Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 4

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8199)
Đoạn 4

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 4

CHÁNH VĂN:

Phàm nhân khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã, chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như thế liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc bèn là người xuất thế.

GIẢNG:

Người tu thiền khi sắp lâm chung phải làm sao? Ngài dạy chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã như trong kinh Bát-nhã.

Chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Nói rằng quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngã điều này nhiều người quán được. Nhưng tới chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến làm sao biết? Đã không biết vì sao nói chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi? Không biết mìnhchân tâmbảo quán chân tâm làm sao quán? Đó là một vấn đề.

Ai cũng nói có chân tâm, mà nó hiện lúc nào ra sao lại không biết. Khi đọc kinh sách tưởng như mình hiểu, thật ra chỉ hiểu trên danh từ thôi, chớ thực chất chưa nắm được. Quí vị muốn thấy chân tâm thì phải dùng trí tuệ sẵn có muôn đời của mình mà nhận. Thường mọi người luôn lấy ý thức sanh diệt làm tâm mình. Như vậy tất cả nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ tốt nghĩ xấu v.v… đều cho là tâm mình. Người nào nghĩ khéo, nghĩ trúng thì khen tâm họ sáng, ai nghĩ trật nghĩ sai thì nói tâm họ mù mịt, đần độn quá.

Trăm người như một đều nhận suy nghĩ phân biệt đối đãi làm tâm mình, không biết đó là tâm động, tâm sanh diệt. Nó đâu có nghĩ hoài một việc mà thay đổi luôn luôn. Nó là động, là sanh diệtchúng ta nhận là tâm mình, nhận thân tứ đại sanh diệt làm thân mình thì đang sống với cái gì? Sống với cái tạm bợ, hư dối sanh diệt. Đã lấy tạm bợ hư dối sanh diệt là mình, thì cái này hoại bám cái khác, cái khác hoại bám cái khác nữa, liên tục cho nên tiếp tục trong vòng sanh tử không cùng tận. Đó là nỗi khổ của chúng sanh, cứ như vậy triền miên sanh tử kiếp kiếp đời đời, không dừng được. Cho nên đức Phật hết sức thương xót.

Ngày nay chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử, mà cứ bám vào thân tâm sanh diệt ấy, làm sao thoát ly được. Như người muốn qua sông lớn mà nương chiếc xuồng lủng, chiếc ghe bể thì sao? Thì chết chìm. Muốn qua sông lớn ít ra cũng có thuyền chắc hay tàu lớn, cái không bền chắc mà dùng vượt sông biển thì không thế nào được. Tu hành cũng vậy, chúng ta phải biết cái gì là chân tâm, cái gì là vọng tâm hư dối. Nắm vững để chúng ta không bị kẹt trong tướng sanh diệt, mà nhận lấy cái bất sanh bất diệt, nhà Phật gọi là Niết-bàn. Chân tâm là nhân của Niết-bàn sẵn có nơi mỗi người, mà không ai chịu nhận. Thật đáng tiếc.

Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Đó là Ngài đã chỉ chân tâm cho Thượng tọa Minh rồi. Chúng ta cứ nói tâm chân, tâm vọng mà hỏi tâm là gì cũng không biết, cứ cho suy nghĩ hai bên là tâm. Sự thật ngài Khuê Phong định nghĩa rõ ràng “Tâm là cái biết”. Cái biết nào thuộc về hư dối sanh diệt gọi là biết vọng. Cái biết không sanh không diệt là biết chân. Cái biết nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua là cái biết sanh diệt. Không dùng cái biết sanh diệt, mình vẫn biết đó là chân.

chúng ta không gan dạ, không dám nhìn thẳng để nhận ra cái thật, cứ chạy theo những dấy nghĩ cho là tâm mình nên quên mất cái thường biết lặng lẽ. Như vậy có tủi không? Chúng ta quả tang là chàng bất hiếu cùng tử, ông cha sung sướng giàu có mà bỏ chạy tha hương, tới chừng thức tỉnh mới tìm trở về. Đâu phải cha đuổi mà chính mình bỏ nhà đi hoang. Cũng thế, chân tâm hiện giờ ai cũng có, mà không chịu nhận. Vì vậy chúng ta ngồi thiền để dừng nghĩ phải, nghĩ quấy, dừng vọng tâm. Vọng tâm dừng lúc đó chân tâm hiện ra. Biết tất cả đó là tâm, mà không động.

Các vị Tổ hồi xưa nói “đêm đêm ôm Phật ngủ”, ôm ông Phật ngủ mà không nhớ Phật, lại gác tay gác chân đè Phật, “ngày ngày cùng Phật đi”, mà không thèm ngó ngàng tới Phật, toàn là ngó theo chúng sanh. Thấy cây dù xanh lo nhìn cây dù xanh, thấy chậu hoa đỏ lo nhìn chậu hoa đỏ, cứ phân biệt theo cảnh bên ngoài, không nhớ mình có ông Phật đang đi theo đây. Bởi vậy đi đứng nằm ngồi không rời chân tâm, mà chúng ta lại không bao giờ nhận nó, cứ nhận cảnh vật bên ngoài, trách gì không luân hồi muôn kiếp. Bây giờ muốn dừng luân hồi phải nhớ mình có tâm chân thật. Đó là cái không nghĩ suy tính toán, lặng lẽ thường biết hiện tiền. Diễn tả nó làm sao? Nó không là gì hết, vì không có hình dáng. Có hình dáng là tướng vô thường sanh diệt. Nó không phải vô thường sanh diệt nên không hình dáng mà hằng tri hằng giác.

Mỗi ngày chúng ta ngồi thiền là để sống lại với tâm thật của mình, không tìm cầu bên ngoài. Nhưng khổ nỗi nhiều người ngồi thiền mong thấy hào quang, mà không biết chính tâm lăng xăng loạn tưởng dừng, luôn luôn tỉnh sáng, đó là tâm chân thật hiện tiền. Cho nên nói ôm tâm chờ ngộ là sai. Có gì đâu phải chờ, chỉ cho bọn giặc lặng xuống, đừng rối loạn lăng xăng nữa thì cái thật hiện ra. Thiền sư lúc sống với đạo thường như ngu như ngây, khờ khạo. Khờ khạo với lanh lợi phân biệt, nhưng biết thấu tột cả vũ trụ nhân sinh, thấy tường tận cội gốc của nó. Còn chúng ta ngày nay lanh lợi quá, chỉ biết chuyện hơn thua phải quấy thôi, nên tu hoài vẫn không hết vô minh phiền não.

Chúng sanh quá khờ dại, những chuyện không có quyền can thiệp, không có quyền xử sự mà cứ muốn biết, còn cái thật đang sống với mình lại bỏ qua, đáng thương không? Vì vậy chư Phật Bồ-tát thị hiện ra đời là vì chúng sanh, muốn độ chúng thoát ly sanh tử. Thoát ly sanh tử không phải thân này, không phải tâm hơn thua phải quấy. Thoát ly sanh tửnhận ra cái chân thật mà mình bỏ quên nên cứ trầm luân mãi. Phật thương nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu kinh điển, mà nào có mấy người hưởng ứng? Như tôi nói pháp mười năm nữa cũng vậy thôi. Nói qua rồi quí vị quên, chỉ nhớ chuyện bên Tây bên Tàu, chớ không nhớ mình có ông Phật chân thật ngay đây. Tu như vậy tới gần chết quýnh lên không biết mình ra sao? Tại vì cứ bám vào thân sanh diệt, tâm sanh diệt cho là mình, tới khi nó sắp hoại mất thì sợ sệt hoảng hốt. Còn biết mình sẵn tâm chân thật rồi thì thân tạm bợ này hoại diệt có sao đâu, việc gì phải khổ.

Cho nên các Thiền sư cười trước khi chết, vì thấy thân là đồ bỏ không đáng giá chi, tạm mượn nó sống tu. Bây giờ hết duyên thì đi, các ngài xem nhẹ sự sống chết như thế. Chúng sanh ngược lại, cho thân là thật nên một lần mất nó là một lần đau khổ vô cùng. Chẳng những đau khổ vì mất nó, mà đau khổ không biết sẽ đi đâu. Tổ Qui Sơn nói: “Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu?” Vì vậy chúng ta học đạo cốt để tu, đừng phụ bạc ông chủ mình nữa. Người nào đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi, dừng nghỉ hết lăng xăng, tỉnh táo vui vẻ đó là người sống với chân tâm. Được như vậy người đó khi nhắm mắt đi với cái không sanh diệt tức là nhập Niết-bàn. Ngược lại cứ sống với phải quấy hơn thua thương ghét, thì đi với tâm sanh diệt tạo nghiệp, dẫn trong sáu nẻo luân hồi.

Bây giờ quí vị biết quán chân tâm là sao chưa? Quán chân tâm là biết rõ tất cả niệm khởi thuộc tướng sanh diệt, cái hằng giác hằng tri không dấy động là mình. Cứ nhớ bao nhiêu đó thì sống với ông chủ, ra đi tự tại, thảnh thơi biết mấy. Tổ bảo khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn không thật, bốn đại vô ngã. Cái hằng tri giác không sanh không diệt nên khi sanh tánh nó không đến, khi tử tánh nó không đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như.

Người nào quán được như vậy thì liền chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Bao nhiêu kinh điển đều chỉ một đoạn này, người thấy được đường tu thì rất gần. Nếu người còn đa mang tâm sanh diệt, luyến tiếc tướng tứ đại thì đi theo chiều sanh diệt. Còn người biết những thứ đó hư giả, chỉ nhớ tâm hiện tiền hằng tri giác bất sanh bất diệt của mình, đó là người xuất thế tức giải thoát vậy.

CHÁNH VĂN:

Dù người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ; chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là điều thiết yếu vậy.

GIẢNG:

Chỗ này rất khó. Ai nhắm mắt gần chết, thấy Phật đến đón mà không mừng. Hầu như người tu nào cũng mơ ước được Phật đón. Nhưng ở đây dạy nếu thấy tướng lành chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo. Phật rước cũng không đi. Tại sao vậy? Vì muốn ra khỏi sanh tử nên không đi theo các tướng trạng bên ngoài, dù đó là tướng Phật. Nếu theo Phật cũng còn sanh trong hoa sen. Muốn đi thẳng tới chỗ vô sanh, thì không theo ai kể cả Phật, huống nữa là Thánh Thần hay những người thân yêu.

Các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo, các thứ hiện trước là thân tộc bà con, anh em cha mẹ đón cũng không đi. Điều này khó số một. Đa số quí vị thấy bà con thân tộc là mừng rỡ, nói gì đến đón mình. Cho nên nếu không khéo tu, lúc sắp mất đi theo những hình ảnh này là tiếp tục thọ thân sau, có khi ma quỉ giả hình, dẫn người chết đi vào cảnh giới của chúng, chịu khổ không thể lường.

Đến khó số hai. Nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ. Thấy những tướng dữ tức như thấy cọp rượt, cá sấu đuổi v.v… cũng không sợ. Tóm lại thấy tướng lành không theo, thấy tướng dữ không sợ.

Chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là thiết yếu vậy. Quên tâm là quên tâm sanh diệt, tâm thương, tâm ghét. Nếu còn tâm ấy thì thấy thân nhân tới đón mừng nên đi theo, tâm sợ thì thấy quỉ sứ dọa nạt, chúng chỉ đâu liền hoảng sợ chạy theo đường đó. Thấy đồng pháp giới tức trùm khắp, bất sanh bất diệt liền được tự tại. Đây là thiết yếu, tức điểm then chốt của sự tu hành. Đó là những điều người tu phải biết, mới không sợ khi nhắm mắt bị rơi vào đường tà. Như vậy cả hai thứ, vui theo tướng lành thì sanh cõi lành, sợ tướng dữ chạy trốn thì bị sanh chỗ dữ, đều đi trong con đường sanh tử. Chỉ nhớ tâm thênh thang không hình không tướng, không sanh không diệt, không sợ hãi, luôn tỉnh táo sáng suốt thì giải thoát an vui.

CHÁNH VĂN:

Nói Hoá thành đó, Nhị thừaThập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hoá thành.

GIẢNG:

Đây dẫn kinh Pháp Hoa, nói Hoá thành là chỉ cho Nhị thừa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đi từng bậc từng bậc đều là giáo quyền lập. Giáo quyền lập là giáo lý tạm lập để tiếp dẫn người, có thứ bậc cho dễ đi, dễ tiến vậy thôi. Như Bộ Giáo Dục muốn thúc đẩy học sinh học cho giỏi nên mỗi năm tổ chức thi lên cấp. Từ cấp Tiểu học lên Trung học, Đại học rồi Tiến sĩ gì gì đó, ấy là thật lập hay quyền lập? Quyền lập như thế để đo sự hiểu biết của chúng ta qua những năm học, lập ra thứ bậc để thúc đẩy nhắc nhở sự tiến bộ trong học vấn, mục đích vì muốn chúng ta biết sâu hiểu rộng, làm lợi ích cho mọi người. Đó là mục đích phương tiện lập có thứ bậc.

Cũng vậy đạo Phật muốn dạy chúng sanh tu hành để được giác ngộ thành Phật. Giác ngộ thành Phật là thế nào? Là trở lại sống thật với tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác của mình, gọi là chân tâm hay Phật tánh. Sống được với chân tâm là bước vào cảnh giới chư Phật. Nhưng nói sống với chân tâm Phật tánh, người ta nghe cao xa quá, nên Phật dạy tu hạnh này được quả bậc Thanh văn, tu hạnh này được quả bậc Duyên giác, rồi giác được phần nào là Bồ-tát Sơ địa, Bồ-tát Nhị địa v.v… tới cuối cùng cũng trở lại chân tâm Phật tánh. Như vậy giáo lý đó là phương tiện quyền lập, còn chỗ chân thật không hai. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy trong kinh Pháp Hoa nói Hoá thành là phương tiện quyền lập, nói Bảo sở là chỉ chân tâm Phật tánh. Chỗ đó không đối đãi nên nói không Phật, không chúng sanh, không còn tình lượng, không còn kiến lập. Nói Bảo sở là chỗ quí báu, tức chỉ thẳng chân tâm Phật tánh.

CHÁNH VĂN:

Nói Bảo sở đó là bảo chân tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo này không thuộc về tình lượng, không thể kiến lập, không Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành? Nếu hỏi: đây đã là Hoá thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là chân Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải.

GIẢNG:

Hỏi Bảo sở chỗ nào Phật nói “ở gần”, các Thiền sư nói ở dưới gót chân ông. Chữ Hoá thành trong kinh Pháp Hoa là chỉ cho tu hành có thứ bậc từ thấp lên cao, còn Bảo sởchỉ thẳng cho chúng ta biết cái thật nằm ngay nơi mỗi người, không ở đâu xa. Chúng ta tu là để trở về cái thật của mình, đây là con đường gần nhất. Nếu đi thứ bậc thì hơi xa, hơi quanh co. Bởi vậy chỗ thật này chỉ khéo khế hội là được.

CHÁNH VĂN:

Nói xiển đề đó, lòng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả, đều gọi là đoạn thiện căn xiển-đề. Bồ-tát đó, tin sâu có Phật pháp không thấy có đại thừa, tiểu thừa. Phật cùng chúng sanh đồng một pháp tánh gọi là thiện căn xiển-đề.

GIẢNG:

Chữ “xiển-đề” là tiếng Phạn, nghĩa là người không đủ lòng tin. Không đủ lòng tin thế nào? Như những chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi không đủ lòng tin mình có tánh Phật, cho tới hàng Nhị thừa không tin có Phật quả. Các ngài tu chứng Diệt tận định là nhập Niết-bàn, không nói lên Phật quả, cho nên những hạng này gọi là đoạn thiện căn xiển-đề, tức do không tin làm mất căn lành. Còn Bồ-tát tin sâu Phật pháp, không thấy có Tiểu thừa, Đại thừa riêng, thấy tất cả chúng sanh đồng có tánh Phật, đồng một pháp tánh gọi đó là thiện căn xiển-đề, nghĩa là không tin mà không tin do có căn lành.

CHÁNH VĂN:

Đại để, nhân nghe giáo mà ngộ gọi là Thanh văn, quán nhân duyên mà ngộ gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm mình mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn. Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trải nhiều kiếp tu hành trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ, chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo, bèn thành theo khối (theo hình tướng) mà quên bản tâm. Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy.

GIẢNG:

Chúng ta tu có hai cách. Một là y nơi pháp của Phật dạy, nghe quán chiếu rồi tu, gọi đó là Thanh văn. Thấy các pháp duyên sanh quán chiếu mà tu, gọi đó là Duyên giác. Nhưng nếu chỉ nương theo pháp của Phật dạy tu mà không nhận ra tâm mình, gọi đó là quên tâm cầu Phật, hay quên tâm phápchạy theo giáo pháp. Tu như vậy không thấy được ông Phật gốc của mình. Nếu không nơi tâm ngộ, chỉ đối trên giáo pháp ngộ tức là “khinh tâm trọng giáo”. Người khinh tâm trọng giáo là chạy theo hình tướng, quên mất bản tâm.

Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy. Ai nhận được bản tâm, người đó trở lại gốc ngay nơi mình, không chạy ra ngoài. Đa số chúng ta ngày nay tu theo pháp, ít nhận tâm, vì vậy có lỗi khinh tâm trọng pháp. Mà pháp của Phật nói cốt chỉ cái gì? Chỉ tâm. Bây giờ mình trọng pháp quên tâm tức là chạy theo ngọn mà quên gốc.

Bao nhiêu kinh điển đức Phật dạy đều chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm là tánh giác hằng hữu của mình, từ đó tu mới thành Phật. Chúng ta không chịu nhận, chỉ chạy theo kinh điển học hết bộ này tới bộ nọ, khen bộ này hay bộ kia đặc biệt v.v… mà không biết tất cả bộ đều chỉ tâm của mình. Không nhận tâm lại đi nhận pháp, như vậy là khinh tâm trọng pháp. Trong kinh Phật dụ pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng là gì? Là chân tâm. Vì muốn chúng sanh nhận ra chân tâm nên Phật dạy giáo pháp, chúng sanh nương pháp để nhận. Bây giờ mình lại kẹt pháp không nhận ra tâm giống như người chỉ mặt trăng hướng tây, chúng ta không chịu ngó hướng tây để thấy mặt trăng, lại nhận đầu ngón tay, hài lòng với đầu ngón tay, cho đó là mặt trăng.

Người tu ngày nay giống hệt như vậy, thích tụng kinh, tụng bộ này qua bộ kia, như vậy là tu rồi đó. Phật dạy chúng ta tu để trở về tâm, không chịu trở về tâm cứ lấy kinh đọc hoài, không khác người muốn thấy mặt trăng mà chỉ quí ngón tay, không nhìn đúng mặt trăng. Tu như vậy chừng nào thành Phật? Nói thẳng mếch lòng, mà không nói thì tội nghiệp. Gốc ở chỗ đó mà không chịu nhìn, chỉ bám ngọn ngành, phương tiện làm sao tu hành đến nơi đến chốn được.

Phật dạy cho mình nhận ra bản tâm để không còn chấp thân này là thật ngã, tâm chạy theo bóng dáng sáu trần là thật tâm. Nhờ không chấp thân, chấp tâm mới trở về với thể thật sẵn có. Bây giờ cứ đọc hoài, nhưng hỏi kinh dạy gì thì không biết. Chỉ biết tụng kinh có phước vậy thôi, chớ không biết mìnhcùng tử đã bỏ cha đi, bây giờ còn lang thang chưa nhận được cha già. Ông cha là chỉ tánh giác hằng hữu của mình. Quên tánh giác chạy theo sáu trầncùng tử nên khổ sở nghèo nàn. Khi hối hận trở về tìm cha, về tới nhà rồi cũng không dám nhận cha nữa. Cũng thế, chúng ta tu pháp gì nhỏ nhỏ lần lên, chớ không dám đi thẳng. Đó là diễn đạt người mê quên mình theo cảnh vật. Nếu trở về thì chính cha đang sẵn chờ, nhưng gã cùng tử lại không dám nhận. Như chúng taPhật tánh sẵn mà lại than mất Phật. Có cái chân thật không chịu nhớ, rồi than sao sống khổ quá, chịu không nổi. Nhiều khi tâm suy nghĩ lanh lợi quá, hết nghĩ cái này tới nghĩ cái kia, tới giờ ngủ cũng cứ nghĩ hoài, ngủ không được than khổ quá. Tại sao khổ như vậy? Tại vì chạy theo nó quen rồi, bây giờ muốn dừng nghĩ không được, ngồi thiền bữa nào cũng nghĩ bậy nghĩ bạ. Tại sao nghĩ? Vì chứa chấp, nếu buông hết thì ngồi lại chỉ còn một tâm thanh tịnh sáng suốt, khoẻ biết chừng nào. Sửa soạn ngủ thì buông hết mọi việc, ngủ cho an ổn. Tất cả nỗi khổ là vì chúng ta đuổi theo vọng tưởng sanh diệt, bám vào bóng dáng sáu trần. Bây giờ buông hết trở về bản tâm tức là Niết-bàn bất sanh bất diệt, không tìm chỗ nào hết.

CHÁNH VĂN:

Phàm nhân phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường muốn trốn cảnh để an tâm , đuổi sự để còn lý, không biết chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm mình vốn không.

GIẢNG:

Chỗ này có một số người đang mắc kẹt, cứ cho rằng cảnh ngại tâm. Ở chùa đông người, kẻ hơn người thua kẻ phải người quấy, phiền nhiễu quá nên kiếm hang hốc chui vô tu một mình cho yên. Vì quí vị ấy nghĩ cảnh ngại tâm, nên tìm chỗ không có cảnh, tu sẽ hết ngại. Nào ngờ vô trong hang hốc lại có chướng ngại của hang hốc. Bây giờ hết gạo làm sao đây? Xách dù xuống núi, xin một ít gạo về, xin một lần đủ chưa? Chưa, lại xin nữa. Có gạo thì phải có nồi, có củi… đủ thứ hết. Chừng đó gặp cảnh không? Trên núi thiếu nước, không lẽ mình xách từ hũ từ hũ uống, thôi mua cái lu lớn chứa khá một chút. Lu lớn thì nhiều người khiêng, rủ bà con phụ đưa lên, từ đó lần lần họ tới thăm nom. Nhờ Phật tử tới có tiền mua gạo, thôi cũng tiếp. Bỏ cảnh chùa nhiều người, lên núi ở một mình, té ra càng nhiều hơn. Ở chùa chia ra mười người, mình mất thì giờ chỉ một. Còn vô núi mình lãnh trọn cả mười, chừng đó phiền hơn nữa. Từ chấp cảnh tịnh biến thành trở ngại, ban đầu thấy dường như hay sau thành quá dở. Đó là chỗ lầm lẫn lớn.

Đến phần sự và lý. Nhiều người tu sợ sự ngại lý nên đuổi sự giữ lý. Vậy lý là gì, sự là gì? Thế gian thường thường ai nói chuyện nhiều, mình bảo người đó lý sự quá. Ví dụ tôi nói đồng hồ này đẹp xấu, vuông tròn… đó là nói về sự, về hình tướng. Còn lý của đồng hồ là gì? Có hai trường hợp, lý thường và lý đạo. Lý thường là đồng hồ không quí ở hình vuông hay tròn, mà quí ở chỗ nó chạy đúng giờ, nhờ đồng hồ chúng ta biết giờ. Lý đạo là đồng hồ giả tướng, do nhân duyên hợp tạm có, lý thật của nó là không. Cho nên Không chính là lý đạo.

Muốn tìm lý không, từ đâu mà tìm? Ngay nơi tướng đồng hồ thấy được lý không của nó, như vậy tướng đồng hồ có ngại gì lý đồng hồ? Tướng cái nhà có ngại gì lý cái nhà, tướng người ngại gì lý người. Ngay nơi sự mình thấu lý thì ở đâu cũng không ngại. Còn bỏ sự để tìm lý làm sao tìm được, như lý nhân duyên mà bỏ sự tướng làm sao biết nhân duyên. Phải ngay nơi sự nhận ra lý, đó là người khéo tu, còn sợ chạy trốn là không khéo. Người tu thường có hai bệnh, thứ nhất là sợ cảnh làm nhiễu loạn tâm, thứ hai sợ sự làm chướng ngại lý, nên bỏ sự tìm lý. Như vậy đều không thực tế, đều lầm cả.

Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Chỉ cần tâm không chạy theo cảnh thì ở đâu cũng là cảnh tốt, không có gì chướng ngại, chớ chẳng phải trốn vô hang sâu mới tốt. Thời này người thích làm Phật sự thì ở thành thị, người muốn tu rục ưa chui vô hang ở một mình. Cả hai đều là bệnh. Chúng ta biết tu là tạo duyên cho mình nghiền ngẫm, thấu triệt lý đạo, thấu triệt lẽ chân thật của Phật dạy, đó là gốc. Tâm không dính với cảnh thì cảnh làm gì ngại tâm. Nếu tâm như như thì lý sự đâu chướng ngại nhau. Người bỏ cái này cầu cái kia là dụng tâm lộn ngược.

Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không chẳng biết tâm mình vốn không. Đây là bệnh của người tu. Nhiều người ngồi thiền tới lúc tâm bặt hết lăng xăng, đâm hoảng không biết tâm mình đâu mất rồi. Tâm chân thật vốn không có lăng xăng, khi lăng xăng lặng thì tâm thật hiện tiền. Chúng ta thấy lăng xăng lặng, sao lại nói không tâm? Ngồi yên thấy rõ tâm lăng xăng đang bặt, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, tại sao nói không tâm? Người hoảng lên nói mất tâm rồi, là vì không biết được lẽ thật. Cho nên nói chẳng biết tâm mình vốn không.

CHÁNH VĂN:

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự.

GIẢNG:

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự. Nhiều người nói nghe thấy thương, như bảo tôi tu rồi không đồng hồ, không cần giường tốt, không cần đồ mới, thành ra ai cho đồ mới thì bỏ không mặc. Đó là chấp hình tướng, là trừ sự không trừ tâm. Đây thuộc người ngu không phải người trí. Người trí trừ tâm không trừ sự. Đừng để tâm mình nhiễm tốt xấu, không mong mỏi quí tiện, cái gì cũng được hết. Ai cho thì nhận, cần xài cứ xài, không nói quí tiện, đó là trừ tâm không trừ sự. Đây mới gọi là người trí.

Người biết tu rồi thì tùy duyên, cái gì đến thì nhận, tâm không mong cầu, không sợ không chê. Ai cho cái xấu không chê, cho cái tốt cũng không sợ, tâm an nhiên bình thường, như vậy mới đúng. Còn sợ cái này cầu cái kia là mắc kẹt, vì vậy Tổ quở người ngu trừ sự không trừ tâm. Người trí mặc áo tốt tâm không hãnh diện, không khoe với thiên hạ, nên không có lỗi. Nếu mặc áo rách để người ta thấy mình tu khổ hạnh, tu giỏi, đó là lỗi.

đời người ta thường nhìn tướng mà không hiểu tâm. Người tu phải hiểu tâm mình, sự tướng bên ngoài không quan trọng. Đừng để tâm đòi hỏi cái tốt, cũng không có tâm sợ sệt cái tốt. Đừng để tâm khoe cái xấu, cũng đừng có tâm sợ cái xấu. Được lành mặc lành, được rách mặc rách, không để ý gì hết. Vô tâm như vậy sống thế nào cũng không tội. Nếu hữu tâm dụng ý thì có tội.

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát tâm như hư không, tất cả đều xả, làm việc phước đức đều không tham trước.

GIẢNG:

Tâm Bồ-tát như hư không rỗng rang vì tất cả đều xả, hơn thua phải quấy khen chê… xả hết. Làm việc phước đức đều không khoe, không chấp, đó là không tham trước.

CHÁNH VĂN:

Nhưng xả có ba bậc: trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại xả.

GIẢNG:

Xả có ba bậc: đại xả, trung xả và tiểu xả. Người làm tất cả việc tốt mà tâm như hư không, không chấp trước, năng sở đều quên đó là đại xả. Trong kinh thường gọi bố thí tam luân không tịch, người thí, vật thí, kẻ thọ thí đều không chấp, được vậy gọi là đại xả.

CHÁNH VĂN:

Nếu một bên hành đạo bủa đức, một bên lại xả không có tâm mong cầu, ấy là trung xả.

GIẢNG:

Trường hợp này là một bên hành đạo bủa đức, tức làm lợi ích cho mọi người, một bên xả hết, không có tâm mong cầu. Đó là trung xả.

CHÁNH VĂN:

Nếu rộng tu các việc thiện có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không, nên mới không trước, ấy là tiểu xả.

GIẢNG:

Người rộng tu các việc thiện, mong được phước đời sau, đó là mong cầu. Nhưng nghe pháp biết không nên như thế, mới không tham trước. Nghe pháp biết tất cả pháp tánh là không, không chấp trước. Nghĩa là ban đầu có mong cầu, sau tỉnh mới bỏ, đó là tiểu xả.

Đối với chúng ta, trong ba thứ tiểu xả còn khó huống là đại xả. Nên người học đạo tu hành phải biết thật kỹ, trên đường tu chúng ta đến đâu, làm gì cho hợp đạo lý. Đừng để tu mà đi trên đường không đúng chánh pháp.

CHÁNH VĂN:

Đại xả như cây đuốc sáng để ở trước, lại không có mê ngộ. Trung xả như cây đuốc sáng để một bên, hoặc sáng hoặc tối. Tiểu xả như cây đuốc sáng để phía sau, không thấy hầm hố. Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”.

GIẢNG:

Cây đuốc sáng để ở trước nên không có phía nào tối, đó là Đại xả. Cây đuốc để một bên thì sáng được bên này, bên kia tối, đó là Trung xả. Cây đuốc để đàng sau, mình đi tới không thấy đường có thể trật chân. Vì còn đắm trước danh văn lợi dưỡng, tuy sau thức tỉnh, nhưng cũng muộn. Nên nói cây đuốc đốt để phía sau, có thể sụp hầm hố, đó là Tiểu xả.

Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”. Quá khứ, hiện tại, vị lai tâm không thể được thì còn chấp gì nữa, rỗng rang sáng suốt nên “ba thời đều xả”. Được vậy là đại xả.

CHÁNH VĂN:

 Từ đức Như Lai trao pháp cho Tổ Ca-diếp đến nay, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn (con dấu) in trong hư không thì in không thành dấu. Ấn in nơi vật tức ấn không thành pháp. Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Song, tâm tức vô tâm, được tức không được.

GIẢNG:

Chỗ này nói thẳng về các Tổ Thiền tông. Từ đức Phật trao pháp cho Tổ Ca-diếp là lấy tâm ấn tâm. Ấn như con dấu, nếu con dấu ấn trong hư không thì không thành dấu. Ấn tâm là sao? Tâm của người đệ tử thế nào, vị thầy thấy đúng như thế, đó là thừa nhận, là ấn tâm. Như vậy cái ấn ấy không phải in vào cây cối, mà in hẳn trong tâm. Ví dụ trong sinh hoạt, chúng ta hay nói “tôi đang suy tính việc này mà chưa ra, giờ muốn bàn với huynh đệ giúp đỡ”. Khi đó có người đưa ra cách giải quyết đúng ý mình, chúng ta vui vẻ nói “đúng ý tôi rồi”, đó cũng là ấn tâm, nhưng ấn tâm sanh diệt, không phải ấn tâm chân thật.

Tổ Huệ Khả sau khi được Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy biết lối vào, Ngài tự tu cho tới một hôm trình với Tổ Đạt-ma: “Bạch Hòa thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma sợ Ngài lầm chỗ không tâm nên nói “coi chừng rơi vào không”. Ngài liền nói “rõ ràng thường biết làm sao không được”. Tổ bảo “chỗ đó chư Phật như thế, ta như thế, ông cũng như thế”, đó là ấn tâm. Ấn chứng như vậy là dùng tâm ấn tâm, ấn mà không có năng ấn, sở ấn. Ngài nói: Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Tâm thầy và tâm trò không khác nhau.

Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Vì năng ấn và sở ấn cũng không có, không thể được, chỉ hai bên in hệt nhau vậy thôi. Không phải thầy là năng ấn trò là sở ấn, vì nếu có năng cũng như có dấu ấn, có sở như có tờ giấy trắng để in xuống, chỗ này không năng sở gì hết. Đệ tử trình bày đúng như cái thấy của thầy. Thừa nhận như vậy là truyền tâm pháp ấn.

CHÁNH VĂN:

Phật có ba thân: pháp thân nói pháp tự tánh rỗng suốt, báo thân nói pháp tất cả thanh tịnh, hóa thân nói pháp lục độ vạn hạnh. Pháp thân nói pháp không thể dùng ngôn ngữ âm thanh hình tướng văn tự mà cầu, không có nói, không có chứng, tự tánh rỗng suốt mà thôi. Cho nên nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”.

GIẢNG:

Kinh Kim Cang nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp” là chỉ cho pháp thân.

CHÁNH VĂN:

Báo thân, hóa thân đều tùy cơ cảm mà hiện, có nói pháp cũng tùy sự hợp cơ để vì nhiếp hóa đều không phải là chân pháp.

GIẢNG:

Báo thân, hóa thânphương tiện tùy cơ, không phải là chân pháp.

CHÁNH VĂN:

Cho nên nói: “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.”

GIẢNG:

Như vậy báo thân, hóa thân nói pháp không phải là chân Phật, vì không thể nói thẳng được pháp thân.

CHÁNH VĂN:

Nói “đồng là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp”. Một tinh minh là một tâm. Sáu hòa hợp là sáu căn. Sáu căn này mỗi cái cùng trần hợp. Mắt cùng sắc hợp, tai cùng tiếng hợp, mũi cùng mùi hợp, lưỡi cùng vị hợp, thân cùng xúc hợp, ý cùng pháp hợp. Khoảng giữa sanh sáu thức là mười tám giới. Nếu rõ mười tám giới không thật có, trói sáu hòa hợp làm một tinh minh. Một tinh minh là tâm vậy. Người học đạo đều biết cái này. Chỉ không thể khỏi cái hiểu “một tinh minh và sáu hòa hợp”, bèn bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Như Lai ra đời muốn nói nhất thừa chân pháp, ắt chúng sanh không tin sanh ra hủy báng chìm trong biển khổ, nếu hoàn toàn không nói thì mắc lỗi san tham, chẳng vì chúng sanh chỉ dạy diệu đạo. Ngài bèn lập phương tiện nói có ba thừa, thừa có đại tiểu, được có cạn sâu đều không phải là bản pháp. Cho nên nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Nhưng, vẫn chưa có thể hiển bày một tâm pháp, cho nên triệu Ca-diếp đồng trong pháp tòa riêng trao một tâm pháp rời nói năng, một nhánh pháp này khiến riêng thực hành. Nếu người hay khế ngộ liền đến Phật địa.

GIẢNG:

Nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp, đó là dẫn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật dạy, chúng ta có tâm trong sáng, hiện ra ở mắt gọi là cái thấy ở mắt, hiện ra ở tai gọi là cái thấy ở tai v.v… Cái chân thật đều hiển lộ qua các căn. Cho nên ở đây bảo trói sáu căn trở về với một tinh minh, tức gom sáu căn về một tinh minh. Chỗ này nếu nói một tinh minh sanh sáu hòa hợp thì bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Vì vậy chúng ta phải trói sáu hòa hợp thành một tinh minh. Chỗ này hết sức quan trọng, trên ngôn ngữ nghe thường nhưng trên sự tu lại tối quan trọng, trói lục hòa hợp thành nhất tinh minh. Đó là mình trói pháp, không để pháp trói mình.

Làm sao trói sáu hòa hợp thành một tinh minh? Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm v.v… mỗi cái đều theo trần cảnh, vừa thấy liền khởi thức phân biệt, thành ra sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại. Bây giờ trói sáu căn trở về một tinh minh là thấy nghe… sáu cái đều hoạt động, nhưng không cho dính cái gì hết. Chỉ sống với một tinh minh là thấy nghe đủ cả mà liễu liễu thường tri. Không để thức phân biệt cái này dính cái kia, như vậy là trói lại. Nếu trói sáu căn trở về một tinh minh là đến chỗ chân thật. Tinh minh thì đâu phải vô tri giác. Tổ Huệ Khả nói “tâm con dứt hết các duyên”, là không dính các pháp bên ngoài tức Ngài trói sáu căn, không cho dính với sáu trần. Từ trói sáu căn không dính với sáu trần bị Tổ Đạt-ma nói “coi chừng rơi vào không”, Ngài thưa “con rõ ràng thường biết, làm sao không được” tức là nhận một tinh minh rõ ràng thường biết, chớ đâu phải không.

Chúng ta ngày nay thích trói sáu căn hay thích thả sáu căn. Như ở đây nghe đàng kia có hoa thơm thì chịu ngồi đây hay đi tìm hoa. Hoặc đang ngồi đây mà nghe đàng kia có tiếng nhạc hay, lúc đó ngồi yên hay chạy lại coi nhạc gì vậy. Rõ ràng chúng ta thả sáu căn để cho sáu trần xỏ mũi dẫn đi. Nếu ngồi đây nghe mùi hoa thơm, nghe tiếng nhạc hay vẫn rõ ràng thường biết, không thèm dính không thèm chạy, đó là trói sáu căn trở về nhất tinh minh, hay trói sáu hòa hợp trở về nhất tinh minh. Nó hay chạy theo, bây giờ cột lại không cho chạy, đó là trói. Chúng ta tu là trói lục hòa hợp để trở về nhất tinh minh. Một tinh minh tức là một tâm. Nếu chúng ta nói một tinh minh sanh ra lục hòa hợp, đó là chạy theo pháp, bị pháp trói rồi.

Tất cả kinh điển đều là do chư Phật lập phương tiện nói có ba thừa. Thừa lại có đại thừa tiểu thừa, được có cạn sâu đều là chẳng phải là bản pháp. Bản pháp là trói lục hòa hợp trở về nhất tinh minh.

Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Chân là chỉ có cái chân thật, còn thấy hai là đối đãi không phải chân. Trong bài “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán kết thúc “tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”, nếu tin tâm thì không hai, có hai là chưa tin tâm. Ở đây nói còn hai thì không phải chân. Chúng ta thấy kinh Phật với lời Tổ không khác, khít khao, rõ ràng nhưng vì chúng ta không hiểu nên chấp câu chấp lời, cho rằng Tổ dạy khác, Phật dạy khác, thật sự không phải như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10338)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34408)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9634)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9797)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20449)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8755)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8863)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12109)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8996)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9260)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9895)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10618)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12475)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9335)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9193)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9318)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10455)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21997)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9536)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10191)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8832)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8626)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9132)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9605)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8613)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9447)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8357)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8469)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10186)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23628)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9573)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9002)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8339)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8529)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7972)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8800)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10060)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8643)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8624)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30058)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24169)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9270)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9633)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9502)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9069)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28204)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8884)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9657)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9343)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30895)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27121)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32711)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34001)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12466)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58679)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10655)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13940)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14209)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10763)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28150)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23274)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant