng đường đoạn trừ vô minh phong tỏa.

Pháp Bảo Đàn Kinh gồm 10 phẩm:

- Hành Do
- Bát Nhã
- Nghi Vấn
- Định Huệ
- Tọa Thiền
- Sám Hối
- Cơ Duyên
- Đốn Tiệm
- Tuyên Chiếu
- Phó Chúc

Bằng vào quan niệm thường tình nên chia ra có mười phẩm, nhưng với trí tuệ Bát Nhã quán chiếu thì tất cả đều không, cái không của so đo, tính toán, dài ngắn đều như cơn lốc và bị trí tuệ này cuốn hút vào hư vô ngay. Một khi nó bùng lên không có khởi điểm và chấm dứt, tựa như tấm gương phản chiếu sự vật nhận và trả ngay không lưu lại dấu vết gì nơi gương cả, nó tựa như mặt nước hồ thu không gợn sóng, dấu vết của con nhạn bay qua chỉ in xuống dòng nước nhưng rồi sau đó trả lại sự yên lặng cho mặt hồ. Nhạn vô tình bay qua, nước vô tình in bóng nhạn, nhưng chưa một lần nhạn và nước nhận diện nhau. Và nếu cố tình đi chăng nữa thì nhạn vẫn là nhạn, nước vẫn là nước, điều này không vì thế mà trở ngại bước tiến đến sự an tịnh. Nếu có đối tượng và ngã chấp thì hẳn nhiên vẫn phải tử sinh, sống chết. Phải vùng lên với tất cả hùng lực sẵn có, gõ liên tục vào nội tâm, và đem cả nguyện lực bình sinh thoát ra ngoài mối tương quan đối đãi thì mới chấm dứt được con đường lẩn quẩn.

Nầy thiện tri thức ! Phải biết rằng nếu chẳng ngộ thì Phật là chúng sanh, còn một niệm mà ngộ được thì chúng sanh là Phật. Vậy mới biết muôn pháp đều ở nơi lòng mình, sao chẳng noi theo từ trong lòng, để chóng tỏ cái Bổn Tánh Chơn Như của mình ?” (Pháp Bảo Đàn Kinh)

Lối vào giác ngộ, điều tiên quyết phải chùng mình vượt qua khỏi giá buốt tê cóng nơi tâm hồn, quên đi tất cả những duyên trần thế, làm tươi mát tâm hồn bằng cách nở những nụ cười rạng rỡ trên đôi môi, nụ cười này được xuất phát với tất cả sự lắng đọng trong tâm hồn, để từ đó tạo nên cửa ngõ đi vào an lạc. Một niệm ngộ được rồi cần phải duy trì liên tục đừng để ngăn ngại thì đạo quả giác ngộ chắc hẳn hiển lộ. Chuyển hóa ngộ đó để trở thành nước cam lộ nuôi dưỡng tuệ căn thân mạng để vươn lên phá tan chướng ngại trì trệ con đường thoát khỏi tử sinh. Một khi móc xích cột chặt con người được đập vỡ, cả càn khôn bỗng chốc trở thành mây khói, chỉ còn lại những đỉnh đồi hoang vu reo với gió nội mây ngàn, cất tiếng vang làm chấn động cả đất trời. Để rồi từ đỉnh đồi cao vút đó phóng thẳng mình xuống đi vào cuộc đời, hoán chuyển những thống khổ của chúng sanh. Nếu đứng mãi trên đó băng tuyết lạnh lùng sẽ chôn vùi hạnh nguyện cao cả. Đừng trụ mãi ở đâu dù nơi đó là Niết Bàn cao sang hay tử sinh đảo lộn. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ có dạy:

Thiện Tri thức ! đừng trụ bất cứ ở đâu ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do. Đừng để tâm chấp trước thì thông suốt hết không gì vướng mắc. Kẻ ngu nếu bỗng chốc trí sáng tâm mở thì với người trí không khác.”

Pháp âm của Huệ Năng đã được ghi lại trong Pháp Bảo Đàn mà công năng của nó quét sạch tiêu tan những vọng tưởng đảo điêncon người đang trực diện, một thứ ánh sáng xuyên thủng màn đêm làm ấm lại dòng nước vi diệu của nhân sinh. Dòng nước ấy sẽ luân lưu trong vô cùng, để tưới mát lòng người và những đồng hoang nội cỏ, tạo nên những chất liệu nuôi sống con người trong thế giới hôm nay. Thế giới được mệnh xưng tràn ngập sự khủng khiếp thống khổ nhất, con người trở thành nô lệ cho chính mình, sẵn sàng còng đôi tay của mình nhảy vào hố thẳm ngút ngàn của điên loạn. Âm vang của Huệ Năng từng phá tan và sẽ tiếp tục phá tan những đe dọa tâm linh trong mỗi con người, với điều kiện kẻ ấy phải vận dụng bình sanhliên tục vào chính tâm thức của mình.

III. CUỘC TRẮC NGHIỆM GIỮA HUỆ NĂNG VỚI HUYỀN GIÁCTHẦN HỘI:

Ba mươi năm trước Huệ Năng (638-713) âm thầm mang cả hành trang của một kẻ đang chơi vơi giữa tử sinh, giữa mê và ngộ, giữa cái đang biết và biết có đúng không, giữa hoang mang của con người ngộ nhưng chưa có người ấn chứng. Huệ Năng mang tâm trạng của kẻ đi cầu sư để trắc nghiệm sự tâm chứng của mình, mà trước đó Huệ Năng trong một sát na đã bừng khởi và đột nhiên tung mình ra khỏi tương quan của sự sống chết, phóng mình trên đỉnh núi mà bóng dáng của nó không đi qua chặng đường của trí thức suy luận như một tiếng nổ long trời lở đất dội mạnh vào tâm tư của chú tiều đốn củi, qua đường dây châm ngòi của “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Tiếng nổ vang dội ấy đẩy lùi những cột khói đen lên tận trời cao mà ba mươi năm sau Huyền Giác (665-713) cũng cùng một tâm trạng như thế.

Huyền Giác một tăng sĩ thuộc thành phần uyên bác, tinh thâm kinh luận Phương Đẳng tột bực nhưng vẫn rơi vào sở học sau nhờ đọc kinh Duy Ma Cậtđi vào biển trí tuệ của Duy Ma, để rồi sau đó khúc ca Chứng Đạo ra đời qua mười ba thế kỷ mà âm vang đường nét và những dòng chữ chưa hề tan loãng. Huyền Giác đã phải khổ công đi hết con đường tri thức của mình, những quan điểmlý luận của tâm thức nếu không vỡ tung hẳn nhiên không thể đi vào chân trời của giác ngộ vốn đã không dung chứa sở tri chướng.

Huyền giác tìm đến Huệ Năng và đã bỏ tất cả chặng đường cũ của mình, chuyển hóa trở thành chất liệu đang nuôi dưỡng sự nung nấu tác động của Duy Ma, chỉ nhờ Huệ Năng trắc nghiệm sự giác ngộ ấy có đúng không.

Huyền Giác vào Tào Khê gặp Huệ Năng đi quanh sư ba vòng xong chống tích trượng đứng.

- Huệ Năng nói: “Phàm làm sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh. Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy ?”

Huyền Giác đáp: “Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm.”

Thoạt đầu Huyền Giác đưa vấn đề sống chết lên trên, đó là vấn đề lớn nhất của kiếp người nếu không khéo vượt thoát thì mãi chìm đắm trong đêm dài tăm tối. Sự mau chóng của nó không đủ thời gian để Huyền Giác có thể cúi mình xuống sụp lạy Huệ Năng. Và cũng có thể Huyền Giác đưa ra câu hỏi mà trước đó đã từng dày vò ám ảnh. Bản chất của đạo Phật vốn thoát ly ra khỏi tử sinh, bằng vào phương cách nào để được thoát ly ra khỏi chặng đường ấy?

- Huệ Năng trả lời: “Sao chẳng thể nhập cái lý “vô sanh” thấu rõ cái nghĩa “không chóng”.”

Huệ Năng đã dùng đòn thí mạng ban đầu để quật ngã Huyền Giác và cũng là để trắc nghiệm vị đại đức lớn lối ngạo mạn nầy. Lối vấn đáp là thuật diệu dụng của Thiền Tông đến thời kỳ Huệ Năng đã triển khai và làm hưng thịnh kỹ thuật độc đáo nầy. Nó len lõi đi vào tâm thức của kẻ đối diện như con dao mà bên ngoài được bao bọc bằng nhung gấm, nếu không khéo sẽ bị chặt phăng ngay. “Thể” và “Thấu Rõ” mà Huệ Năng đưa ra chính là bổn thể của vô sanh diệt. Con người chỉ biết đắm chìm trong sự nắm bắt nên luôn đau khổ, một khi dừng lại và quán chiếu thẳng vào thể tánh của sự sanh diệt thì nó tan loãng và tiêu hủy ngay. Sự hợp tan ấy tạo cho con người những ảo tưởng về sự tồn tạidiệt vong, nhưng nếu một khi nó đã không gây được sự tác động ở nội tại thì chính nó sẽ hủy diệt. Như vậy không sanh được xuất hiện với điều kiện không thấy có sự sanh diệt theo quan niệm nắm bắt, mất mát. Một khi đã không sanh thì làm gì thấu rõ cái nghĩa của không chóng. Điều này được dựng lên bởi sự đi qua nhanh chóng của kiếp người, lúc ẩn, lúc hiện, mới đó đã bị vô thường cuốn mất, nhưng nếu con người vốn không đến thì lấy gì đi nhanh chóng? Huyền Giác đã thể nhập trọn vẹn yếu nghĩa này và nhận chân ra được cội nguồn của nó nên Huyền Giác đáp: “Thể tức “vô sanh” thấu vốn “không chóng”.”

- Huệ Năng nói: “Đúng vậy ! Đúng vậy !”
- Huyền Giác bèn dùng hết oai nghi mà vái lạy, giây lát xin cáo về.
- Nhưng Huệ Năng vẫn chưa buông tha bèn bồi thêm đòn nữa: “Về chóng thế sao?”

Đòn này nguy hiểm hơn câu nói khi trước nhiều, trước đó Huệ Năng chỉ muốn thử xem Huyền Giác đã vào đạo chưa. Còn câu hỏi nầy Huệ Năng đã biết rõ Huyền Giác thật sự bước vào cổng của ngôi nhà. Và cũng để kiểm chứng lại sở đắc của Huyền Giác.

- Nhưng với nội công sẵn có, Huyền Giác đáp:

“Vốn mình chẳng phải động há có mau chóng sao?”

Bởi lẽ Huyền Giác chưa một lần đi thì lấy gì mà động và chưa một lần đến thì lấy gì về chóng hay chầy. Nhưng Huệ Năng đâu có dễ dàng buông tha Huyền Giác như vậy.

- “Ai biết chẳng phải động ?”

- Huyền Giác vẫn lầm lì đem cả tuyệt chiêu mà mình đã đạt được bèn đáp: “Đúng là tại nhân giả sanh tâm phân biệt.”

Lối “cơ phong vấn đáp” thừa dịp là tặng cho nhau những nhát kiếm để thử sức nhau. Nhát kiếm này chỉ thẳng vào tâm điểm của giác ngộ. Nhưng Huệ Năng vẫn tự tại dùng nhát kiếm đẩy thẳng vào Huyền Giác một chiêu nữa:

- “Ông đã thấu cái ý vô sanh ?”

Huyền Giác lanh trí đỡ ngay:“Vô sanh há có ý sao?”

- Huệ Năng vặn ngay: “Không có ý thì ai phân biệt đây ?”
- Huyền Giác đáp:“Phân biệt cũng chẳng phải là ý.”
- Huệ Năng bảo: “Tốt lắm ! Hay nán lại một đêm.”

Nhân đó người sau gọi là “đêm giác ngộ” tuyệt vời.

Một nhân vật quan trọng nữa trong cuộc đời của Huệ Năng đó là Thần Hội.

Thần Hội người đã mang tất cả những âm vang cao vút của Huệ Năng tống thẳng vào kinh đô và quần chúng Trung Quốc. Khi Huệ Năng lánh nạn và sau này truyền bá Đông Sơn Pháp Môn chỉ trong phạm vi biên cương Việt NamTrung Quốc, nên triều đình và phần lớn nhân dân Trung Quốc không được biết đến. Trong khoảng thời gian nầy, Thần Tú đang được trọng vọng ở triều đình, mọi người cứ nghĩ Thần Tú là người kế thừa tâm ấn của Ngũ Tổ. Nhưng nếu không nhờ Thần Hội đem những sở đắc của mình từ nơi Huệ Năng và dùng trí tuệ Bát Nhã quét sạch hệ phái Lăng Già của Thần Tú thì Huệ Năng sẽ không được triều đình Trung Quốc biết đến. Và cũng chính nhờ Thần Hội khôi phục lại danh vị Lục Tổ cho Huệ Năng bằng phương pháp Đốn Giáo đẩy lùi Tiệm Giáo của Thần Tú do Phổ Tịch đệ tử của Thần Tú (lúc này cả hai vị Huệ NăngThần Tú đã viên tịch) phát huy. Những lời thuyết pháp của Thần Hội mạnh như vũ bão quét sạch những tông phái Thiền lúc bấy giờ và lấy lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ Năng vào năm 732.

Năm mười ba tuổi Thần Hội tìm đến Huệ Năng ở núi Tào Khê bái lạy và hỏi:

- “Hòa thượng lúc ngồi thiền thấy hay không thấy ?”

Huệ Năng đứng dậy đánh Thần Hội ba cái và hỏi:

“Nầy Thần Hội lúc tôi đánh ông đau hay không đau?”

- Thần Hội trả lời: “Vừa đau vừa không đau.”

- Lục Tổ nói: “Tôi cũng vừa thấy vừa không thấy.”

Thần Hội lại hỏi: “Bạch Đại Sư, tại sao vừa thấy vừa không thấy ?”

- Lục Tổ đáp: “Tôi thấy nghĩa là thường thấy lỗi lầm của mình cho nên bảo là thấy, còn không thấy nghĩa là không thấy lỗi lầm của người khác. Cho nên tôi vừa thấy, vừa không thấy. Còn ông tại sao vừa đau vừa không đau ?”

Thần Hội thưa rằng: “Nếu không đau thì đệ tử đâm ra giống cây đá vô tình. Nếu đau thì đệ tử tức đồng với phàm phu, khởi lòng oán hận.”

Lục Tổ nói: “Nầy Thần Hội, cái thấy với không thấy vừa rồi là hai biên kiến, đau với không đau là sinh diệt. Ông ngay cả tự tánh còn chưa thấy đòi dám đến đây bởn ngươi.”

Thần Hội bái lạy không nói gì nữa.

Dù rằng Thần Hội chưa thấy tự tánh mình nhưng với khẩu khí của chú bé mới mười ba tuổi quả thật đáng được tán dương. Và sau đó trở thành môn nhân của Lục Tổ để rồi mang cả tinh túy Bát Nhã mà Tổ đã truyền thừa, gây chấn động kinh thành Trung Quốc, làm rung chuyển lay động tận gốc rễ những hệ phái Thiền bấy giờ. Công ơn Thần Hội quả vĩ đại vậy.

IV. ẢNH HƯỞNG HUỆ NĂNG ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI TRONG HIỆN TẠI:

Mười mấy thế kỷ trôi qua nhưng pháp âm của Huệ Năng vẫn còn bàng bạc và ngự trị trong tận cùng tâm thức. Pháp tâm ấy tựa như dòng nước trong mát giúp cho người đi trong sa mạc tìm được niềm vui khôn tả. Những lời pháp vi diệu vẫn âm thầm len lỏi trong thời gian, không gian vô cùng, tạo nên một nền đạo lý chính thống, ấp ủ, vỗ về, và nuôi sống con người mười mấy thế kỷ này, không những ở Việt Nam, Á Đông mà lan tràn trên thế giới. Nếu khôngHuệ Năng thì sẽ không bao giờ có cái gọi là đạo Thiền tuyệt diệu cả. Thiền đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những văn hóa nghệ thuật mà nhân loại đang nghiên cứu như là một con đường cần thiết phải trở về, để khơi dậy nguồn sống tâm linh. Vì nếu chạy theo những xô bồ, những văn minh vật chất hiện tại, chỉ vô tình đẩy lui con người mỗi ngày rơi vào khủng hoảng tiêu diệt hơn. “Thiền đã ảnh hưởng thế nào đến học thuật văn hóa tây phương ở thế kỷ XX nầy thì mọi người đều biết. Thiền đã tác động đến cả một nền văn chương hoa Kỳ ở hạ bán thế kỷ XX nầy. Không kể văn hào Henry Miller đã đi trước trong việc lãnh hội Thiền từ những năm 1932-1934 mà chỉ cần kể những tên tuổi nổi tiếng khắp thế giới của thế hệ văn, thi sĩ Hoa Kỳ như: J.D.Salinger, William Burroughs, Jack Kerouac, Allen Ginsherg, và nhất là đại thi sĩ Gary Shyder người mở đầu khai thị Thiền Tông cho cả một thế hệ và nhiều thế hệ văn thi sĩ Hoa Kỳ.”

Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật. Con đường đi đến giác ngộ xa thăm thẳm nếu không nhờ vào cửa ngõ đi thẳng (đốn giáo) của Huệ Năng thì khó mà tới đích nhanh. Niềm cô đơn cuối cùng của Huệ Năngcho đến bây giờ có một vài tư liệu cho rằng ngài là người Việt Nam chứ không phải là người Trung Hoa như từ trước chúng ta đã quan niệm. Huệ Năng giác ngộ trong cô đơn không có sự truyền thừa của sư phụ, và đã âm thầm ra đi trong cô đơn khi được trao y bát, và mười sáu năm trường cô đơn lánh nạn. Cho đến bây giờ niềm cô đơn khủng khiếp nhất là chưa được xác định rõ rệt quốc gia đã sản sinh ra ngài. Đối với chúng ta dù ngài được sinh ra từ một quốc gia nào cũng không quan trọng. Điều quan trọng nhất ảnh hưởng của ngài đối với nhân loạichúng ta như thế nào? Nếu trong mỗi chúng ta thực hành lời dạy của ngài để được giác ngộ, thì cá nhân ấy là quốc độ của ngài, dù người này là Mỹ, Đại Hàn, hay Trung Hoa, Việt Nam v.v…

Chỉ có điều nầy mới thể hiện được tinh thần phụng trì và làm sáng lại những di huấn tối hậu mà ngài trao truyền cho chúng ta.

Sự cô đơnHuệ Năng trải qua để bây giờ được bù đắp là cả thế giới quỳ xuống tôn sùng một bậc vĩ nhân siêu phàm nhất trong lịch sử Thiền Tông, đưa con người tìm đến giác ngộ bằng con đường đi thẳng không quanh co tốn thời gian. Chặng đường ấy Huệ Năng khơi dậy ở Tào Khê mà bây giờ vẫn vang vọng đâu đây, pháp âm đó vẫn ngự trị trong vô cùng mênh mang của đất trời, của sự sống chếtcon người đang trực diện băn khoăn. Làm sao tung mình ra khỏi sự cô đơn và nếu có cô đơn thì cũng cô đơn như Huệ Năng đã từng cô đơn…

Như Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11338)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11515)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13512)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14070)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10281)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10751)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11280)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11234)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11402)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10133)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9927)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10674)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11288)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42108)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10454)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11833)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9989)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10428)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10585)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45665)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32060)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11290)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10661)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11276)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10594)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13422)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12334)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11005)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10593)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12273)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11130)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11810)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29212)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9191)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10511)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10200)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10541)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10877)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10783)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32075)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27341)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17753)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11836)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12235)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10408)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11668)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10398)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10742)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 27990)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10112)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10238)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10619)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10751)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11207)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10365)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10668)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11452)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18203)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10493)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12819)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11723)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29121)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28537)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28255)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13294)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22741)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13415)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11541)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13767)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25660)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26026)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22257)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14458)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12044)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11777)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11667)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11448)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33125)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31798)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12000)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39576)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22413)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11943)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14185)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13322)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14275)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12030)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10382)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11210)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13275)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34465)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12587)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12203)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13510)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12593)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12922)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16274)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11695)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27339)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28350)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant