Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 1

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8780)
Đoạn 1

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 1

TỰA

CHÁNH VĂN:

Có vị Đại Thiền sư pháp hiệu Hy Vận ở dưới ngọn Thứu Phong, núi Hoàng Bá huyện Cao An, Hồng Châu. Ngài là đích tôn của Tào Khê Lục Tổ, là pháp điệt (con cháu) của Bách Trượng, Tây Đường. Ngài riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, không có pháp gì khác, tâm thể cũng không, muôn duyên đều lặng, như mặt trời lên trên hư không sáng suốt chiếu soi không có một mảy bụi.

GIẢNG:

Bài tựa này do ông Bùi Hưu viết. Ông là vị cưđắc pháp nơi Thiền sư Hoàng Bá, nên rất mực qui ngưỡng Sư. Thiền sư Hy Vận ở núi Hoàng Bá, chúng ta gọi Ngài là Hoàng Bá tức gọi theo tên núi, vì quí kính Ngài nên gọi tránh như thế. Ngài là đích tôn của Tào Khê Lục Tổ tức cháu lớn của Lục Tổ. Dưới Lục TổNam Nhạc Hoài Nhượng, dưới Nam Nhạc Hoài NhượngMã Tổ Đạo Nhất, dưới Mã Tổ Đạo NhấtBách Trượng Hoài Hải, Ngài là đệ tử của Tổ Bách Trượng. Như vậy Ngài là cháu đời thứ tư của Lục Tổ, nên gọi là đích tôn, là pháp điệt của Bách Trượng, Tây Đường, tức cháu của Thiền sư Tây Đường Trí Tạng.

Ngài riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, không có pháp gì khác. Chỗ này nói đến lý rời văn tự. Duyên do vì ông Bùi Hưu tới chùa Khai Nguyên, gặp Ngài đang ẩn nghỉ nơi đây. Tướng quốc Bùi Hưu bấy giờ là một vị đại quan đời Đường, nên thầy Trụ trì đón tiếp rất đàng hoàng. Bùi Hưu tới nhà Tổ thấy hình các vị Cao tăng vẽ trên vách, ông hỏi thầy Trụ trì:

- Hình Cao tăng ở đây, mà Cao tăng ở đâu?

Thầy Trụ trì không có câu trả lời. Bùi Hưu hỏi tiếp:

- Trong đây có Thiền sư không?

- Mới có người tới, dáng vẻ giống như Thiền sư.

Bùi Hưu bảo:

- Xin Thầy mời vị đó ra cho.

Thầy Trụ trì mời ngài Hoàng Bá ra. Thấy Ngài, Bùi Hưu thưa:

- Khi nãy tôi có một câu hỏi Hòa thượng Trụ trì, nhưng Ngài tiếc lời không đáp, giờ xin hỏi Thiền sư: “Hình Cao tăng ở đây mà Cao tăng ở đâu?”

Ngài Hoàng Bá gọi:

- Bùi Hưu!

Bùi Hưu ứng thinh:

- Dạ.

Ngài Hoàng Bá hỏi:

- Ở đâu?

Ngay đây, Bùi Hưu biết chỗ ở của Cao tăng.

Ở đây nói “rời văn tự”, vì câu đáp trên của ngài Hoàng Bá không có trong kinh văn nào cả. Chúng ta ngày nay phần nhiều giải thích, rồi dẫn kinh làm chứng. Còn Ngài kêu “Bùi Hưu”, cư sĩ ứng thinh “dạ”, Ngài hỏi “ở đâu” liền xong. Có kinh nào dạy câu đó không? Không. Cho nên nói “giáo ngoại biệt truyền” là nghĩa này vậy. Nói rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, tức không có văn tựchỉ thẳng tâm, chớ không có gì khác. Giai thoại này cho chúng ta thấy rõ thêm tướng quốc Bùi Hưu và Tổ Hoàng Báliên hệ với nhau như thế.

CHÁNH VĂN:

Người chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Người nói đó, không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Cho nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt.

GIẢNG:

Người chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Sao không mới cũ, không sâu cạn? Bởi vì tâm thể không hai, nó vốn có sẵn, không phải cũ cũng không phải mới, không sâu cũng không cạn. Biết được tâm thể thì tâm thể là vậy thôi.

Người nói đó, không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Như trường hợp ngài Hoàng Bá chỉ cho Bùi Hưu Cao tăng ở đâu, là chỉ bằng tông chỉ nào? Ngài gọi một tiếng, Bùi Hưu liền dạ, Ngài hỏi ở đâu là rồi. Cho nên nói không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, ngay nơi chỗ vừa thốt lên, dạ đó là phải. Động niệm liền trái, dấy niệm là trật rồi, nhiên hậu mới là bổn Phật, thấy được như vậy mới là ông Phật gốc của mình.

Cho nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt, vì vậy lời nói quá gọn, lý thì chỉ thẳng, đạo lại cao vót, hạnh chẳng riêng biệt.

CHÁNH VĂN:

Học giả bốn phương trông núi này đua nhau đến, nhìn thấy tướng là ngộ, hải chúng tới lui thường hơn ngàn người.

GIẢNG:

Dưới hội ngài Hoàng Bá chúng hơn một ngàn. Đó là nói đạo đức và lối chỉ dạy của ngài Hoàng Bá cảm hóa được rất nhiều người.

CHÁNH VĂN:

Hội Xương năm thứ 2 (842 TL), tôi trấn nhậm Chung Lăng (Hồng Châu) đích thân lên núi rước Ngài đến bổn châu, nghỉ ở chùa Long Hưng, sớm chiều hỏi đạo. Đại Trung năm thứ 2 (848 TL), tôi đổi đến Uyển Lăng (Tuyên Châu) cũng đi lễ thỉnh Ngài đến sở bộ an cư ở chùa Khai Nguyên. Tôi sớm chiều đến thọ pháp, trở về ghi lại mười phần được một hai, đeo làm tâm ấn không dám bày ra. Nay sợ e tinh nghĩa nhập thần đời sau không được nghe, bèn trao nó cho môn hạ tăng Đại Châu, Pháp Kiến trở về núi xưa chùa Quảng Đường, hỏi Trưởng lão pháp chúng những ngày trước gần gũi được nghe, đồng khác thế nào.

GIẢNG:

Tướng quốc Bùi Hưu thỉnh ngài Hoàng Bá đến Uyển Lăng, rồi về chùa Khai Nguyên v.v… tức những nơi Ngài trực tiếp giảng dạy cho ông. Ông nghe nhận và ghi chép, cho đó là tinh nghĩa nhập thần của ông, nhưng sợ cái nghe của mình không được trọn vẹn, không sáng sủa, nên đưa cho đệ tử của Tổ Hoàng Bá coi lại, tức các Trưởng lão trong Pháp chúng, so sánh với những lời của các vị này được nghe, có đồng với lời của ông đã nghe hay không. Các vị Trưởng lão thấy lời ông ghi chép rất hay, rất đúng nên đưa vào phần Ngữ lục, gọi là “Pháp yếu truyền tâm Thiền sư Đoạn Tế Hoàng Bá”. Như vậy quyển luận Truyền Tâm Pháp Yếu này ra đời là do ông Bùi Hưu ghi chép lời dạy của Tổ Hoàng Bá.

CHÁNH VĂN:

PHÁP YẾU TRUYỀN TÂM

THIỀN SƯ ĐOẠN TẾ Ở NÚI HOÀNG BÁ

Sư bảo Hưu rằng:

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh không từng diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc có không, không kể mới cũ, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng danh ngôn dấu vết đối đãi, chính thẳng đó là phải, động niệm liền trái.

GIẢNG:

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, phải hiểu chữ một tâm này cho rõ, đừng bị lầm. Phật với chúng sanh chỉ có một tâm, nếu Phật giác ngộ lẽ ra chúng sanh cũng giác ngộ, nhưng tại sao Phật giác ngộchúng ta lại không giác ngộ? Nếu một tâm thì tất cả chư Phật không hai, tại sao lại có Phật Di-đà, Phật Ca-diếp, Phật Thích-ca, vô số Phật như vậy? Chỗ này người ta dễ lầm, như Bà-la-môn giáo cho rằng chỉ có một Phạm thiên, khi tu đại ngã của họ thể nhập vào đại ngã Phạm thiên, thế là xong. Như vậy chỉ có một đại ngã, bao nhiêu người tu đều nhập về đó hết. Nếu Phật nói một tánh giác chung thì Ngài thành Phật chúng ta cũng được ảnh hưởng, sao Phật thành Phật lâu quá mà mình còn ngồi đây? Đó là một lý.

Lý thứ hai, nếu là một thì chỉ có một vị Phật, như Bà-la-môn giáo chỉ có một Đại Phạm thiên gọi là đại ngã, sao chúng ta lại có vô số Phật, vậy vị Phật nào là chủ? Chỗ này kinh Viên Giác dùng thí dụ thật hay. Nói rằng trong một ngôi nhà tối có đốt một trăm ngọn đèn riêng khác, nhưng ánh sáng của một trăm ngọn đèn đó hòa nhập vào nhau chỉ có một, không sai khác. Như vậy ngọn đèn tuy khác nhưng ánh sáng thì đồng. Cho nên chữ một là nói về ánh sáng chớ không phải nói về ngọn đèn. Một mà không phải một, mới có vô số chư Phật. Mỗi vị giáo hóa mỗi nơi, giống như các ngọn đèn để ở những vị trí khác nhau, nhưng tánh chất của ánh sáng vẫn đồng.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu hằng hà sa số chúng sanhhằng hà sa số chư Phật. Quí vị có dám nhận mình là Phật không? Nếu bây giờ nhận mình là Phật thì bị tội tăng thượng mạn, nhưng nghĩ mình không có Phật tánh thì tu tiến không? Không. Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh. Như người có hòn ngọc quí mà quên, cất đâu không biết thì người đó giàu hay nghèo? Có ngọc quí nhưng không biết để đâu thì giàu cũng thành nghèo. Chừng nào lấy được hòn ngọc quí ra dùng mới giàu. Chúng ta cũng vậy, có tánh giác là có Phật nhưng bây giờ quên, không biết Phật ở đâu, cứ thấy toàn là chúng sanh. Chừng nào chúng ta thấy ông Phật của mình một cách cụ thể, rõ ràng chừng đó mới biết mình vốn là Phật mà xưa nay quên. Như vậy tâm thể chúng ta có tánh Phật đồng với tánh Phật của chư Phật, nên nói là một.

Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh, không từng diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng v.v… Tâm thể này từ thuở nào tới giờ, không sanh không diệt, không màu sắc không hình tướng. Chỗ này nói suông thì quí vị rất khó hiểu, vì sao tâm lạ vậy? Ở đây có hai trường hợp để chúng ta nhận biết được tâm.

Trường hợp thứ nhất rất bình thường giản dị, chỉ ai khéo tinh mắt một chút sẽ nhận ra ngay. Như chúng ta ngồi bình tĩnh trước sân chùa nhìn tất cả cảnh vật, mà không có niệm số một số hai nào dấy động hết, lúc đó có tâm không? Nếu không tâm thì ai biết nhìn, ai biết thấy, có tiếng động biết nghe. Cái thấy nghe không dấy niệm đó là tâm chưa từng sanh chưa từng diệt. Vừa khởi khen chê hay ưa ghét liền qua tướng sanh diệt. Cho nên ở đây nói cái đó không có danh ngôn mà động niệm liền trái. Chỉ khi không dấy niệm tâm đó hiện tiền. Tâm không nghĩ gì hết diễn tả làm sao? Hình tướng làm sao? Dáng dấp làm sao? Vì nó không hình tướng nên không xanh vàng đỏ trắng mà vẫn thấy vẫn nghe. Vừa khởi một niệm như cây tùng này đẹp thì tâm ẩn khuất liền. Cho nên dùng chữ “động niệm liền trái”, động niệm là mất tâm chân thật liền.

Chúng ta nhìn là nhìn, thấy là thấy, không khởi niệm thì tâm hiện tiền. Có khi nào quí vị cảm nhận điều đó không? Ai cũng cảm nhận được hết, như vậy đâu có người nào vô phần. Đã có phần nhưng không biết giữ của báu nên rồi xao lãng quên mất, cứ chạy theo cái nghĩ đông nghĩ tây cả ngày. Nhiều người rất tội nghiệp, ngồi một lát chợt vui lên muốn cười, sau đó lại quạu. Dáng vui dáng quạu của họ hiện ra tại cái gì? Tại ôn lại quá khứ, quá khứ đẹp thì vui, quá khứ thù địch thì quạu. Như vậy họ ngồi đó mà không có ngồi đó, vì ngồi đó mà sống với quá khứ. Chúng ta sống với cái đã qua là sống với cái mất. Hoặc không sống với cái đã qua thì sống với cái chưa tới, chưa tới cũng là ảo tưởng. Cái thực hiện tại chúng ta không sống, thành ra sống cả ngày mà thật ra không sống gì hết.

Vì vậy nhà Thiền bắt chúng ta phải sống với hiện tại, quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, chỉ hiện tại là chủ yếu. Như vậy mới thấy sống với hiện tại quá khó. Tại sao khó? Vì chúng ta quen nuôi dưỡng quá khứ, vị lai. Lấy quá khứ làm kinh nghiệm, lấy vị lai làm mơ ước. Mơ ước cái sẽ tới đẹp hơn bây giờ, nên thấy nó hấp dẫn, còn hiện tại thì coi thường.

CHÁNH VĂN:

Ví như hư không không có giới hạn, không thể đo lường.

GIẢNG:

Tâm lặng lẽ, tự sáng suốt biết rõ mà không suy nghĩ, tâm đó có tướng mạo không? Không. Bởi không tướng mạo nên giống như hư không, giống như hư không nên không giới hạn, vì vậy nói nó lớn không thể đo lường.

CHÁNH VĂN:

Duy một tâm này tức là Phật. Phật cùng chúng sanh không riêng khác.

GIẢNG:

Chỉ cái tâm lặng lẽ không động niệm đó là Phật. Phật cùng chúng sanh không khác.

CHÁNH VĂN:

Chỉ vì chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, càng cầu càng mất, khiến Phật đi tìm Phật, đem tâm bắt tâm, mãn đời cùng kiếp trọn không thể được.

GIẢNG:

Chỉ vì chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, chạy theo hình thức nên càng cầu càng mất. Nghe chùa nào thờ Phật đẹp muốn tới chiêm bái. Nghe chùa nào Phật linh cầu gì cũng được, muốn chạy lại cầu. Chỉ cầu cái bên ngoài, mà càng cầu càng mất. Khiến Phật đi tìm Phật tức sai ông Phật thật đi tìm ông Phật giả. Ông Phật thật là ông Phật tâm tỉnh giác của mình, ông Phật giả là ông Phật xi măng ngồi trên bàn. Có đau không? Nói vậy có người bảo tôi không lạy Phật nữa, sợ tội vì đem Phật thật lạy Phật giả. Hiểu như vậy càng lầm. Tuy biết mình có Phật thật nhưng chưa sống được với Phật thật mà sống với chúng sanh, thì thôi đem chúng sanh lạy Phật giả, để tỉnh nhớ ông Phật của mình. Lạy Phật giả để nhớ đến Phật thật nơi mình, chớ không phải lạy Phật để cầu xin. Đó là ý nghĩa người biết tu Phật.

Đem tâm bắt tâm, mãn đời cùng kiếp trọn không thể được. Tức đem tâm này tìm tâm khác, cứ đuổi bắt nhau không có ngày cùng. Thí dụ chúng ta vừa dấy niệm xấu, liền dùng niệm tốt đuổi niệm xấu đi. Niệm xấu đi rồi chỉ còn niệm tốt, như vậy cũng là tu kha khá. Nhưng vẫn còn cái này đuổi cái kia, chỉ khi nào niệm tốt niệm xấu đều lặng thì cái thật nó hiện tiền.

CHÁNH VĂN:

Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền.

GIẢNG:

Câu này nói trắng ra, không giấu giếm gì hết. Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền, tức mình dứt hết suy nghĩ, dứt hết tính toán thì Phật tự hiện tiền. Quí vị một ngày Phật hiện được mấy giờ? Hay mấy phút? Sáu tiếng ngồi thiền, tôi cho mất hết năm tiếng, ít ra cũng còn một tiếng Phật hiện, chớ chẳng lẽ không có chút nào. Tu là để chúng ta trở về Phật của mình, mà muốn trở về tâm Phật thì phải dứt nghĩ, quên hết tính toán, Phật mới hiện tiền.

CHÁNH VĂN:

Tâm này tức là Phật, Phật tức là chúng sanh.

GIẢNG:

Tâm hiện tiền đó là Phật, tâm này đâu có rời thân người. Cho nên Phật tức là chúng sanh.

CHÁNH VĂN:

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm chư Phật tâm này không thêm, cho đến lục độ vạn hạnh công đức như hà sa tự sẵn đầy đủ, chẳng nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng.

GIẢNG:

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm Phật tâm này không thêm. Tâm hằng tri hằng giác của mình lúc đang làm chúng sanh, nó vẫn hiện tiền, khi ta thành Phật nó vẫn hiện tiền, đâu có thêm bớt. Cũng chính tâm này khi gặp duyên, nó ứng hiện nào là lục độ vạn hạnh công đức như hà sa, tự đầy đủ, không nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng. Cho nên nói chân khôngdiệu hữu. Tâm này không một tướng, một bóng dáng nên gọi là chân không. Từ chân không đó tùy duyên, ứng cơ, lợi vật không thiếu nên gọi là diệu hữu.

CHÁNH VĂN:

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, chấp tướng tu hành để cầu được công dụng đều vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

GIẢNG:

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, cứ chấp tướng bên ngoài tu hành để cầu được công dụng, thì những công dụng đó đều là vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

CHÁNH VĂN:

Tâm này tức là Phật lại không có Phật khác, cũng không có tâm khác.

GIẢNG:

Tâm không dấy niệm, không suy tính, không so đo v.v… tâm đó là Phật, không có tâm nào khác nữa. Chúng ta thấy một đoạn này Tổ Hoàng Bá dạy Bùi Hưu rất rõ ràng, không giấu giếm tí nào hết. Cũng ngài Hoàng Bá mà khi Lâm Tế tới hỏi thì đánh, không nói gì hết, còn Bùi Hưu tới hỏi Ngài lại dạy. Tại sao? Chỗ này phải nắm cho vững, nếu không chúng ta hiểu lầm chắc gặp quan, Ngài nể nên chỉ dạy, còn gặp Tăng Ngài đánh.

Nếu đi sâu chúng ta sẽ thấy thâm ý người xưa. Vì Bùi Hưu là quan, không có thời giờ, nếu hiểu được đạo ông sẽ ủng hộ đạo. Còn Lâm Tế, Tổ biết là một người có tương lai, nếu nói rõ cho nghe thì nhận một cách quá nhẹ nên dễ quên. Như mấy chú nghe tôi giảng có thể ngay lúc đó hiểu, nhưng một lát quên mất, cuối cùng chỉ nhớ hơn thua tốt xấu phải quấy lăng xăng, mà quên cái thật. Muốn cho con người kỳ đặc kia được chỗ thâm nhập mãi mãi không quên, cho nên dồn ép bằng cách đánh.

Hỏi “thế nào là đại ý Phật pháp”, Tổ liền đánh. Hỏi ba lần, đánh ba lần, đánh cho khóc mò vì không biết lỗi tại chỗ nào mà ăn đòn. Nhưng tới chừng gặp ngài Đại Ngu chỉ nói một cách hết sức nhẹ: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà, chỉ tột cùng cho ông rồi, mà ông còn nghĩ có lỗi không lỗi”, ngay đó ngài Lâm Tế nhận ra, thấy rõ ràng. Cho nên nói “từ khi nhận được rồi tới sau không bao giờ quên, không bao giờ mất”. Vì vậy tông Lâm Tế kéo dài mãi hơn một ngàn năm. Như vậy không phải vì vị nể Bùi Hưu mà Tổ xử sự nhẹ nhàng, không vì ác cảm với Lâm Tế mà đánh đập. Hành động đánh là gây một ảnh hưởng sâu đậm lâu dài cho ngài Lâm Tế. Còn vị cư sĩ kia hiểu bao nhiêu tốt bấy nhiêu, không sao hết. Nếu đánh Bùi Hưu, ông sẽ oán chùa, có lợi gì. Cho nên hai trường hợp khác nhau.

Biết như vậy nhưng sao bây giờ tôi không đánh mấy chú? Bây giờ người ta đồn tu thiền điên, mà tôi lại đánh hét nữa thì người ta nói tôi điên mất rồi, ai dám tu thiền. Do đó tôi phải giảng nói để mấy chú lãnh hội được phần nào hay phần ấy, cộng thêm sách vở nghiên cứu. Từ đó quí vị mới tin Phật pháp hay mà ráng tu, chớ làm như người xưa không thể được. Tùy thời cơ, tùy hoàn cảnhlinh động, chúng ta không thể chấp một bề. Có nhiều người nói Đức Sơn đánh, Lâm Tế hét đó là Thiền tông Trung Hoa. Mình bây giờ cũng tu thiền, tại sao không biết đánh biết hét gì hết, như vậy là hiểu lầm. Mỗi trường hợp có cái khác nhau, chúng ta phải linh động, không thể chấp cứng một bên.

CHÁNH VĂN:

Tâm này sáng sạch ví như hư không, không có một điểm tướng mạo, khởi tâm động niệm liền trái pháp thể, tức là chấp tướng. Từ vô thủy tới nay không có Phật chấp tướng. Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là thứ lớp. Từ vô thủy đến nay không có Phật thứ lớp.

GIẢNG:

Ở đây cho chúng ta thấy lối tu đốn ngộ không có thứ bậc, không từ Bồ-tát thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa v.v… mà đi thẳng. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Đốn là đốn chỗ đó, chỉ có một bước mê và ngộ thôi. Nhưng trong cái ngộ, có người ngộ cạn, có người ngộ được sâu, hoặc người ngộ nhưng giữ không được và người ngộ mà giữ được, khác nhau như vậy. Ở đây không đặt thứ bậc thấp cao, chỉ thẳng cái tâm thể chân thật, chúng ta nhận được gọi là thấy đạo. Thấy đạo rồi cứ thế mà tu.

Lúc lặng lẽrõ ràng thường biết, tâm đó không có một chút tướng mạo, nên ví như hư không. Song hư không thì vô tri, còn tâm thể hằng tri, hằng giác, khác nhau chỗ đó. Vừa khởi tâm động niệm liền trái pháp thể. Vì khi dấy niệm, chúng ta chạy theo niệm nên ông chủ ẩn mất. Bởi vậy cả ngày nói tu mà tu với tướng bên ngoài. Nhớ chuyện này, nhớ chuyện kia, rồi phê phán người này hay người kia dở. Sự tu nằm trên tướng sanh diệt thì không đi tới chỗ chân thật. Nếu được điều gì chẳng qua do chấp tướng mà được. Nên ở đây nói “không có Phật chấp tướng”. Phật thật thì không chấp tướng, đã chấp tướng thì không phải Phật thật. Chúng ta tu khó vì lâu nay quen huân tập nhiều thứ, nên buông không được.

Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là Phật thứ lớp, nghĩa là từ Phật thập tín, Phật thập trụ, Phật thập hạnh cho tới Phật thập địa v.v… đó là Phật thứ lớp. Từ vô thủy tới nay Phật là Phật, chớ không có Phật thứ lớp.

CHÁNH VĂN:

Chỉ ngộ một tâm lại không có một chút pháp có thể được, đây tức là chân Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác.

GIẢNG:

Ngộ được tâm không dấy niệm đó thì không một chút pháp có thể được, vì tâm ấy không phải pháp gì hết. Đây tức là chân Phật, Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Phật đó với Phật của tất cả chúng sanh chỉ một Phật tâm, không có hai.

CHÁNH VĂN:

Ví như hư không, không xen lẫn, không hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ. Khi mặt trời lên ánh sáng chiếu khắp cả thiên hạ, hư không không từng sáng; khi mặt trời lặn, bóng tối che trùm thiên hạ, hư không không từng tối. Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi.

GIẢNG:

Thí dụ này xét kỹ thật hay. Ví như hư không, không có xen lẫn, không bị thứ gì làm hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ, lúc mặt trời lên nhìn trong hư không thấy sáng. Khi mặt trời lặn nhìn trong hư không thấy tối. Như vậy hư không có tối sáng không? Nếu nó sáng thì khi tối lẽ ra cái sáng hòa lẫn trong cái tối, nhưng thực tế không phải như vậy, nên biết hư không không tối, không sáng.

Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi. Tối đến thì sáng ẩn, tối ẩn thì sáng đến, hai thứ cứ đuổi cướp nhau, chớ hư không không đổi. Thực tế một chút, chúng ta thấy khi trong tâm mình nghĩ điều thiện thì cái thiện hiện ra, nghĩ điều ác thì cái ác hiện ra. Khi nghĩ thiện thì không có ác, khi nghĩ ác thì không có thiện. Tâm chân thật giống như hư không, thiện ác giống như tối sáng. Tối tới thì sáng ẩn, sáng đến thì tối ẩn, không cái nào dính với hư không hết. Tâm thể cũng vậy, không có thiện ác. Khi hai thứ thiện ác lặng thì tâm thể hiện tiền.

Bây giờ dù sáng dù tối cũng không liên hệ gì với hư không, nếu không sáng không tối thì cũng là hư không. Tâm nghĩ thiện, nghĩ ác là tâm sanh diệt, khi tâm sanh diệt ấy dừng lặng thì tâm thể nguyên vẹn hiện tiền, không tìm kiếm ở đâu. Cho nên gọi nó là “Bản lai diện mục”. Diện là mặt, mục là mắt, mặt mắt thật của chúng ta sẵn có từ thuở nào.

CHÁNH VĂN:

Phật và chúng sanh tâm cũng như thế. Nếu xem Phật thấy tướng giải thoát thanh tịnh, sáng suốt, xem chúng sanh thấy tướng nhơ bẩn tối tăm, người thấy biết như vậy trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, vì chấp tướng vậy.

GIẢNG:

Người thấy Phật là giải thoát thanh tịnh, còn chúng sanh nhơ bẩn tối tăm, như vậy tu trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, vì chấp tướng vậy. Nếu nghĩ nhớ thân Phật là thanh tịnh sáng suốt, thân chúng ta nhơ bẩn tối tăm thì được, chớ tâm Phật và tâm chúng ta, tâm thể đó không có bên sáng bên tối. Chỉ vì chúng ta quên, chạy theo vọng tưởng nên thấy có nhơ bẩn, tối tăm, chớ thể thanh tịnh của Phật và thể thanh tịnh của chúng sanh vốn không hai. Người nào thấy hai là chấp tướng.

CHÁNH VĂN:

Chỉ một tâm này, trọn không có pháp bằng hạt bụi nhỏ có thể được, tức tâm là Phật.

GIẢNG:

Chỉ một tâm này, tâm này là tâm nào? Tâm từ bi phải không? Tâm Bát-nhã phải không? Tất cả tâm có danh có tướng đều không phải. Chỉ là tâm thể thanh tịnh sẵn có của mình, không có pháp bằng hạt bụi có thể được. Tâm đó là tâm Phật.

CHÁNH VĂN:

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ-đề.

GIẢNG:

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, nghĩa là chúng ta không ngộ, không nhận được tâm chân thật, rồi sanh khởi tưởng Phật thế này, Phật thế nọ. Đó là ở trên tâm sanh tâm. Hướng ra bên ngoài cầu Phật, chạy nơi này nơi kia tìm Phật. Chấp tướng tu hành đều là pháp ác, tại sao? Vì pháp đó không phải là pháp chân thật, cho nên nói là ác. Chẳng phải đạo Bồ-đề vì đạo Bồ-đề là đạo giác ngộ. Giác ngộ cái gì? Giác ngộ tâm Phật của chính mình. Phật tử thường có những sai lầm như nghe ai có gì huyền bí, lạ lùng thì ngỡ người đó đã đạt đạo. Sự thật đạo là tâm chân thật sẵn có nơi mình. Nhận được tâm đó là ngộ đạo, không nhận được là mê.

CHÁNH VĂN:

Cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao? Vì người vô tâm là không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui.

GIẢNG:

Đây là dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Có người thắc mắc cúng dường chư Phật mười phương nhiều như vậy sao không bằng cúng dường đạo nhân vô tâm? Ở đây chỉ cho chúng ta thấy, người phát tâm cúng dường chư Phật mười phương là xoay ra ngoài tìm Phật cầu Phật, còn đạo nhân vô tâm là chính mình đi tới chỗ vô tâm, đó là chỗ cúng dường tuyệt đỉnh. Trở về để thấy ông Phật nơi mình còn hơn ra ngoài làm trăm ngàn Phật sự, gọi là cúng dường Phật không bằng trở về mình nhận chân được mình. Nhận chân được mình là vô tâm, vô tâm là đạo, đạo tức là Phật. Nên nhớ người học đạotrở về mình, chớ không phải chạy ra ngoài.

Vì người vô tâm là người không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui. Chỗ này nói chúng ta có hai cái khó. Thứ nhất là làm sao cho được không tâm, tức không tất cả tâm. Không tất cả tâm rồi lại bị cái khó thứ hai là sợ lạc vào không, đâm ra hoảng hốt. Đó là hai cái khó của người tu.

Khó thứ nhất chúng ta có thể qua được, vì tin lặng hết tất cả niệm sẽ giác. Khi hết tất cả niệm, sao không thấy gì hết, sợ rơi vào không, đâm ra hoang mang. Nhưng họ quên không có gì hết tức là không tất cả vọng niệm, không tất cả lăng xăng mà thường biết rõ ràng. Thường biết rõ ràng làm sao lạc về không được? Nếu không biết như cây như gỗ thì lạc về không là phải. Nhưng không tất cả niệm, còn vẫn thấy biết rõ ràng mà nói lạc về không thì vô lý. Nhiều người tu tới đây muốn thối lui, tưởng thấy hào quang mới thích thú, chớ không thấy gì hết thì tu làm chi. Hiểu như vậy thật là lầm to. Chỗ đó vô nhất vật, rỗng thênh, làm sao thấy cái gì? Khi tâm chúng ta trong sáng nên biết nó rỗng thênh. Tâm đang biết rỗng thênh làm sao nói không biết gì hết!

Chỗ này quí vị tu lâu phải chú ý, nếu không tới đây giật mình, sao lâu nay mình tu nhiều quá mà không còn gì hết, đâm ra hoang mang. Không còn tất cả niệm, tất cả dấy động, chớ tâm thênh thang vẫn còn. Song có nhiều người thích tới đó có hào quang hoặc thấy Phật sờ đầu mới vừa ý, không thấy Phật sờ đầu, không thấy hào quang, họ hoảng hốt sợ tu tới đây thành không ngơ. Như vậy để biết chúng ta tu tới đây không còn tất cả niệm sanh diệt, chỉ còn cái biết rỗng lặng, trùm khắp không nơi chốn. Cái biết rỗng lặng đó là tâm thể, là Phật thật của mình, chớ không phải gì lạ. Nhận được như thế rồi, tu thuần thục mới có diệu dụng vô cùng, cho nên nói chân khôngdiệu hữu. Đi tới đó Phật mới có tam minh, lục thông v.v… Còn chúng ta chưa tới đó mà đã hoảng muốn thối lui, làm sao được? Chỗ này hết sức quan trọng, người tu không biết rất dễ lầm lẫn.

CHÁNH VĂN:

So sánh để tìm thấy biết rộng. Thế nên người thấy biết như lông, người ngộ đạo như sừng.

GIẢNG:

Sở học nhiều, hiểu biết rộng ví như con nai, lông thì nhiều nhưng sừng chỉ có hai thôi. Ở thế gian học để trở thành một người khôn mất chừng bao nhiêu năm? Học suốt đời suốt kiếp, đủ trăm ngàn muôn thứ, biết được phần này thì không biết phần khác, cho nên học càng rộng thấy biết càng nhiều, nhưng chỉ là lông. Như lông con nai, chúng ta đếm hết không? Không, vì quá nhiều nhưng lại không có giá trị, còn sừng nhìn thấy hai cái thôi, đơn giản và rất có giá trị.

CHÁNH VĂN:

Văn-thù xứng lý, Phổ Hiền xứng hạnh. Lý là lý chân không vô ngại. Hạnh là hạnh lìa tướng không cùng.

GIẢNG:

Ngài Văn-thù xứng lý, lý tức là trí, trí hợp với lý. Phổ Hiền xứng hạnh, hạnh đi đôi với nguyện, nên thường nói hạnh nguyện. Người lý, người hạnh. Ở đây Ngài nói lý là lý gì? Là lý chân không vô ngại, vì trí tuệ chân thật đạt đượcchân không. Hạnh là hạnh gì? Là hạnh lìa tướng không cùng, tất cả tướng đều lìa, đó là hạnh. Chúng ta bây giờ nói trí, nói hạnh lại khác. Trí biết nhiều nhưng biết toàn những thứ giả danh giả tướng, hạnh là làm tất cả việc nhưng chỉ là những việc không thật. Ở đây Ngài trở về tâm, lý là chân không vô ngại, hạnh là lìa tướng không cùng.

CHÁNH VĂN:

Quan Âm xứng đại từ, Thế Chí xứng đại bi.

GIẢNG:

Bồ-tát Quán Thế Âm xứng với hạnh đại từ, Bồ-tát Đại Thế Chí xứng với hạnh đại bi.

CHÁNH VĂN:

Duy-ma là Tịnh Danh. Tịnh là tánh, danh là tướng. Tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

GIẢNG:

Ngài Duy-ma-cật dịch theo nghĩa chữ Hán là Tịnh Danh. Tịnh là tịnh cái tánh, còn Danh là tướng. Danh tướng đều thanh tịnh, tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

CHÁNH VĂN:

Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải.

GIẢNG:

Nói tới Bồ-tát Văn-thù là nói lý chân không vô ngại nơi tâm chúng ta. Nói Bồ-tát Phổ Hiền là nói hạnh lìa tất cả chấp tướng, chấp bóng dáng nơi nội tâm của mình. Nói Bồ-tát Quan Âm là nói tới lòng đại từ nơi mỗi chúng ta. Nói Bồ-tát Thế Chí là nói hạnh đại bi của mình. Nói tới ngài Duy-ma-cật là nói tới Tịnh Danh, tức tánh tướng đều thanh tịnh. Như vậy tất cả Bồ-tát đều biểu trưng sẵn có nơi mỗi chúng ta.

Chúng ta thường được học Bồ-tát Văn-thù là căn bản trí, Bồ-tát Phổ Hiềnsai biệt trí. Căn bản trí là trí thấu suốt lý chân không vô ngại, sai biệt trí là trí lìa tất cả tướng không cùng. Vì có trăm ngàn thứ tướng sai biệt nên dùng sai biệt trí để dẹp. Tại sao ở đây nhắc đến ngài Văn-thù, Phổ Hiền trước rồi mới tới Quan Âm, Thế Chí? Vì đạt đượcchân không vô ngại, lìa các tướng vô cùng, chừng đó mới phát đại bi tâm, đại từ tâm là Quan Âm, Thế Chí.

Tuy nhiên, nhận được lý chân không vô ngại, còn phải đợi ngài Phổ Hiền. Ngài Phổ Hiền gạt hết tất cả niệm sanh diệt rồi mới tới chỗ vô tâm. Vô tâm, có người nghe một lần liền được, có người phải nhiều năm, nhiều tháng, nhiều đời mới được. Chúng ta nhớ Lục tổ Huệ Năng khi ngộ rồi, từ đó về sau không cần ngồi thiền như mình nữa. Thấy chú nào ngồi thiền Ngài lại nắm lỗ tai thổi. Tại sao vậy? Vì Ngài đi đứng ngồi nằm đều vô tâm, ngồi chi cho thừa. Tổ Lâm Tế khi được vô tâm rồi, Ngài nói không cần dụng công mà cũng không có một niệm.

Chúng ta bây giờ chưa được chỗ cứu kính cho nên gỡ lần mấy chú vọng tưởng. Đầu tiên gỡ mấy chú xấu trước, lần lần mấy chú tốt cũng lùa đi luôn. Chừng nào lùa hết tốt xấu mới thảnh thơi, nhẹ nhàng. Đó là gốc của sự tu. Nếu không như vậy sự tu hành của chúng ta sẽ không đi tới đâu.

Hiện giờ chúng ta còn phàm phu, nếu giúp được ai thì dễ có bệnh gì? Giúp được người liền thấy mình có công ơn, nếu người không đề cao, không ca tụng, mình không vui. Được danh thì vui, không được danh thì buồn, vì chúng ta còn kẹt trên danh tướng. Người ngộ được lý chân không, thấu suốt tất cả pháp sanh diệt, bỏ hết thì tâm rỗng rang sáng suốt. Người ấy thấy chúng sanh mê muội kẹt trên hình tướng liền khởi tâm từ thương cứu giúp, thấy họ đi trong vòng danh lợi, tử sanh khởi tâm bi xót xa không nỡ bỏ, nên nguyện cứu vớt chúng sanh. Chúng ta bây giờ lo cứu những cái có hình có tướng, càng cứu lại càng sa lầy.

Làm việc thiện là tốt, nhưng làm trong danh trong tướng nên dễ mắc kẹt. Đã mắc kẹt thì nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy, chúng ta có tâm đại từ, tâm đại bi khi nào đạt đượcchân không vô ngại, khi nào hạnh lìa tướng không cùng, chừng đó mới là đại từ, đại bi chân thật. Vì vậy đức Quan Âm, Thế Chí được nhắc sau Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền. Bồ-tát Văn-thù đi đầu vì nhận được tâm chân thật, sau mới lìa hết vọng niệm, lìa hết các tướng. Nếu khôngtrí tuệ dẫn đầu làm sao chúng ta lìa các tướng? Không nghĩ cái này thì nghĩ cái kia. Bởi vậy tu thiền khó nhất là buông bỏ, niệm nào cũng bỏ. Nếu không nhận được mình có tâm thể chân thật, rỗng lặng thì không chắc gì mình bỏ trọn vẹn, lìa trọn vẹn được, cho nên nói đốn ngộ tiệm tu là thế. Đốn ngộ là nhận được tâm thể của mình, rồi sau mới lìa bỏ vọng niệm. Vì vậy Bồ-tát Văn-thù đi trước, Bồ-tát Phổ Hiền đi sau. Được Văn-thù, Phổ Hiền nhập tâm rồi, sau mới tới hạnh của Bồ-tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Bốn vị Bồ-tát này có sẵn nơi mình hết. Hiểu như vậy mới thấy giá trị tu, mỗi vị Bồ-tát là mỗi hạnh có sẵn nơi mình.

Ngài kết luận: Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải. Nhận ra được như thế tức là phải.

CHÁNH VĂN:

Nay người học đạo không hướng trong tâm mình mà ngộ, bèn ở ngoài tâm chấp tướng theo cảnh đều trái với đạo.

GIẢNG:

Ngài quở trách chúng ta học đạo mà không hướng vào trong tâm để ngộ, cứ chạy theo tướng bên ngoài. Đó là trái đạo.

CHÁNH VĂN:

Cát sông Hằng, Phật nói là cát. Chư Phật, Bồ-tát, Thích phạm, chư Thiên đạp giẫm đi qua, cát cũng chẳng mừng; trâu, dê, trùng, kiến giày xéo lên trên, cát cũng chẳng giận. Trân bảo thơm tho, cát cũng chẳng tham; phẩn uế hôi thối, cát cũng chẳng ghét. Tâm này tức tâmkhông tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính.

GIẢNG:

bài kinh đức Phật nói chúng ta tu hạnh nhẫn nhục cũng như cát vậy. Người giẫm đạp lên, trâu lừa ngựa đi qua, cát không la rầy. Giả sử có người đem trân bảo hay hoa thơm bỏ xuống, cát không mừng. Hoặc ai đó đem đồ hôi thối quăng trên mặt cát, cát cũng không buồn. Tâm thể giống như cát, bởi nó không niệm làm sao có mừng, có giận. Người sống được với tâm đó thì cả ngày không buồn, không giận, không thương, không ghét. Ai mắng cũng không giận, ai khen cũng không mừng thì có ngu không? Thế gian nói kẻ đó là kẻ ngu, nhưng với đạo đó là bậc Thánh. Vì không bị tâm sanh diệt lôi cuốn chạy theo thanh trần bên ngoài, nên thản nhiên tự tại. Tâm đó là tâm thể biết tất cả, mà không dấy niệm thương ghét giận hờn, nên đâu có vui buồn.

Tâm của chúng sanh luôn so sánh phân biệt, vừa có lời khen liền vui, có lời chê liền giận, được thì mừng, mất thì buồn v.v… cả ngày đổi thay vùn vụt, không dừng. Vui buồn thương ghét là nhân tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Nếu không vui buồn thương ghét là nhân gì? Nhân giải thoát sanh tử. Cái không đi trong luân hồi sanh tử không phải Phật là gì?

Tâm này tức tâmkhông tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính. Ở đây bảo vô tâmvô tâm nào? Vô tâmvô cái tâm sanh diệt, còn tâm bất sanh vẫn hiện tiền. Chỉ vô cái tâm sanh diệt, thì tâm chân thật hiển hiện.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo nếu không thể thẳng đó vô tâm thì nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo, bị công hạnh tam thừa ràng buộc, không thể được giải thoát.

GIẢNG:

Nếu người học đạo không thể thẳng đó vô tâm, dù nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo. Bởi vì vô tâm mới được chỗ chân thật. Chân thật là gì? Là chân không vô ngại, đó mới là gốc thành Phật. Nếu chúng ta còn có một hình, một tướng trạng nào đều là bị ràng buộc, không thể giải thoát.

Người tu trải qua nhiều bậc và người ngay một đời này nhận ra, chỗ vô tâm như nhau. Quí vị hay so sánh người ở chùa hai chục năm, với người mới vào đạo một năm, nếu cả hai đều được vô tâm thì cho là người hai chục năm cao hơn người một năm. Thật ra chỗ được đó không khác, trừ công tạo lập, gầy dựng, đạo đức mới khác. Nói như vậy để chúng ta biết rằng tới chỗ vô tâm, dù người tu nhiều năm hay người chỉ tu một thời gian ngắn mà đến được đó đều như nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9938)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9917)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20496)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10328)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9938)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10326)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9919)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34389)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9614)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8706)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9274)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11077)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8513)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9787)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9169)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20409)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19178)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8716)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8846)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12082)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9583)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22986)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8984)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9250)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9957)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9875)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10585)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10910)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12457)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9319)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9168)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9297)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10444)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16594)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9516)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10147)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8375)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8277)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9433)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8827)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8613)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12258)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9123)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9597)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8599)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9433)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8600)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8340)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8444)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10164)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23603)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9559)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9367)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8987)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8326)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8505)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7862)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7956)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8773)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8902)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10045)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8634)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8607)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30380)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30036)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24138)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9249)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9614)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9496)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9487)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7840)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9051)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28174)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23666)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8863)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14233)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14092)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9643)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9325)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9628)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30861)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27097)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32676)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33980)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27731)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10562)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58631)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10638)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9379)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9534)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13929)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14194)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10754)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28108)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23258)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant