Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại lễ Vu Lan tại Nhật Bản: Nguồn gốc, ý nghĩaphương cách tổ chức

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13221)
Đại lễ Vu Lan tại Nhật Bản: Nguồn gốc, ý nghĩa và phương cách tổ chức

Lễ VU LAN hay “BON MATSURI” (Bon: Bồn, Matsuri: LỄ), là một trong những ngày đại lễ Phật Giáo tại Nhật Bản. Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật, nhưng ban đầu chỉ dành cho triều đình và các gia đình quý tộc; về sau nó mới được phổ biến cử hành trong dân chúng.
Chữ “BON” là rút ngắn của tiếng Nhật “URABON”. Urabon, hay “Vu Lan Bồn” là tiếng Hán dịch của chữ Phạn (Sanskrit) “ULLAMBANA”, có nghĩa là “Giải Đảo Huyền” hay “Cởi trói cho người bị treo ngược”. Người Nhật còn gọi Lễ Bon hay là ngày “LỄ LỒNG ĐÈN” (Festival of Lanterns), thường được tổ chức hằng năm vào các ngày 13,14 và 15 tháng 7, hoặc có nơi vào ngày 15 tháng 8 dương lịch. Ngày nay, lễ Bon đã trở thành một trong những ngày lễ lớn, phổ thông và vui nhất tại Nhật. Trong dịp này, ngoài việc đi thăm viếng nghĩa trang, cúng lễ cầu siêu cho ông bà cha mẹ ra, người ta còn tổ chức phóng đăng (lồng đèn), và hội hè, múa hát khắp nơi.

Tục lệ của ngày lễ và nhảy múa Bon (Bon Dance) tại Nhật, bắt nguồn từ sự tích của đức Mục Kiền Liên (tiếng Nhật Mokuren; Pali: Moggallana), là một trong những vị đại đệ tử của đức Phật. Theo kinh Vu Lan, Ngài Mục Kiền Liên vui mừng nhảy múa, sau khi dùng thần thông thấy mẹ (bà Thanh Đề) thoát khỏi cảnh giới địa ngục, nhờ phước đức Ngài vâng lời Phật dạy, đã cúng dường trai Tăng và cung thỉnh chư Thánh Tăng chú nguyện siêu độ cho mẹ.

Về phương cách tổ chức ngày lễ Bon (Vu Lan) tùy từng vùng và địa phương ở Nhật, chi tiết các buổi lễcuộc vui có phần sai khác, song đặc tánh chung căn bản của ngày lễ này thì khắp nơi vẫn giống nhau. Để chuẩn bị cho mùa lễ Bon, dân chúng Nhật trước hết lo dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng nhà cửa và nghĩa trang tại các chùa nơi tro cốt thân nhân ông bà, cha mẹ của họ được ký thờ. Sau đó, người ta đi chợ Bon hay Bon-Ichi (Bon: Vu Lan; Ichi: chợ) để mua sắm các thức ăn, lễ vật (bông hoa, trái cây) v..v..dùng trong các ngày lễ.

Đặc biệt tại nhiều nơi, trong đêm đầu của ngày lễ Bon, nhất là ở công viên nổi tiếng Ueno, nằm giữa thủ đô Đông Kinh (Nhật Bản), hàng trăm ngàn dân chúng khắp nơi đổ dồn về công viên để trang hoàng kết hoa, treo lồng đèn, thắp sáng cả công viên. Họ ở lại đây suốt đêm với thân nhân, bạn bè, tổ chức hội hè, ăn uống, múa hát, đàn ca tưng bừng để mừng đại lễ báo hiếu Vu Lan. Trong dịp này, hàng trăm quán hàng nhỏ được người ta tạm thời dựng lên khắp nơi trong công viên để bán cho khách thập phương đủ thứ, từ bông hoa, trái cây, rau cải, đến cây dương xỉ (ferns), những con cá đỏ (red fish), và nhiều loại dế (crickets) v..v..Đây đó, người ta cũng thấy có những vị thầy bói ngồi xem quẻ, coi tướng, đoán vận mạng tương lai, hoặc phát hành cho bà con thiên hạ, đủ các loại bùa, chú làm sẵn để cầu mua may bán đắt, nạn khỏi tai qua, hay tật bệnh tiêu trừ.

 

 LỄ RƯỚC VONG LINH THÂN NHÂN QUÁ CỐ VỀ NHÀ

Lễ Bon bắt đầu vào ngày 13 tháng 7 dương lịch, được xem như khai điển mùa Vu Lan Báo Hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ, theo truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Vào buổi tối ngày này, hàng triệu gia đình dân chúng ở khắp toàn nước Nhật, trong tay với những chiếc lồng đèn giấy màu trắng thắp sáng, tấp nập đổ dồn kéo về viếng thăm các nghĩa trang được thiết lập tại hàng trăm ngàn ngôi chùa địa phương trong thành phố, quận huyện làng xã, mà người Phật tử Nhật tin tưởng rằng những chiếc lồng đèn ấy, có thể soi sáng dẫn rước cho những vong hồn của các thân nhân quá cố, ông bà cha mẹ của họ thấy rõ đường trở về nhà viếng thăm con cháu trong ba ngày lễ Vu Lan. Ánh sáng chập chờn, lung linh tỏa ra từ những chiếc lồng đèn được khách thập phương, trước khi ra về, để lại trên mộ phần thân nhân ở các nghĩa trang, hòa lẫn với khói hương nghi ngút quyện vào không gian trong đêm khuya tĩnh mịch ở chốn thiền môn, đã tạo nên cho mọi người Nhật cái ý nghĩ như được cảm thông, sống gần gũi trở lại trong giây phút của mùa Vu Lan, với các hương hồn của những bà con, bạn bè vừa mới qua đời hay đã mất từ lâu.

Tại các vùng thôn quê, nhất là ở miền núi, người ta cầm đuốc thay lồng đèn, đến viếng nghĩa trang các chùa, để hướng dẫn, rước các vong linh về nhà. Trước nhà nào cũng có treo lồng đèn để tiếp đón các hương hồn đó. Đôi lúc tại nhiều nơi, vị gia chủ đốt lửa và nói chuyện, qua ánh sáng chập chờn, với các vong hồn, xem họ như những người đang còn sống thực sự ở thế gian này.

 

LỄ CẦU SIÊU CHO ÔNG BÀ CHA MẸ ĐÃ QUA ĐỜI

Sau khi làm lễ rước vong hồn của các thân nhân, từ nghĩa trang ở các chùa về nhà, người Phật tử Nhật, cũng như tín đồ các nước Phật giáo Á Châu khác, trong mùa Vu Lan báo hiếu, thường có tập tục cúng lễ cầu siêu cho các hương linh tại nhà. Tại phòng chính trong nhà trước bàn thờ Phật (tiếng Nhật: Butsudan), người ta trải chiếu, thiết bày một chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt một bài vị bằng gỗ (tiếng Nhật: Ihai), có ghi tên tuổipháp danh của những bà con trong gia đình đã quá vãng. Mâm cơm cúng cho các hương linh, ngoài những dĩa thức ăn đặc biệt cho người đã mất, gia chủ còn bày cúng thêm các thứ khác như khoai tây nấu với mè, một dĩa cà, bầu hay bí chiên, trái cây và bánh kẹo.

Mặc dù thuyết nhân quả của nhà Phật, kiếp sau con người sẽ chịu quả báo hạnh phúc hay đau khổ, tùy thuộc hành động thiện hay ác mà người đó đã tạo ra trong đời này; nhưng vì chịu ảnh hưởng sâu xa những lời đức Phật dạy cho Ngài Mục Kiền Liên qua kinh Vu Lan, mà dân chúng Nhật thường có tục lệ mời chư Tăng về nhà, và thỉnh cầu họ làm lễ cầu siêu cho hương linh thân nhân quá cố trong mùa lễ Bon. Phần đông Phật tử Nhật đều tin rằng nhờ sức chú nguyện tụng kinh của chư Tăngvong hồn ông bà cha mẹ của họ sẽ được thoát khỏi các cảnh giới khổ đau: ngã quỹ, địa ngục, súc sanh, để vãng sanh lên các thế giới an lành, hạnh phúc hơn. Trong dịp này, nhiều tín đồ thuộc các tông phái Phật giáo như Thiền (Zen), Tịnh độ (Jodo) hoặc Chân Ngôn (Shingon), thường tổ chức cúng thí thực cho loài Ngạ quỹ hay quỹ đói, tiếng Nhật gọi là “Segaki”, vì họ tin rằng thân nhân quá vãng của họ có thể đầu thai, đọa vào các cảnh giới đó. Sau buổi lễ cầu siêu, cúng thí thực, các bà con, bạn bè được gia chủ mời ở lại thọ trai.

 

LỄ PHÓNG ĐĂNG (LỒNG ĐÈN) ĐỂ CẦU SIÊU, TIỄN ĐƯA VONG HỒN VỀ THẾ GIỚI BÊN KIA

Vào ngày cuối cùng của Lễ Bon (Vu Lan), dân chúng Nhật tổ chức lễ tiễn đưa vong hồn ông bà cha mẹ đi về thế giới bên kia. Người ta làm những chiếc bánh bao tròn bằng bột gạo, tiếng Nhật gọi là “dango” dùng cúng trong buổi lễ, và đốt pháo trước nhà để liên hoan, cầu chúc các hương hồn vui vẻ ra đi. Phần quan trọng trong buổi lễ chia tay này, là dân chúng Nhật thường làm những chiếc thuyền lồng đèn nhỏ (lantern boats) bằng giấy, rồi thả chúng xuống ở các mặt hồ hoặc sông trong thành phố.

Đêm về, hàng trăm ngàn dân chúng ở khắp nơi trên đất Nhật, lũ lượt đi ra các bờ hồ, chen chúc nhau mua những chiếc lồng đèn nhỏ hình vuông bằng giấy, người ta làm sẵn để bán cho khách thập phương. Bên trong mỗi chiếc thuyền lồng đèn, có thắp một ngọn nến chiếu sáng dòng chữ Nhật in trên lồng đèn như sau: “Lễ tiễn đưa các vong hồn về thế giới bên kia”. Nhiều người cẫn thận hơn, tự mình hoặc nhờ một nhà sư viết tên họ hương linh thân nhân quá cố của mình trên những chiếc lồng đèn ấy, trước khi thành kính thả chúng xuống trôi theo dòng nước tĩnh lặng trong đêm tối. Rồi không bao lâu, trên khắp các mặt hồ ngập đầy vô số những chiếc lồng đèn giấy nhấp nhô trên sóng nước, qua những ánh nến lung linh, chập chờn huyền ảo, để từ từ chúng biến mất, chìm dần cuốn trôi theo dòng nước.

Đặc biệt tại chùa Quan Âm (Kannon) ở Asakusa, trong thành phố Đông Kinh (Tokyo), vào ngày 15 tháng 8 dương lịch, lễ phóng đăng hay lồng đèn, tiếng Nhật gọi là “TORÒ-NAGASHI” được chùa tổ chức gần cầu Kototoi, bên cạnh sông Sumida để làm lễ cầu siêu cho các vong hồn các nạn nhân bị chết đuối hay những chiến sĩ trận vong trong quá khứ. Hàng trăm lồng đèn vuông bằng giấy thắp sáng, được nhiều Phật tử từ các nơi xa mang về dự lễ, thả xuống sông trôi theo dòng nước, trong khi chư Tăng Nhật tụng kinh cầu nguyện.

Tại thành phố Miyazu ở tỉnh Kyoto, dân chúng tin rằng các vong hồn đến từ biển cả, và sẽ trở về biển cả. Vì vậy, để giúp cho những hương linh được vãng sanh về thế giới cực lạc hạnh phúc hơn, vào đêm Vu Lan, 16 tháng 8 dương lịch, người ta làm lễ cầu siêuphóng đăng (lồng đèn) tại bải biển trong vùng có chư Tăng chú nguyện. Vào dịp này, dân chúng địa phương cũng tổ chức đốt pháo bông trên một chiếc tàu thủy đậu gần bờ. Hơn một giờ sau, toàn bãi biển rực đỏ với hàng ngàn chiếc lồng đèn được đốt cháy sáng, giữa lúc thiên hạ lũ lượt kéo nhau ra về.

 

TỤC LỆ MÚA HÁT TRONG NGÀY LỄ VU LAN 

Trong mùa lễ Bon (Vu Lan), ngoài việc lo cúng lễ cầu siêu cho hương linh thân nhân quá cố, trao đổi tặng quà giữa các bà con, bạn bè, nhân công, chủ tiệm hay khách hàng ra; dân chúng Nhật còn tổ chức hội hè, múa hát tưng bừng khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, đồng bằng lên đến cao nguyên, đất liền cũng như hoang đảo. Tục lệ múa hát tập thể trong mùa Lễ Vu Lan, tiếng Nhật gọi là “BON-ODORI” (Bon: Vu Lan, Odori: nhảy múa). Tục lệ này bắt đầu có vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ 17 (1624-1643) khi các vị lãnh chúa thời phong kiến Nhật thường hay tổ chức các cuộc múa hát công cộng nhằm mục đích duy trì sự đoàn kết, hòa hợp giữa hàng nông dân, thương gia và các tướng quân (Samurai). Về sau, nó dần dần bị ảnh hưởng của Phật giáo, bằng sự tin tưởng của dân chúng rằng, hằng năm vào dịp lễ Bon (Vu Lan), các oan hồn của những người chết thường hay trở về, hầu mong gặp lại, và chung vui trong vài ngày với bà con, bạn bè của họ đang còn sống ở thế gian. Do đó, người dân Nhật thích tổ chức múa hát để đón rước, chào mừng khi các vong hồn đó trở về thăm gia đình.

Ngày nay, tục lệ nhảy múa, ca hát trong ngày lễ Bon, đã trở thành quá phổ biến, và ngày vui nhất trong năm, đối với dân chúng Nhật ở thành thị cũng như thôn quê. Hơn nữa, tại Nhật, vào hai tháng 7 và 8 dương lịch, khí trời rất nóng, nên có dịp ra ngoài múa nhảy, tránh cái nóng bức ngồi trong phòng ở nhà, là điều thật vô cùng thích thú, nhất là đối với lớp người trẻ, thanh thiếu niên nam nữ. Những cuộc múa hát này tổ chức ở đâu? Nơi nào cũng được, phần nhiều tại khuôn viên các đền, chùa, hoặc ở ngoài đường, hay trong công viên của thành phố. Cũng có thể thực hiện nơi sân trường học, trong vườn sau nhà của mình, hay ngay cả bãi đậu xe công cộng.

Người ta chỉ cần dựng lên ở giữa khoảng đất trống một cái giàn gỗ nhỏ hình tứ giác, cao từ 3 đến 4 thước tây, và đặt trên nền của giàn đó một chiếc trống lớn để đánh hòa nhịp theo với những bản nhạc mở băng ghi âm, hoặc bằng nhạc sống. Trường hợp sàn gỗ của giàn này khá rộng, đủ chỗ cho một ban nhạc và ban vũ địa phương trình diễn trên đó để hướng dẫn quần chúng đứng xung quanh ở dưới nhảy hát theo thì càng tốt. Tham dự các cuộc nhảy múa trong ngày lễ Bon (Bon Dance), nữ giới, quý cô trẻ cũng như các bà, thường thích mặc y phục cổ truyền của Nhật Bản, đó là loại áo KIMONO dệt bằng vải mỏng, đặc biệt dùng cho mùa hè, trên áo có thêu bông hoa nhiều màu sắc rực rỡ.

Người nhảy, phải theo nhịp điệu của tiếng trống, giọng hát của ca sĩ, và âm nhạc gồm có ống sáo và đàn ba giây (tiếng Nhật gọi là Shamisen). Về cách nhảy, có khi người ta nhảy một mình, từng nhóm hay tập thể. Vừa nhảy, họ vừa hát, vỗ tay, dậm chân, khi mau khi chậm, tùy theo tiếng trống và âm nhạc; mọi thứ đều hòa điệu với nhau, nhịp nhàng, khiến cho người ngoài dự xem vô cùng thích thú, hào hứng, khó lòng đứng yên mà không nhảy vào nhập cuộc được. Những bài hát, nghệ sĩ thường dùng để hát trong các buổi vũ Bon (Vu Lan) này, phần lớn là những bài dân ca nổi tiếng. Quý Phật tử nào có dịp qua thăm Nhật Bản, gặp mùa Vu Lan, muốn đến tham dự để nhảy trong ngày lễ Bon với dân chúng địa phương cho biết, thì tốt nhất, theo ý chúng tôi, quý vị nên tìm tới viếng thăm các ngôi chùa danh tiếng ở trong hay ngoại ô các thành phố lớn tại Nhật như Tokyo (Đông Kinh), Kyoto, Osaka và Nara v..v..vì tại những nơi này, các cuộc vũ Bon, phần nhiều được tổ chức liên tiếp trong ba ngày, thu hút rất đông người đến tham dự, đa số là các giới trẻ. Cuộc vũ, nhiều nơi, có thể kéo dài suốt đêm. Dân chúng, khi vũ tập thể, thật quá vui, và hình như họ không còn biết mệt là gì, cứ nhảy múa theo hết bài dân ca này đến bài dân ca khác.

Tưởng nên biết thêm, phần lớn các vũ khúc phổ biến nhất mà dân chúng thích nhảy trong ngày hội lớn Bon, là những vũ điệu dân gian, pha lẩn tôn giáo, được các ban vũ danh tiếng Nhật Bản trình diễn vào dịp lễ Bon tại các thành phố như Kosi, tỉnh (Nagamo); Tokushima (tỉnh Tokushima) và ở đảo Sado thuộc tỉnh Niigata vào các ngày 14,15,16 tháng 8 dương lịch. Ngoài ra, các nơi khác có tổ chức múa hát trong ngày lễ Bon như tại thành phố Miyazu (tỉnh Kyoto) vào ngày 16 tháng 8 và ở đền Omiya tại thành phố Yamaca, (tỉnh Kumamoto) tổ chức vào các ngày từ 15 đến 17 tháng 8 dương lịch.

Nói tóm, ngày lễ Bon hay Vu Lan tại Nhật, là dịp nhắc nhở mọi người con Phật nghĩ đến việc lo báo hiếu, phụng dưỡng cha mẹ hiện còn sống, và cầu siêu cho cha mẹ đã qua đời. Ngoài ý nghĩa tôn giáo ra, ngày Hội lớn Bon còn thể hiện nếp sống văn hóa dồi dào phong phú của dân tộc Nhật. Thật vậy, ngày lễ Bon tại Nhật ngày nay, đã trở thành một ngày Đại Hội, ngày vui nhất trong năm của toàn thể dân chúng, chứ không riêng gì Phật tử; ngày của cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè, chủ thợ, thầy trò v..v.. đều gặp mặt chung vui, sum vầy, qua những cuộc múa hát tập thể ngoài trời, tại đền chùa, đường phố, công viên, và khắp mọi nơi toàn nước Nhật.

 

Tài Liệu Tham Khảo:

1. A Guide to Buddhism (International Buddhist Exchange Center) Yokohama.

2. Japan: An Interpretation, by Lafcadio Hearn, Tokyo

3. Everyday Life in Traditional Japan, by Charles J. Dunn, Tokyo

4. Japan: An Anthropological Introduction, by Harumi Befu, Tokyo

5. A Hundred Things Japanese (The Japan Culture Institute), Tokyo

6. The Map of Japan, by Nitchi Map-Publishing Co., Tokyo

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31682)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12768)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16678)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10826)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22977)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12035)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12346)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11929)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9822)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11281)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9584)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11064)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9904)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9701)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19152)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14608)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10002)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10181)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15352)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10764)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13351)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10007)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9398)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15909)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant