Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tịnh Độ qua cái nhìn của Thiền

27 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13809)
Tịnh Độ qua cái nhìn của Thiền
"Tịnh độ là lòng trong sạch, đâu còn ngờ hỏi đến Tây phương;

Di đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc"

Ðây là hai câu phú trong bài Cư Trần Lạc Ðạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt nam. Có thể nói, hai câu phú trên đã đúc kết được phần nào cách lý giải mà các Thiền giả dành cho pháp môn Tịnh độ. Và đây cũng chính là nội dung của bài viết này muốn đề cập đến.

I. SƠ LƯỢC ÐÔI NÉT VỀ TỊNH ÐỘ

1. Các kinh chủ yếu của Tịnh độ tông

Tông phái Tịnh Ðộ gồm các kinh căn bản sau đây:

a. Vô Lượng Thọ Phật Kinh: Kinh này nói về thời quá khứ có một Sa môn tên là Pháp Tạng, nhân thấy chúng sanh đang chìm trong bể khổ triền phược, muốn cứu vớ chúng sanh thoát bể trầm luân, Ngài bèn đi đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, phát 48 lời nguyện, liền được đức Như Lai ấn chứng.

Sau đó, trải qua công phu tu hành theo những hạnh nguyện của mình, cuối cùng Ngài thành Phật hiệu là A di đà. A di đà nghĩa là Vô lượng quang, Vô lượng thọ (ánh sáng vô lượngthọ mạng vô lượng).

b. A di đà Kinh: Ðây là bản toát yếu của bộ kinh trên, đồng thời nêu ra vài nhận xét đặc biệt và cổ vũ tu theo pháp môn Tịnh độ.

c. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh: Kinh này đức Phật dạy cho Ngài A nan và bà Vi Ðề Hi về 16 cách quán tưởng để thấy được đức Phật A di đà, hai vị Bồ tát Quán Aâm, Thế Chí và cõi nước Cực lạc.

Ngoài 3 bộ kinh căm bản kể trên còn có bộ luận Vãng Sanh của Ngài Thế Thân, luận Khởi Tín, luận Bửu Tánh, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa v.v.. đều có đề cập đến Tịnh độ.

Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ; do đó, Tông phái này dần dần được phổ cập trong quần chúng nhân dân khiến cho mỗi ngày mỗi lớn mạnh. Ngài được xem là vị Sơ tổ của Tông Tịnh độ tại Trung Hoa. Kế tục sự nghiệp của Tổ Huệ Viễn có các Ngài Ðàm Loan, Ðạo Xước, Thiện Ðạo đều là những bậc long tượng nhiệt thành chấn hưng Tông phái này. Sang đời Tống có Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ (tịch năm 975), đến đời Minh có Ngài Chu Hoằng hiệu là Liên Trì Ðại sư đều là những người cục lực xiển dương Tông Tịnh độ, đưa đến đỉnh cao nhất của sự hưng thịnh. 

2. Phân loại Tịnh độ:

Các học giả đã phân tích và sắp xếp Tịnh độ thành ra 4 loại sau đây:

a. Phàm Thánh đồng cư độ: Cõi này lại chia làm 2:

- Tịnh độ đồng cư: tức thế giới cực lạc của Ðức Phật A di đà an trú.

- Uế độ đồng cư: tức thế giới ta bàchúng ta đang sống đầy những chông gai, bất tịnh và khổ đau này.

b. Phương tiện hữu dư độ: quốc độ của những bậc Nhị thừaTam thừa, hạng người này tu tập đạo pháp phương tiện, dứt trừ các mê hoặc, được vãng sanh ngoài 3 cõi, gọi là phương tiện hữu dư độ.

c. Thật báo trang nghiêm độ: Bồ tát tu hành đạo pháp chân thật, hợp với chân lý trung đạo, cảm được thắng báo, sắc tâm không chướng ngại; quốc độ của những bậc ấy an trú gọi là thật báo trang nghiêm độ.

d. Thường tịch quang độ: Tịch là tướng yên lặng của lý thể, quang là tướng soi sáng của trí tuệ, độ là cảnh đế nương tựa. Nghĩa là nơi cư trú của Phật, tức chân như thật tánh hay Ðại Niết bàn.

3. Những yếu tố cơ bản để hình thành Tịnh độ:

a. Tín: gồm có tự tín và tha tín. Tự tín: là phải nhận rõ tâm niệm hiện giờ của chúng ta vốn rộng rãi, không bờ bến. Tuy chúng ta mê mờ điên đảo, nhưng nếu trong một ý niệm biết hồi tâm, thì quyết định sẽ được sanh về Cực lạc. Tín tha: là tin đức Phật Thích ca quyết không nói dối,., tin đức A di đà quyết không thệ nguyện suông.

b. Nguyện: Ðã tin tưởng, chúng ta phải phát nguyện vãng sanh, biết chán cảnh phù hoa hư giả, phải ưa cõi thanh tịnh trang nghiêm, lánh xa ác nghiệp, siêng tu chánh đạo, thể thành chánh giác, nguyện độ chúng sanh.

c. Hành: Khi đã phát nguyện, chúng ta phải nỗ lực thực hành. Nhưng thực hành có nhiều cách như: Quán tưởng, lễ bái, cúng dường, sám hối v.v… Song chỉ có phương pháp trì danh niệm Phật là dễ dàng thực hiện nhất và cũng phù hợp với nhiều căn cơ nhất.

Pháp môn trì danh niệm Phật này thông thường chia làm 3 loại:

1. Giác tánh niệm Phật: bất cứ lúc nào cũng soi sáng tâm tánh mình, không có sự phân biệt, tức tâm tức Phật.

2. Quán tưởng niệm Phật: Chúng ta quán tưởng thân Phật là thanh tịnh, mầu nhiệm, cõi Phậttrang nghiêm, đến khi thông cảm sẽ thế nhập vào tam muội.

3. Trì danh niệm Phật: Có mặc trì và cao thanh trì. Nghĩa là hoặc niệm thầm, hoặc niệm lớn tiếng.

Trong kinh nói: "Nếu ngọc minh châu ném vào nước đục, thì nước đục quyết phải hóa trong, cũng như danh hiệu Phật gieo vào tâm mê thì tâm mê quyết phải tỏ ngộ". Ðể đánh thức chúng sanh đang mê ngủ trong cảnh trần lao và cổ vũ họ tu theo pháp môn Tịnh độ, trong kinh Vô Lượng Thọ Phật có đoạn viết:

"Loài người sống trong cõi đời này, cha con, anh em, vợ chồng, nhiều khi không biết sống theo đạo lý, chẳng vâng phép tắc, hoang dâm, kiêu ngạo, càn dỡ, phóng túng, chỉ mong khoái ý nhất thời; siểm nịnh chẳng ngay, dối gạt lẫn nhau, a dua bợ đỡ, bất tín bất trung, ghét kẻ hiền lành, gièm người lương thiện, đến nỗi vùi dập người ngay trong chỗ oan khuất. Kẻ làm vua thì bất minh, kẻ làm tôi thì bất trung, kẻ làm cha thì bất từ, kẻ làm con thì bất hiếu, kẻ làm vợ thì phản chồng, kẻ làm em thì lừa anh. Tất cả chỉ vì buông lung theo dục vọng si mê mà chuốc lấy hậu quả hại mình hại người. Rốt cuộc phải lăn lộn đời đời kiếp kiếp trong chốn khổ đau bất tận không có ngày nào ra khỏi!

Những ai tỉnh giấc, hãy dũng mãnh cất mình vượt khỏi hang sống chết, dang tay xé toạc lưới si mê thì cảnh giới an vui quyết có ngày bước đến! (sđd, tr. 87)

Thế nhưng người đời thói bạc, cùng giành nhau những việc không đâu. Ở trong cảnh cực khổ dữ dội này, họ làm việc nhọc nhằn để cung cấp cho những nhu cầu thiết yếu của mình. Không cứ người sang kẻ hèn, người giàu kẻ nghèo, tất cả già trẻ, gái trai đều lo lắng chạy theo kiểu tiền tài danh vọng. Có của hay không đều như vậy cả, lăng xăng sầu khổ, ưu tư nghĩ ngợi, làm đầy tớ cho cái tâm sai khiến, không có lúc nào được yên định. Kẻ có ruộng lo ruộng, kẻ có nhà lo nhà, cho đến trâu bò, súc vật tôi tớ, của cải mọi thứ ăn mặc, nhất nhất đều phải lo toan chu đáo, chập chồng mối tham, chất chứa cõi lòng, lo sợ buồn rầu, không lúc nào dứt. Thế nhưng vẫn bị những sự vô thường như kẻ thù, chủ nợ, lửa đốt, nước trôi, kẻ cướp giựt ngang, làm cho tiêu tan, sự nghiệp hoang phế. Ðến nỗi lo buồn ủ rũ không lúc nào nguôi! Chứa giận trong lòng, chẳng rời oán hận, canh cánh bên lòng, chẳng buông ra được. Tới khi nhắm mắt lìa đời, buông tay theo nghiệp, không thể đem theo một thứ gì cả. Biết vậy thì trong cõi đời này cha con, anh em, vợ chồng, họ hàng nội ngoại, tất cả nên yêu kính lẫn nhau, đừng sinh tâm ghét bỏ. Kẻ có người không giúp đỡ cho nhau, không được keo kiệt. Lời nói sắc mặt thường hòa vui, đừng gây oan trái cho nhau. Hoặc có khi vì sự tranh giành sinh ra giận dữ. Cái ý oán hận ở đời này chỉ ganh ghét một chút, nhưng qua đời sau càng trở nên dữ dội, đến nỗi trở thành ra thù oán liên miên, trải nhiều đời nợ đền, oán trả, khó mà dứt được. Người ta ở trong vòng phiền trượt đầy tham dục này, sinh một mình, chết một mình, đến một mình, đi một mình; cực khổ hay vui sướng chỉ một mình mình chịu lấy, không một ai thay thế được! Lành dữ biến hoá, họa phúc khôn dò, sanh tử đắp đổi, nối nhau không dứt: Hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em vợ chồng thương khóc tiễn nhau, tất cả đều trôi qua trong cõi vô thường chuyển dịch. Tuy sự thực của dòng đời là thế, nhưng người ta vì màn vô minh che lấp, nên chẳng tin kinh pháp, lòng chẳng lo xa, chỉ mong khoái chí nhất thời chạy theo ham muốn, chẳng hiểu đạo lý, đắm say tài sản sắc đẹp, kết cuộc phải chịu trầm luân mãi hoài trong vòng khổ lụy, chưa biết ngày nào thoát khỏi, thật đáng xót thương. (sđd, tr.79)

"Nay ta làm Phật ở tại cõi này, diễn thuyết kinh pháp, chỉ lối dẫn đường, dứt các lưới nghi, nhổ gốc ái dục, lấp nguồn tội ác, dẫn người vượt khổ, đến cõi an lành.(sđd, tr. 81)

"Muôn loài chúng sanh từ bao kiếp tới nay, lăn lộn trong 5 nẻo, lo buồn, sợ sệt, đau khổ khôn cùng, cho đến nay dòng sanh tử vẫn chưa đoạn dứt… Ngày nay may mắn được gặp Phật nghe pháp, các ngươi cũng nên chán ghét nỗi thống khổ của sinh lão bệnh tửquyết tâm vượt qua bể khổ trần lao. Hay đoan thân, chánh hạnh, làm mọi điều lành, sửa mình trong sạch, rửa những bợn dơ trong tâm, lời nói thành thật, tính tình ngay thẳng, trong ngoài đều ứng hợp đạo mầu. Người nào độ được lấy mình thì nên tự cứu lấy, tinh cần cầu nguyện, vun bón cội lành. Tuy là khó nhọc một đời mà được an vui vĩnh cửu, nhổ dứt cội rễ sinh tử, chung sống trong cảnh đạo đức muôn thuở, không còn cái hại của 3 độc tham sân si bức ngặt. (sđd, tr. 83)

II. TỊNH ÐỘ QUA CÁCH LÝ GIẢI CỦA THIỀN

1) Cõi Tịnh độ theo kinh Duy Ma Cật: Khi bàn về cõi Tịnh độ, Duy Ma Cật nói: "Này Bảo Tích, Ông nên biết! Trực tâmTịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua nịnh sanh sang nước đó. 

Thâm tâmTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó. 

Bồ đề tâmtịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh có tâm Ðại thừa sanh sang nước đó.

Bố thíTịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả tài sản sanh sang nước đó.

Trì giớiTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành, hạnh nguyện đầy đủ sanh sang nước đó.

Nhẫn nhụcTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt trang nghiêm sanh sang nước đó.

Tinh tiếnTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó.

Thiền địnhTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp, tâm chẳng tán loạn sanh sang nước đó.

Trí tuệTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được trí tuệ sanh sang nước đó.

Tứ vô lượng tâmTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó.

Tứ nhiếp phápTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó.

Phương tiệnTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng phương tiện, không bị trở ngại sanh sang nước đó.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạoTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 thánh đạo sanh sang nước đó.

Hồi hướng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được cõi nước đầy đủ tất cả công đức.

Nói pháp trừ tám nạnTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có 3 đường ác và tám nạn.

Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có sự hủy phạm giới cấm.

Mười điều lànhTịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu có, phạm hạnh, lời nói chắc thật, giọng nói dịu dàng, quyến thuộc không chia rẽ, khéo hòa giải việc tranh chấp, kiện tụng, nói lời có ích, không giận, không ghét, thấy biết chân chánh; tất cả các chúng sanh ấy sanh sang nước đó.

… Cho nên, này Bảo Tích, Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm được thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnhcõi Phật được thanh tịnh. (Kinh Duy Ma Cật, HT. Huệ Hưng dịch, xb.1946, tr.20 –22).

2) Bồ Ðề Ðạt Ma nói về Tây phương Tịnh độ:

Phật ở trong tâm như trầm hương ở trong cây, phiền não nếu hết thì Phật theo tâm hiện ra, vỏ mục nếu hết thì hương theo cây tỏa ra. Nên biết ngoài cây không có hương, ấy là hương ngoài của cây khác. Nếu ngoài tâm có Phật, ấy là Phật ngoài của ai khác.

Trong tâm có 3 độc, đó gọi là quốc độ dơ bẩn. Trong tâm không có 3 độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh. Kinh nói: "Nếu khiến chi quốc độ vẫn đục, dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ trong đó xuất hiện, thì điều đó không thể nào có được. Cái vẩn đục dơ xấu ấy, tức là3 độc vô minh vậy. Chư Phật Thế Tôn ấy, tức là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy". (Thiếu Thất Lục Môn, tr.64)

Hỏi: Như lời kinh nói: "dốc lòng niệm Phật chắc được vãng sanh qua cõi Tịnh độ Tây phương", chỉ cần theo một cửa ấy tức được thành Phật, sao còn nói quán tâm để cầu giải thoát làm gì?

Ðáp: Phàm nói niệm Phật, cốt cần niệm chánh, rõ nghĩa là chánh, không rõ nghĩa là tà. Niệm chánh chắc được vãng sanh; còn niệm tà thì sao qua đó được?

Phật là giác, tức tỉnh thức vậy: Tỉnh thức để thấy rõ thân tâm mình, đừng khiến niệm dữ lừng lên. Nói niệm tức ghi nhớ vậy: Ghi nhớ giữ giới hạnh, chẳng quên tinh tấn. Có hiểu như vậy mới gọi là niệm. Cho nên niệm cốt ở tâm, chẳng ở lời nói. Phải biết:

Mượn nôm bắt cá, được cá phải quên nôm.

Mượn lời cầu ý, được ý phải quên lời.

Ðã xưng niệm Phật trên danh từ

Nên biết niệm Phật trong đạo lý.

Nếu tâm không thực thì miệng tụng tiếng suông, 3 độc chất chồng, nhân ngã chèn lấp, làm sao thấy Phật?

Ðem tâm vô minh hướng ngoài cầu Phật, chỉ nhọc sức nào có ích gì ?

Nên biết chư Thánh ngày xưa tu niệm Phật, phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong tâm. (sđd, tr.42)

3) Tịnh độ theo cách lý giải của Lục Tổ Huệ Năng:

Hỏi: Ðệ tử (Thứ Sử họ Vi) thường thấy kẻ tăng người tục niệm Phật Di đà nguyện sanh Tây phương, xin Hòa thượng nói cho biết có được sanh về nước kia chăng?

Ðáp: Khi Thế Tôn ở thành Xá Vệ nói về cõi Tây phương để dẫn dắt chúng sanh, và văn kinh nói rõ cách đây không xa. Nếu xét về tướng thì có 10 vạn 8 ngàn dặm, tức là con số chỉ vào 10 điều ác và 8 điều tà ở trong người chúng ta. Vì thế nói là xa. Xa là đới với người hạ căn. Gần là đối với bậc thượng trí. Người có 2 hạng, phương pháp không có 2 thứ. Do mê ngộ khác nhau nên kiến giải có mau có chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về Tây phương. Người ngộ tự tịnh tâm mình. Cho nên Phật dạy: "Tùy tâm mình tịnh tức cõi Phật tịnh" (Duy Ma Cật)

Sử Quân là người phương Ðông nhưng nếu tâm tịnh thì không có tội; còn tuy là người phương Tây, mà tâm không tịnh vẫn có tội như thường. Nếu không thế, người phương Ðông tạo tội, niệm Phật cầu sinh phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sinh xứ nào?

Phàm ngu không rõ tự tánh, không biết tịnh độ ngay trong ta nên mới nguyện Ðông nguyện Tây. Còn đối với người ngộ thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: "Tùy bất kỳ ở đâu cũng thường được an lạc"

Nay tôi khuyên các thiện tri thức trước hết trừ mười điều ác, như vậy tức đi được 10 vạn dặm đường,sau trừ 8 điều tà, mới qua được 8 ngàn dặm nữa. Mỗi niệm kiến tánh, thường làm việc ngay thẳng, được như thế thì chỉ búng ngón tay là thấy Phật Di đà. Sử Quân chỉ cần thực hành 10 điều thiện thì cần chi phải nguyện vãng sanh nữa? Trái lại, nếu tâm không trừ bỏ 10 điều ác thì Phật nào đến rước? Nếu ngộ pháp đốn giáo vô sanh, Tây phương sẽ thấy ngay tức khắc. Không ngộ mà niệm Phật cầu sinh Tây phương, đường xa lắm làm sao tới được! Nghe kệ ta đây:

"Bồ đề tìm nơi tâm nọ,

Chẳng nên tìm kiếm ngoại duyên.

Nghe xong tu hành theo đó,

Tây phương ắt thấy nhãn tiền

(Pháp Bảo Ðàn Kinh, tr.79)
4) Trần Thái Tông nói về Tịnh độ:

Khi bàn về pháp môn Tịnh độ mà việc cụ thểniệm Phật, ông viết:

"Niệm Phật có thể dập tắt được 3 nghiệp ác.

Vì rằng trong lúc niệm Phật, thân ngồi ngay thẳng, không làm việc tà, như vậy là dập tắt đươc nghiệp thân. Miệng tụng chân ngôn, không nói lời xằng bậy, thế là dập tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú tinh tấn, không nảy sinh tà niệm, thế là dập tắt được nghiệp ý. Nhưng kẻ tu hành có 3 bậc:

1. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Vọng niệmbụi trần không vướng một mảy. Nhưng vọng niệm trần lao vốn thanh tịnh, cho nên nói như như không động tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, Ðó là Phật sống.

2. Bậc trung trí ắt nhờ vào niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự nhiên thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác đã tiêu diệt thì trở về với chính đạo, đến lúc mệnh chung sẽ được niềm vui Niết bàn.

3. Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấyhình tướng Phật, thân nguyền sinh về nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái chuyển, như vậy đến khi mạng chung sẽ theo ý nghĩ thiện mà sinh về nước Phật.

Ba hạng người ấy giác ngộ sâu cạn tuy có khác nhau, nhưng cái nhận được là một. Nhưng bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó. Ðời nay ít kẻ theo được.

Như muốn niệm Phật hãy lấy cách của kẻ hạ trí làm đầu. Vì như xây tòa lâu đài 3 tầng mà không làm tầng dưới trước là điều chưa từng có vậy".

III. THIỀN VÀ TỊNH CÓ LIÊN QUAN GÌ KHÔNG?

Nếu xét một cách tương đối, ta thấy pháp môn Tịnh độ có vẽ phổ cập bình dân còn pháp môn Thiền thì có tính cách thượng lưu trí thức hơn. Xét bề ngoài, phép niệm Phật đối lập hẳn với thiền. Vì thiền không nương vào ai ngoài mình, còn niệm Phật thì nhất thiết nương vào đức Phật. Nhưng nếu phân tích về tâm ly ùcủa phép niệm Phật vẫn còn có cái tương đồng giữa việc duy trì một công ánThiền Tông và việc niệm danh hiệu Phật ở Tịnh độ tông. Do nền tảng tâm lý chung này mà cả hai có thể gần gũi nhau, Thiền vói niệm Phậtniệm Phật với thiền.(Thiền luận II, tr.204)

…Thiền và niệm Phật dường như không đồng mà đồng. Vì đích của Thiền là thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống, đích của niệm Phật cũng vậy. Thiền chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật. Trong khi đó, niệm Phật nhắm đi tới cõi Tịnh độ vốn dĩ không chi khác hơn là tự tâm, và nhắm thấy rõ tự tánh vốn dĩ chính là đức A-di-đà.

Nếu thế làm sao phân biệt niệm Phật và thiền? Kinh nói: Như đi vào một thành lớn mà khắp bốn phía đều có cửa; từ những nẻo khác nhau, người ta tìm thấy lối vào riêng biệt của mình. Vì cửa không chỉ có một. Nhưng khi vào rồi, họ cũng ở trong thành như nhau. Thiền và niệm Phật mỗi bên có một căn khí riêng, như ng khi đi đến đích thì đều gặp nhau.

niệm Phật, các người có thể phân biệt đằng nào linh nghiệm, đằng nào không linh nghiệm. Tại sao? Nếu việc tụng niệm của tín giả chỉ ỡ trên môi miệng còn tâm thì chẳng nghĩ tưởng chút gì đến Phật thì tụng niệm ấy không linh nghiệm. Trái lại, nếu miệng và tâm cùng chung hướng về Phật trong lúc tụng đọc danh hiệu Ngài, 
khiến cho tâm với Phật không rời nhau một bước, thì niệm Phật như thế chắc chắn sẽ có kết quả. Giả dụ có một người tay cầm tràng hạt, miệng niệm danh hiệu Phật; nhưng nếu cứ vọng tưởng cuồng tâm, chạy xuôi chạy ngược, thì đó là một người chỉ tụng ở miệng chứ không tụng ở tâm, chỉ luống công vô ích, nhọc sức mà chẳng 
được lợi ích gì; tốt hơnnghĩ tưởng đến Phật trong tâm dù môi không mấp máy. Vì như thế mới là đồ đệ chân chính của pháp môn niệm Phật.

Há không thấy kinh nói rằng mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ thương con. Nếu con cũng nhớ tưởng đến mẹ như thế thì tại sao mẹ con không 
có ngày hội ngộ? (Thiền luận II, Suzuki, T.S dịch, An Tiêm xb. 1971, tr. 208)

- Kẻ học thiền hãy cứ một mực theo thiền, người niệm Phật hãy cứ khăng khăng niệm Phật. Nếu tâm bị phân chia giữa hai thứ sẽ chẳng thành tựu được gì cả. Người xưa đã nói ví dụ về tình trạng bị phân tâm như thế giống như một người cố bước vào hai con thuyền một lúc, nhưng chẳng bước vào đâu được.

Vĩnh Minh Diên Thọ (tịch năm 975) đã nói sự dung thông giữa thiền và tịnh. Ông được xem như một trong những người chủ trương tôn giáo hòa hợp vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa, đã cố gắng dung hòa giữa Thiền và Tịnh độ (Sđd, tr.210)

Quán Kinh nói: "Mỗi một đức Phật Như Lai hiện thân trong pháp giớithâm nhập trong tâm của tất cả hữu tình. Vậy mỗi khi các ngươi tưởng đến Phật, chính tâm của các ngươi được trang nghiêm bằng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Tâm ấy được chuyển thành Phật tánh, tâm ấy chính là Phật. Biển chánh trí của chư phật nổi dậy trong tâm tưởng của các ngươi. Vì lẽ đó, các ngươi hãy nhất tâm tu tập quán tưởng Phật Như Lai, Ngài là bậc A La hán, Chánh đẳng giác (Sđd tr.256)

- Cứ để cho sự chú tâm lên tới cao độ của nó thì sẽ có một trực giác về những chân lý huyền diệu như vậy. Vãng sanh tức vô sanh, niệm Phật tức không có gì để niệm. Tâm này chính là Như Lai, dù sắc thân còn lệ thuộc thế giới này mà tâm thì vui sướng trong cõi tịnh độ. (Sđd. 260)

- Lại nữa củi sẽ cháy nếu châm lửa vào - lửa đốt cháy và lửa vốn có trong củi là một. Như thế chính do hòa hợp nội duyênngoại duyên mà hết thảy các pháp hiện hành. Dù tất cả chúng ta có sẵn Phật tánh, nhưng tự Phật tánh nó không đốt cháy những tham dục nếu như không châm ngọn lửa của trí tuệ siêu việt. Ngọn lửa trí tuệ đó vốn là danh hiệu Phật. (Sđd. 264)

Dưới cái nhìn của thiền, câu "Nam mô A di đà Phật" là một công án đề ra cho các môn đồ của Tịnh độ tông. Ðấy là lúc chìa khoá được đặt vào tay hành giả, toàn thể kho tàng ý thức tôn giáo dành cho y nay được toàn quyền tự do sử dụng. (Sđd. 268)

- Tôn giáo trọn vẹn được xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm, không có kinh nghiệm này, tất cả cơ cấu giáo lý của nó sẽ sụp đổ. Ðây là chỗ khác nhau giữa tôn giáotriết học. Hết thảy các hệ thống triết học mai kia có thể sẽ băng hoại, nhưng đời sống tôn giáo mãi mãi được chứng nghiệm những huyền bí sâu xa của nó. Tịnh độ tôngThiền tông không thể tách rờikhỏi những huyền bí này. Tịnh độ tông đặt trọng tâm của mình trên việc niệm PhậtThiền tông thì đặt trên thực hành công án. Nếu như xét về những kiến trúc của chúng thì cả hai hình như rất gần gũi nhau. (Sđd. 269)

Thiền sư Bạch Ẩn nói: "Ðiều mà tôi trách cứ nhiều nhất là thái độ của các môn đệ thiền. Họ cần phải tự mình luyện tập nơi thiền thì lại biếng nhác, hoặc hèn kém, và trong khi bê trễ ở pháp môn này họ lại sợ hãi mà nghĩ tới một ngày tàn sắp đến của tuổi già, và lại bắt đầu với pháp môn niệm Phậtpháp môn giải thoát tốt đẹp nhất và thích hợp nhất dành cho chúng sanh trong thời mạt pháp này. Họ thật đáng thương. Họ như những con sâu, sinh ra từ cột gỗ, trở lại gặm nhắm gỗ và cuối cùng kéo nó đổ xuống. Vì vậy, họ đáng bị khiển trách nặng nề. (Sđd. 282)

IV. ÐỐI CHIẾU TỊNH ÐỘ VỚI NHỮNG THIẾT BỊ VĂN HÓA HIỆN ÐẠI

Chúng ta thấy có những bản nguyện Tịnh độ như:

- Nguyện nhân dân trong một nước không có sự bất đồng về sắc tướng. Nguyện cho nhân dân trong nước đều một sắc vàng.

Những nguyện trên đây đều cùng một chủ ý là muốn thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc để thực hiện lý tưởng nhân chủng bình đẳng trong cõi Tịnh độ.(Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458).

- Nguyện không có sự phân biệt về loài trời, loài người v.v…

Bản nguyện này mang chung một ý thú là muốn hủy bỏ sự phân biệt giai cấp. Do đó trong tịnh độ nếu không có sự tranh chấp về nhân chủng về màu da vàng, trắng, đỏ, đen, thì tất nhiên cũng không còn những cuộc đấu tranh giai cấp, tự nhiên lòng người sẽ hòa hợp, nhất trí, tất cả đều xem nhau như anh em, chung sống trong hòa bình, 
chỉ vui cùng đạo và sống theo chánh pháp.{Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458}. 

… Những ý niệm mới trên đây mới nghe qua có vẻ như là không tưởng, nhưng nếu đối chiếu nó với cuộc sống thực tế của xã hội thời bấy giờ thì ta thấy Aán Ðộ thật đã có nhiều chủng tộc, nhiều đẳng cấp và nhiều ngôn ngữ khác nhau. Nếu ta khảo sát đến tình trạng phân hóa của xã hội đương thời thì ta sẽ thấy những lý tưởng trên đây 
của Phật giáo thật đã có một ý nghĩa phản kháng mãnh liệt và sâu sắc về tình trạng phân biệt chủng tộcgiai cấp thời ấy. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458).

… Nguyện đất bằng phẳng, sáng cũng như gương. Nguyện đất toàn bằng vàng.v.v…

Có thể nói tất cả các nguyện được biểu hiện trên đây để hình dung cõi nước đều liên quan đến trạng thái đường sá. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458).

Nghĩa là tất cả đường sá được chỉnh trang rất thuận tiện cho sự giao thông theo mô hình của một xã hội văn minh hiện đại nhất.

Nguyện 46 nói, chúng sanh trong nước hễ muốn nghe pháp, thì tự nhiên được nghe. Ðiều này ngày nay chúng ta thấy rất thực tế…

Nguyện sự ăn mặc, ở đều tự nhiên thành tựu. Ðây là một ước vọng về trạng thái kinh tế và đời sống của dân chúng trong cõi Tịnh độ đều dễ dàng và sung sướng. Trước hết là vấn đề đèn, thì ai cũng biết có nguyện "ánh sáng vô lượng", về nước, thì có nguyện "nước tám công đức". Nếu giải thích những thiết bị trên đây theo tinh thần văn hóa hiện đại, ta thấy có điểm rất thú vị!; Nghĩa là trong nhà có đầy đủ tiện nghi đèn nước. Ðặc biệt là vấn đề thiết bị vệ sinh có nguyện "Nguyện nhân dân trong quốc độ ta không có cái nạn đại tiểu tiện" (Khi muốn đại tiểu tiện thì đất nứt ra,sau đó khép lại). Mới nhìn qua ta thấy nội dung của nguyện trên có vẻ như là không tưởng, nhưng nếu suy nghĩ một chút ta sẽ thấy nó hoàn toàn muốn lý tưởng hóa vấn đề vệ sinh, nghĩa là đưa ra nhũng thiết bị tại nơi đại tiểu tiện công cộng đến một trạng thái hoàn toàn tối tân hiện đại. Những vấn đề này ngày nay tại những đô thị văn minh gần như đã hoàn toàn thực hiện được. Cách đây hơn 2500 năm, đối với khung cảnh Tịnh độ mà có thể dự tưởng đến một trạng thái như thế, thì quả thực đã có những đặc điểm cực kỳ tiến bộ.

Rồi đối với các cơ quan thông tin, giao thông, tuy bề ngoài không được biểu hiện rõ ràng, nhưng trong nội dung các bản nguyện đã mặc nhiên bao hàm những ý nghĩa đó. Chẳng hạn, nguyện nhân dân trong nước đều được năm thứ thần thôngThiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, thần túctúc mạng. Thiên nhãn nghĩa là cái năng lực thấy được tất cả những vật ly ti ở rất xa; Thiên nhĩsức nghe được tất cả âm thanhmọi nơi; Tha tâm là năng lực biết được lòng người khác; Thần túcnăng lực bay, đi được tự tạiTúc mạng là biết được sự tìnhquá khứ.

Tất cả những ý niệm trên đây nếu được chuyển dịch thành ngôn ngữ hiện đại thì ta có thể nói đó là các thứ điện tín, điện thoại, vô tuyến điện, truyền thanh, truyền hình, xe lửa, xe hơi, máy bay, phi thuyền v.v… cho đến tất cả những thiết bị khoa học khác đều dự kiến đầy đủ. Tuy có điểm bất đồng là khoa học ngày nay tìm những thiết bị đó ở bên ngoài còn bản nguyện thì tìm nó ở trong năng lực nội tâm của chúng sinh. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458). Hơn nữa về phương diện đạo đứctôn giáo thì nền văn minh hiện đạilý tưởng Tịnh độ còn cách nhau xa lắm. Cho nên cần phải đợi đến thời kỳ hội Long Hoa của Phật Di Lặc xuất hiện họa may mới thực hiện được. Gần đây có nhiều người than phiền là cuộc sống tinh thần càng ngày càng sút kém, lại cũng có những người nguyền rủa sự tiến bộ của nền văn minh vật chất. Tôi thiết tưởng những quan điểm đó đều không thích đáng. Dĩ nhiên, nếu cho rằng chủ nghĩa vật chấtvạn năng thì không nên, nhưng sinh hoạt tinh thần chân chính cần phải thông qua vật chất mà biểu hiện thì mới hoàn toàn, trái lại, lìa vật chấtcô lập thì tức khắc sẽ rơi vào tình trạng mất thăng bằng. Nếu cho vật chấtvật chất, tinh thầntinh thần, hai lãnh vực ấy không liên quanvới nhau, thì nền văn hóa đó chưa phải hoàn toàn và cũng không thể nào tồn tại. Trái lại, nếu đặt văn hóa vật chất lên hàng đầu mà coi thường tinh thần, như thế là quên mất sinh hoạt tự do của tinh thần; cho nên đối với quan niệm cho vật chấtvạn năng, chúng ta cần phản đối; nhưng nếu lại đi quá trớn mà coi tinh thầnđộc tôn thì như thế đã bỏ một cực đoan này để chạy sang một cực đoan khác, thái độ ấy cũng sai lầm nốt.

Thí dụ nếu bảo: Ðèn điện là sản phẩm của văn minh vật chất, nên ta phải dùng đèn dầu và nến, để thay thế chúng, nhưng dầu và nến cũng vẫn là văn minh vật chất; vậy thì ta phải bỏ luôn chúng đi để chỉ dùng ánh trăng mà thôi; thử hỏi tình trạng như thế có thể gọi là một nền văn minh tinh thần lý tưởng được không ?

Chung cuộc, Tịnh độ không phải chỉ thanh tịnh hoàn hảophương diện vật chất, cũng phải là một nơi lý tưởng nữa. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458).

Như thế mới là cảnh giới Tịnh độ hoàn toàn viên mãn. (Tập văn Thành đạo Phật Ðản số 50/ Pl 2545-2001)

source: thuvienhoasen.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11349)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11530)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13518)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14091)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10289)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10758)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11289)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11243)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11406)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10144)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9945)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10682)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11305)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42133)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10463)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11840)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9997)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10444)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10590)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32068)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10666)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11283)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10606)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13445)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12352)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11010)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10597)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12279)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11131)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11815)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9194)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10519)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10204)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10543)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10885)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10787)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27347)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11840)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12237)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10425)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11681)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10403)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10749)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28002)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10119)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10248)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10623)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10754)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11210)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10377)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10674)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11456)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18218)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10498)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12823)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11734)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28558)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13298)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22751)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13420)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11545)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13785)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26035)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22268)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14463)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12047)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11781)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11671)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11460)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33142)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31814)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12004)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39587)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22437)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11946)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14200)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13335)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14291)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12039)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10383)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11211)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13281)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34478)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12591)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12205)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13516)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12599)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12935)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16278)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11706)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27345)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28368)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant