Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

01 Tháng Năm 201200:00(Xem: 30582)
Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

luocsuducphat-thichquangdaoSáng lập đạo Phậtđức Bổn Thích Ca Mâu Ni, Ngài Đản sanh vào ngày trăng tròn tháng Vesak Ấn Độ, tức là tháng tư theo lịch Tàu. Vào năm 624 trước Tây lịch, ở xứ Trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal, ven sườn núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi hùng vĩ cao nhất thế giới. Ngài là thái tử Tất Đạt Đa, tên Ngài có nghĩa là mọi sở nguyện đều thành tựu, Ngài đi tu nên người đời tôn xưng là Mâu Ni, dòng họ Cù Đàm thuộc chi phái Thích Ca. Phụ vương Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da là những người có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.

Sử liệu ghi chép rằng, đêm Ấn Độ bầu trời trong xanh gió mát, hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ hư không giáng xuống rồi từ đấy hoàng hậu thọ thai thái tử. Sau giấc mộng, Vua và Hoàng hậu phát nguyện trai giới tuyệt dục. Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa, đoàn tỳ nữ theo hầu Hoàng hậu dạo cảnh Lâm Tỳ Ni vào một buổi minh. Đến gốc cây Vô Ưu thấy trên cành có một đóa hoa nở đẹp, Hoàng hậu đưa tay hái hoa thì chính lúc đó Đản sanh thái tử. Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh, phẩm Thụy Ứng ghi chép rằng: “Sau khi lọt lòng mẹ, Thái tử đứng dậy nhìn sáu phương và nói: Phương Đông, Ta là bậc thầy dẫn đường tối thượng. Phương Nam, Ta là đám ruộng phước tốt lành. Phương Tây, Ta thị hiện cõi đời này là lần cuối. Phương Bắc, Ta thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong đời này. Phương dưới, Ta ra đời là để hàng phục chúng ma. Phương trên, Ta là nơi nương tựa của trời người. Nhìn sáu phương xong, Ngài đi bảy bước rồi đứng lại, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất rồi cất tiếng dõng dạc: ‘Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’; Có nghĩa là trên trời dưới trời chỉ có cái ta chân thật là đáng quý. Nói xong, thái tử trở lại như mọi đứa trẻ bình thường”. Trong giờ phút này, trời quang mây tận, có mưa hoa muôn sắc tỏa ngát hương thơm, đại địa chấn động. Trên hư không chư thiên trỗi nhạc đón chào. Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên tiên A Tư Đà xem tướng rồi cho biết, nếu thái tử ở đời thì làm một bậc Chuyển luân thánh vương, nếu đi tu sẽ thành bậc Đại giác.

Thái tử sanh được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da trút xác phàm sanh về cõi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà di mẫuMa Ha Bà Xa Bà Đề nuôi dưỡng. Lớn lên thái tử được Vua cha cho theo học và thông hiểu các môn học Ngũ minh của thế gian. Vâng lời vua cha, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La sau một cuộc chiến thắng so tài văn võ và sinh được một hoàng tử tên La Hầu La. Ngài được Vua cha và triều thần nuông chiều cho hưởng thụ mọi dục lạcthế gian ham muốn như xây cung điện thích hợp bốn mùa cho Thái tử ở, hàng trăm cung phi mỹ nữ hầu hạ xướng hát đàn ca. Tuy sống trong nhung lụa êm ấm, vợ đẹp con thơ, ngai vàng điện ngọc, quyền quý cao sang nhưng Thái tử luôn luôn suy tưởng, không bằng lòng với hạnh phúc giả dối hiện tại. Và sau khi du hành ra bốn cửa thành xem dân chúng sinh hoạt, Ngài chứng kiến và thấm thía những nỗi khổ đau của chúng sanh và cái khổ sanh – già – bệnh – chết. Từ đó, Thái tử quyết chí xuất gia tìm con đường giải thoát. Đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch, sau một cuộc ca vui múa hát kéo dài đầy thấm mệt, Thái tử vào phòng nghỉ và thiếp đi một hồi lâu, bỗng Ngài hốt nhiên tỉnh dậy, đêm vắng lặng, mọi người đang chìm trong giấc ngủ say, trên nét mặt các ca nhi vũ nữ, phấn son nhuễ nhoại, mùi hôi xú uế. Kẻ si mê sống trong chốn này như voi bị sa lầy, như thiêu thân đâm đầu vào lửa, bao nhiêu căn lành sẽ rơi rụng hết, Thái tử quán sát hồi lâu, ngài chán ngán ngắm cảnh ô trược hiện nguyên hình. Ngài vào phòng nhìn mặt vợ con lần cuối xong rồi đến chuồng ngựa, bảo người tôi trung là Sa Nặc, thắng ngựa Kiền Trắc vượt hoàng thành ra đi trong đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch. Sao mai đã lên, mặt nước sông A Nô Ma rào rào dậy sóng, Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa, con đường mòn đến đây dứt nẻo, ngài trao dây cương ngựa cho Sa Nặc, tay cầm kiếm cắt tóc, cỡi bỏ áo hoàng bào, ngài dặn bảo Sa Nặc đem về triều tâu trình vua cha. Từ đây, một cuộc đời mới bắt đầu, một cuộc chuyển mình toàn diện đang lớp lớp xảy ra đưa đến một cuộc thoát xác vĩ đại bi hùng nhất lịch sử con ngườithái tử sẽ thực hiện được 6 năm sau.

 phatsu-20

Đức Thế Tôn thành đạo

Thái tử đến tìm hiểu, học đạo với một vị tiên tên là A La Lam, Thái tử rất hoan hỷ vì A La Lam quả tình là một nhà thông thái, Thái tử chỉ học một thời gian ngắn, Ngài thâu nhiếp hết các yếu pháp của A La Lam mà vẫn chưa thỏa mãn, chưa tìm ra con đường sáng tỏ. Trên bước đường tìm đạo, Thái tử đã gặp nhiều vị đạo sĩ khác nhưng không có vị nào làm cho Thái tử vừa lòng. Sau cùng, Thái tử đến vườn Lộc Uyển tu khổ hạnh với năm ông Kiều Trần Như. Ngài ép xác tu luyện suốt sáu năm trời đến nỗi thân khô sức kiệt nhưng vẫn vô hiệu. Một hôm Thái tử bổng nghĩ rằng, đại sự giải thoát đâu cần bắt buộc nhục thể phải chịu khổ, đói ăn, khát uống là việc dĩ nhiên. Điều cần thiết là không nên để ý đến nhục thể mà nên quên nó đi. Vì nếu không quên nó thì tâm bị ràng buộc, mà tâm bị ràng buộc thì uế chướng không thể tiêu trừ, uế chướng không thể tiêu trừ thì làm sao tâm được thanh tịnh, được giải thoát. Nghĩ thế, Thái tử rời chỗ ngồi, xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội sạch sẽ, đến gốc cây Bồ đề, Thái tử lót cỏ non làm chiếu ngồi rồi thọ dụng bát sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cúng. Thể lực phục hồi, Ngài ngồi điềm tĩnh phát đại thệ nguyện, “nếu phen này không tìm ra chánh đạo để giải thoát sanh tử, thì thà có thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi nơi này”. Thái tử thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm, Ngài đã thành Đạo.

Sử liệu ghi chép rằng, trước khi thành đạo, một trận giặc lòng khủng khiếp đã xảy ra, Thái tử bị ma vương quấy phá dữ dội, cả ma trong lẫn ma ngoài. Ma trong là phiền não vọng tưởng, ma ngoài là thân sắc, uy lực. Các loài ma này đã từng khống chế thế gian mà từ ngàn xưa chưa ai khắc phục nổi. Sau khi hàng phục ma vương, Thái tử bỗng thấy lòng mình tuyệt đối vắng lặng, tâm hồn rực sáng, Ngài nhập đại định an trụ trong cảnh giới vô niệm, vô tưởng, một thế giới sáng ngời, trong đó hiện cả một dòng sanh tử lưu chuyển của chính mình. Khi làm cha, khi làm con, khi làm thầy, khi làm tớ, khi khóc, khi cười, lúc ở địa phương này, lúc sanh ở nơi khác, không nhất định, không thường còn. Trong dòng sanh tử ấy, lô nhô lúc nhúc còn có vô số chúng sanh khác khi bạn, khi thù, tất cả đều bị trói buộc bởi quan hệ nhân duyên sanh khởi. Chính quan hệ nhân duyên này mê hoặcgiam hãm chúng sanh cùng năm mãn kiếp trong ái dục lợi danh vô phương giải thoát. Nhìn cảnh oán ân ân oán ấy, Thái tử thấy thương chúng sanh vô hạn, trong cảnh giới bình đẳng ấy, sanh và tử hiện ra không hai, sanh là đầu mối của tử và tử cũng lại là đầu mối của sanh, sanh tử tử sanh tiếp nhau không cùng tận. Mọi phiền não tiêu tan, lòng tràn ngập hoan hỷ, Thái tử thấy xung quanh Ngài không còn gì đáng gọi là không gian hay thời gian nữa, mọi phân biệt đều tan biến. Cảnh giới này không phải là giấc mơ mà là cảnh giới thực bất khả tư nghị, chính lúc đó Ngài hoàn thành con đường Giác ngộ, chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ngài đã thành Phật.

Sau khi thành đạo, Phật liền đến hóa độ năm người bạn trước kia đồng tu khổ hạnh với Ngài tại vườn Lộc Uyển. Phật dạy: “Này Kiều Trần Như! Hình mà khổ lắm thì tâm dễ rối loạn, thân mà vui lắm thì ý dễ buông lung. Chạy theo dục lạc hay ép xác khổ hạnh đều chưa phải là lối tu chân chính. Này Kiều Trần Như! Ta đã xa lìa khổ hạnh cũng như đoạn trừ dục lạc, Ta tu theo Trung đạo nên đã chứng quả Vô thượng Bồ đề. Bây giờ ta là một vị Phật, một bậc đã thoát khỏi sanh tử khổ đau. Này Kiều Trần Như! Đây là bốn sự thật mà Ta đã chứng ngộ được mệnh danh là Tứ thánh đế. Thứ nhất Khổ đế, những sự thật về đau khổ mà toàn thế gian đang ngậm chịu. Sanh khổ là cái khổ bị bức bách trong lúc thai nghén, đau đớn trong lúc lọt lòng mẹ và vất vả khổ cực vì mưu sinh. Lão khổ là cái khổ bởi thân thể hao mòn, tinh thần suy thoái. Bệnh khổ là cái khổ bị hành hạ thân xác do bịnh tật. Tử khổ là cái khổ trong giờ phút lâm chung, nghiệp lực giày xéo, thần thức rời khỏi xác thân, sự đau đớn này được ví như con rùa còn sống bị lột xác. Ái biệt ly khổ là cái khổ đang yêu thương nhau mà phải chia lìa. Cầu bất đắc khổ là cái khổ của sự tham cầu mà không được toái ý. Ngũ ấm sí thạnh khổ là những cái khổ do năm ấm biến động, bủa vây và giam hãm con người. Thứ hai Tập đế là các nguyên nhân gây ra đau khổ là do ái động, dục tưởng phát ra dục sự mà tạo nghiệp trầm luân. Thứ ba Diệt đế là dứt ái, đoạn dục không còn mảy may phiền não vi tế vô minh, thân tâm được định tĩnh, an lạc tự tại. Thứ tư Đạo đếthực hành Bát chánh đạo để đạt quả vị Niết bàn. Đó là Chánh tri kiến là thấy biết chơn chánh, Chánh tư duysuy nghĩ chơn chánh, Chánh Ngữlời nói chơn chánh, Chánh nghiệp là hành động chơn chánh, Chánh mạng là mưu sinh chơn chánh, Chánh tinh tấn là siêng năng chơn chánh, Chánh niệmnhiếp tâm chơn chánh, Chánh định là tâm tư định tĩnh. Này Kiều Trần Như! Tứ thánh đếnhư thật, Ta đã chứng nhập, tâm được tự tại, được giải thoát. Trưởng lão Kiều Trần Như nghe xong liền đắc quả A La Hán, bốn bị kia về sau cũng lần lượt đắc quả trở thành đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật. Bấy giờ trong thế gian mới có đủ ba ngôi báu, Phật là Phật bảo, Pháp Tứ đếPháp bảo, năm vị Tỳ kheoTăng bảo. Lần khai đạo đầu tiên này được gọi là Sơ chuyển pháp luân. Sau khi độ nhóm ông Kiều Trần Như xong, đức Phật đem ánh đạo vàng gieo rắc khắp xứ Ấn Độ, suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa, Ngài thẳng tay xóa bỏ mọi giai cấp nên đã quy hướng được mọi thành phần trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ trở về với đạo của Ngài như tôn giả Ưu Ba Lydâm nữ Ma Đăng Già vốn thuộc giai cấp Thủ đà la, về sau tu chứng quả A La Hántrường hợp của rất nhiều vị khác nữa. Ngài đã hàng phục được những tay cự phách của các giáo phái ngoại đạo trở về với chánh đạo và hướng thiện được những con người tàn ác như vua A Xà Thế và anh chàng Vô Não v.v… Ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáongoại đạo đều lui xa dần, cũng vì thế mà bên trong cũng có những kẻ hiếu danh ganh ghét như Đề Bà Đạt Đa mưu toan phản nghịch, bên ngoài làm cho các ngoại đạo tìm kế chống phá. Song rốt cuộc, họ phải nhượng bộ trước giáo lý viên dung và nhân cách vô thượng của Ngài. Đạo Bồ đề từ đấy đã ăn sâu gốc rễ và trở thành một tôn giáo chính của các nước lớn nhỏ tại Ấn Độ thời bấy giờ. Đức Phật sau khi tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, đến nay Ngài đã thọ 80 tuổi. sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo định luật vô thườngbiến đổi yếu già. Một hôm ngài gọi ông A Nan, người đệ tử hầu cận Ngài đến và dạy bảo: “A Nan! Hạnh nguyện Ta nay đã viên mãn như lời nguyện xưa. Nay Ta đã có một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử, có đủ bốn chúng đệ tử Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Trong đó nhiều vị có thể thay ta chuyển xe pháp và đạo ta cũng đã lan truyền khắp nơi. A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”. Năm ấy Ngài an cư tại rừng Ta La trong xứ Câu Ly cách thành Ba La Nại 120 dặm. Các đệ tử Ngài đi truyền giáo các nơi nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn đều kéo nhau về, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông. Trong giờ phút cuối cùng, Ngài đã độ cho ông Tu Bạt Đạt La, người đệ tử xuất gia sau cùng và thọ dụng bát cháo nấm của ông Thuần Đà dâng cúng. Các đệ tử của Ngài đã vây quanh đầy đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp ở xa chưa về kịp, Ngài hoan hỷ dặn dò phú chúc lần cuối: Này các đệ tử! Sau khi ta diệt độ, y bát của ta sẽ truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp, các ngươi phải lấy Giới luật làm thầy, ở đầu kinh điển của Ta nên nêu bốn chữ ‘Như thị ngã văn’. Xá lợi chia ra làm ba phần, một phần cho thiên cung, một phần cho long cung và một phần chia cho tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ. Này các đệ tử! Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, các ngươi hãy lấy pháp của Ta làm đuốc, hãy theo pháp của Ta mà tự giải thoát, đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác ngoài các ngươi. Này các đệ tử! Các ngươi đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn, mọi vật ở đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã chỉ có Đạo ta là quý báu, chỉ có Chân lý đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để được giải thoát”. Sau khi dặn dò xong, ngài nhập đại định rồi vào Niết bàn. Lúc ấy nhằm ngày 15 tháng 2 âm lịch theo giáo sử Trung Hoa. Nhục thân Ngài được các đệ tử làm lễ trà tỳ tại chùa Thiền Quang ở thành Câu Ly. Tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tướng dũng đến chia xá lợi.

Đức Phật đã nhập Niết bàn nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực trong tâm của mỗi chúng ta. Suốt tám mươi năm trời, Ngài đã hy sinh tất cả cuộc đời để hóa độ và dẫn dắt chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui giải thoát.

Lòng thương của đức Phật thật là vô lượng!

Ân đức của đức Phật thật là vô biên!

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11706)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11202)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11928)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10243)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29237)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11953)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11938)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10949)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19618)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7331)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11357)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35306)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12860)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12209)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17338)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11473)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22101)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11821)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15917)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12124)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14105)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12605)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13217)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13655)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19992)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14410)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13540)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12341)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11899)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13406)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13729)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31978)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13068)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13424)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13307)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14925)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15726)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14868)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15849)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20775)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21301)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35124)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27528)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43926)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37892)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15136)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15067)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12972)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12640)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15612)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27697)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14959)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11406)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53175)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16521)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13164)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12607)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15580)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15492)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14756)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15610)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13033)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11762)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12296)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12577)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13476)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12464)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24975)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11966)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12736)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11616)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13733)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14099)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12908)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12740)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13007)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13911)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12444)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14432)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13288)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13757)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14626)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11857)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12725)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28281)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11781)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12641)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15056)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12004)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11761)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12854)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11972)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11519)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10279)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant