Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 5

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8276)
Đoạn 5

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 5

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào?

Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào?

Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”?

GIẢNG:

Câu hỏi thứ nhất: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào? Thông thường ai cũng hay hỏi câu này. Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành? Ở đây cần phải hiểu chữ đạo cho thật tường tận. Nhiều người cho rằng đạo là phương phápcon đường. Nhưng sự thật, chữ đạo trong nhà Thiền là chỉ cho tâm chân thật của chính mình. Thấy được, nhận được tâm chân thật gọi là thấy đạo hay đạt đạo. Tâm chân thật vốn của mình, đâu phải vật gì bên ngoài mà muốn tu hành. Tu là tu những thứ tạm bợ, giả dối. Nên Tổ trả lời “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành”. Như vậy chữ đạo ở đây chỉ cho tâm thể chân thật của chúng ta, nó sẵn có, chỉ đừng bị vọng duyên, ngoại cảnh lôi cuốn thì đạo hiện tiền. Tu hành chẳng qua dẹp duyên là đủ.

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào? Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ. Lâu nay chúng ta nói học đạo, nói thiền là nói với người nào? Nói với người độn căn. Độn căn là người không sáng. Vì vậy chúng ta đừng lấy đó làm chỗ y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?” Những câu nói tham thiền học đạotiếp dẫn kẻ độn căn, người thượng căn phải dạy làm sao?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Nếu người thượng căn thì không cần đến người khác tìm. Tại sao? Bởi vì thượng căn thì nhận ngay nơi tánh mình, tâm mình là chỗ y cứ, là chỗ chân thật. Đã có chỗ y cứ còn đi tìm đâu nữa. Chính mình nhận ra còn không có sở đắc, huống nữa có pháp để mình được. Đối với người thượng căn, thượng trí tu là trở lại với tâm tánh sẵn có của mình, đã là sẵn có thì còn tìm đâu nữa. Không tìm thì không có được. Sở dĩ nói được là do tìm, tìm cái bên ngoài chớ không phải cái của mình, vì vậy nói tự mình còn không có thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Xứng tình là hợp với mong muốn của mình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”? Tổ dẫn kinh để xác chứng ý này.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm?

Đáp: Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác.

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”?

Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư khôngtrước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

GIẢNG:

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm? Đáp: Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác. Từ này nghe thật khó hiểu. Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác nghĩa là sao? Chỗ đó không phải tìm kiếm bên ngoài, nhưng biết mài biết giũa thì tâm tỉnh giác càng sáng. Vậy cái gì mài, cái gì giũa? Thật ra chúng ta không có gì để dụng công, nhưng trên thực tế vẫn hằng dụng công. Nghe như mâu thuẫn. Tại sao? Bởi vì nếu có dụng công, tất nhiên người dụng công và cái bị dụng công khác. Còn ở đây mình tự tỉnh, tự giác. Tất cả vọng tưởng phiền não dấy khởi, mình buông đi không theo, lúc đó dường như thấy có buông bỏ phiền não, mà thật ra phiền não không thật, cái thấy phiền não cũng không thật. Như vậy cả hai đều không thật. Do chúng ta tự tỉnh thấy nó không thật nên buông bỏ, chớ không phải thấy thật rồi cố mài giũa cho nó sạch.

Trong giai đoạn tu phải dụng công như thế, không thể nói tâm mình sẵn thanh tịnh là ta sống thanh tịnh được. Rõ ràng bây giờ nó không chịu thanh tịnh, luôn nghĩ bậy nghĩ bạ đây. Nếu chúng ta để y nguyên như thế, thì nó nghĩ hoài làm sao dẹp được, nên phương tiện dùng sức tỉnh giác mài giũa nó. Khi nó lặng thì cái tỉnh giác cũng lặng theo. Vì vậy nói “nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác”.

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không? Câu hỏi này rất có ý. Chúng ta mài giũa tới khi cả hai mòn hết, thì thành đoạn tuyệt, chẳng lẽ tu tới không ngơ?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Ai dạy kia không, nghĩa là dạy tới chỗ cuối cùng là không. Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia? Đó là cái thật của chính mình, chúng ta không thấy, không nhận là do vọng tưởng điên đảo mờ ám che đậy, buộc lòng phải mài giũa. Mài giũa nó tiêu mòn dần, cái thật hiện ra, đâu nói là không được.

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”? Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư khôngtrước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

Ở đây hỏi đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”, tức là chớ đoạn nó. Đáp nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ngừng tâm đuổi tìm là được, chớ nói gì đoạn. Vì thể tâm chân thật không tướng trạng nên dùng hình thức hư không để ví dụ. Hư không không có hình tướng làm sao đoạn, thể tâm cũng thế, làm sao đoạn được.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng?

Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải?

GIẢNG:

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Trong hư không buổi sáng mặt trời lên thì thấy sáng, buổi chiều mặt trời lặn thì thấy tối, sáng tối là cảnh bên ngoài. Hư không không sáng tối, như vậy đồng khác với ta chăng? Hư khôngvô tri, tánh giác là thường tri. Cái vô tri với cái thường tri mà hỏi đồng hỏi khác là sao? Đây chẳng qua tạm dùng hư không để thí dụ, ông bèn nhằm vào nó sanh hiểu, tưởng chỗ chân thật giống như hư không. Như vậy không đúng.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng? Như vậy cho người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Câu này đáp rất rõ ràng. Hỏi “như vậy cho sanh hiểu không”, Ngài đáp tôi không từng chướng, không ngăn, không che ông, ông tự muốn hiểu thì cứ hiểu, nhưng cái hiểu thuộc về tình. Cho nên khi các Thiền sư hỏi “hội không” thường đáp “chẳng hội”. Chẳng hội mà được, còn nói hội thì ăn đòn. Chẳng hội là chẳng hiểu, bị vì hiểu tức là tình, mà tình sanh thì trí cách, không còn trí chân thật hiện tiền.

Chúng ta sống thường dùng tình nhiều hơn trí. Cái gì cũng đặt thức tình tìm hiểu, càng tìm hiểu thì trí chân thật càng lặn mất. Tu được định trí chân thật mới hiện ra. Đã định thì tình còn không? Tình hết. Tình hết trí mới hiện. Tìm hiểu thuộc về tình, càng hiểu tình càng sâu nên nói tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng? Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải? Hỏi có phải không sanh tình chăng? Nếu còn thấy phải thấy quấy là còn tình. Nếu không sanh tình thì đừng nói phải quấy. Đây là chỗ đặc biệt.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào?

Hỏi: Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người?

Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào?

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào?

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động.

GIẢNG:

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng? Hòa thượng vừa mới nói, người nghe lập lại, tại sao lại rơi vào chỗ nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào? Ông không hiểu lời nói, chớ có gì rơi vào, chẳng qua là thấy với chưa thấy thôi, không có gì rơi vào hết.

Hỏi: Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người? Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào? Thật pháp là không điên đảo mà ông hỏi quanh hỏi co, hỏi phải hỏi quấy, đó là tự điên đảo rồi, làm sao thấy thật pháp.

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào? Hỏi điên đảo thì chẳng lẽ Hoà thượng đáp cũng điên đảo luôn sao.

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động. Ở đây Ngài dạy, ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, đừng chạy theo lời nói, mạch văn của người. Nếu chạy theo người ta thì giống như con chó ngu thấy tiếng động là sủa, không biết gió hay cây.

CHÁNH VĂN:

Về Thiền tông tôi đây từ các bậc tiền bối trao truyền đến nay, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ nói “học đạo” là lời để tiếp dẫn. Nhưng, đạo cũng không thể học, còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết.

GIẢNG:

Đứng về mặt Thiền tông, các bậc tiền bối trao truyền từ trước đến giờ, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ dạy người nhận ra, thấy liền thấy, không thấy thì thôi, chớ không cho cầu hiểu biết. Học đạolời nói để tiếp dẫn người sau thôi. Nhưng đạo cũng không thể học. Còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Tại sao? Lẽ ra học hiểu thì thông đạo, tại sao mê đạo? Vì càng học, càng hiểu càng trở thành trí suy luận, so sánh, đối chiếu. Mà so sánh đối chiếu thì xa đạo rồi.

Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Vì đạo không có chỗ nơi nên đạo chỉ cho tâm Đại thừa, tâm thênh thang rộng lớn của mình.

Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. Tâm này không có chỗ nơi và đặc biệt muốn thấy, muốn gần nó là đừng khởi hiểu biết. Vừa khởi hiểu biết liền cách xa.

Ngài nói đi nói lại, rốt cuộc cũng chỉ cho chúng ta thấy nơi mọi người có tâm thể chân thật, không cho suy luận hiểu biết để mình nhận ra tâm ấy. Bởi vì phải lặng dừng tất cả suy luận tâm ấy mới hiện. Vì vậy chúng ta tu muốn tâm chân thật hiển hiện phải dừng tất cả niệm lăng xăng, đối đãi, phân biệt.

CHÁNH VĂN:

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Đạo thiên chân này vốn không danh tự. Bởi vì thế gian không biết, mê ở trong tình. Cho nên chư Phật ra đời nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ, quyền lập tên “Đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm, đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn.

GIẢNG:

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Tình lượng tức là tâm suy luận hiểu biết. Nếu hết tâm suy luận hiểu biết thì tâm chân thật trùm khắp. Tâm suy lượng hiểu biết luôn đặt trên danh tướng. Khi chúng ta phân biệt tên đó, chữ đó, nghĩa đó… là danh. Phân biệt hình này, tướng kia đẹp xấu… là tướng. Tất cả tình lượng phân biệt đều nằm trên danh tướng. Nếu danh tướng tình lượng lặng thì tâm thênh thang bủa khắp, đó là đạo.

Cho nên ở đây dùng chữ “đạo thiên chân” này vốn không danh tự. Tại sao nói đạo thiên chân? Thiên chân có hai cách hiểu. Thứ nhất, thiên chân là cái chân nghiêng một bên. Thường thường nói thiên chân là chỗ đạt được của Nhị thừa, chỉ mới có một bên, chưa viên mãn. Thứ hai, thiên chân ở đây là cái chân thật sẵn có. Đạo sẵn có chân thật này vốn không danh tự. Nên đạo thiên chân tức là đạo sẵn có chân thật. Người thế gian không hiểu nên mê trong tình.

Cho nên chư Phật ra đời thì nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ quyền lập tên đạo. Chúng ta sẵn có đạo chân thật, không tên tuổi, không danh tự, người thế gian không biết mê lầm trong tình chấp. Cho nên chư Phật ra đời để phá chấp này, quyền lập tên “đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Chúng ta tu phải nhận ra chỗ chân thật, không nên sanh thêm hiểu biết phân biệt nào, vì vậy nói “được cá quên nôm”. Như người cầm nôm đi nôm, cốt được cá chớ không phải được nôm. Cho nên khi được cá thì quên nôm. Chúng ta cũng vậy, nhận ra đạo thì quên hết danh tự, dù danh tự đạo cũng không còn. Nếu còn bám vào danh tự là còn giữ nôm mà không giữ cá.

Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn. Sa-môn là gì? “Thức tâm đạt bản nguyên danh vi Sa-môn.” Hiểu được tâm, đạt được nguồn cội gọi là Sa-môn. Người tu mà không hiểu tâm, không thấu suốt được nguồn cội thì chưa xứng là người tu. Vì vậy Tổ dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương nhắc câu này.

CHÁNH VĂN:

Quả Sa-môn là dứt duyên lự mà thành, không phải từ học mà được.

GIẢNG:

Quả của Sa-môn có nhiều bậc. Thí dụ như Tứ quả Sa-môn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Riêng quả Sa-môn ở đây là quả đạt đạo tuyệt cao, không phải do tâm phân biệt so sánh đối đãi mà thành. Cho nên nói không phải học mà được.

CHÁNH VĂN:

Ông nay đem tâm cầu tâm, bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy, có khi nào được.

GIẢNG:

Nếu đem tâm cầu tâm, có khi nào được. Muốn được tâm chân thật tự mình phải buông hết mọi thứ phân biệt vọng lự, thì tâm chân thật hiện tiền. Bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy là đến nhà các bậc thầy cầu mong chỉ dạy, như thế trọn chẳng thể được.

CHÁNH VĂN:

Người xưa tâm lanh lợi vừa nghe một câu bèn dứt học, cho nên nói là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”.

GIẢNG:

Người xưa nghe một câu bèn dứt học, gọi là tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân. Ngài Huyền Giác nói câu này để nhắc chúng ta đến chỗ chân thật rồi không còn học là tuyệt học, vô vi là không còn mọi động tác, mọi suy luận. Được như thế gọi là nhàn đạo nhân, đạo nhân thảnh thơi không còn bận bịu việc gì.

CHÁNH VĂN:

Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều hiểu rộng, rộng cầu văn nghĩa, bảo là tu hành, không biết biết nhiều hiểu rộng trở thành bít lấp.

GIẢNG:

Tại sao biết nhiều, hiểu rộng lại trở thành bít lấp? Bởi vì chúng ta học nhiều, nhớ nhiều thì càng che cái chân thật của chính mình, cho nên gọi là bít lấp. Nếu tâm trống rỗng không còn gì che đậy, tâm chân thật sẽ hiện ra.

CHÁNH VĂN:

Chỉ cần biết nhiều sánh với trẻ con ăn tô ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu.

GIẢNG:

Người muốn biết thật nhiều, thuộc lòng Tam Tạng kinh điển, giống như mấy đứa bé thích ăn bơ, ăn sữa. Nó không biết ăn nhiều không tiêu sẽ thành bệnh. Chúng ta cũng vậy, cứ ngỡ rằng học nhiều, hiểu rộng là hay, không ngờ chính học nhiều hiểu rộng lại trở thành bít lấp.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”. Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này. Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”. Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng.

GIẢNG:

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu, học nhiều quá tiêu hóa không nổi gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”, tất cả hiểu biết nhiều mà không tiêu hóa nổi thì trở thành thuốc độc.

Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này, học hiểu tìm kiếm phân biệt… tất cả những thứ ấy đều nằm trong sanh diệt, không phải thể chân như.

Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”, trong kho vua không có đạo như thế, không có học lăng xăng như vậy.

Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng. Sao gọi là Như Lai Tạng? Sao gọi là Không Như Lai Tạng? Khi không còn dính chấp, không còn khởi phân biệt gọi là Không Như Lai Tạng. Như Lai là Phật, Tạng là kho. Như Lai Tạng là kho của Phật. Kho của Phật chứa gì? Kho của Phật trống rỗng thênh thang, cho nên gọi là Không Như Lai Tạng.

Còn kho chúng ta chứa gì? Chứa đủ thứ bá nạp, tốt xấu hay dở không thiếu thứ gì. Bởi vậy nên gọi là tạng hay tàng thức. Tàng thức đối với Duy Thức học gọi là thức thứ tám, chứa tất cả chủng tử thiện ác, đó là những thứ phân biệt nên gọi là thức. Khi ta dẹp hết tất cả chủng tử thiện ác rồi gọi đó là Không Như Lai Tạng.

CHÁNH VĂN:

Như Lai Tạng lại không một mảy bụi có thể có, tức là vị Pháp vương phá hữu xuất hiệnthế gian, cũng nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được.”

GIẢNG:

Như Lai Tạng không một mảy bụi có thể có, nghĩa là không còn một mảy bụi mới gọi là Như Lai Tạng. Nếu không còn một mảy bụi thì gọi là vị Pháp vương phá hữu xuất hiệnthế gian. Pháp vương phá hữu là gì? Là ông vua pháp dẹp hết những cái có ở thế gian. Cũng nói rằng “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được”, đây dẫn kinh Kim Cang để nói đức Phật là vị Pháp Vương Phá Hữu xuất hiệnthế gian.

CHÁNH VĂN:

Lời nói này chỉ là không. Tình lượng hiểu biết của ông cần được tiêu dung, trong ngoài tình hết, trọn không y chấp là người vô sự.

GIẢNG:

Những lời dẫn từ trước đến đây, cốt chỉ cho chúng ta thấy là không, không một pháp, như vậy tất cả tình lượng, hiểu biết cần phải tiêu dung. Tiêu dung là dọn dẹp tiêu hoá hết, không còn gì lợn cợn nữa. Trong ngoài tình hết, ở trong ở ngoài đều không còn tình chấp. Trọn không y chấp là người vô sự, tức không có gì để dính mắc nữa là người vô sự. Người vô sự là người thế nào? Chắp tay ra sau đi tới đi lui thong thả, ngó trời ngó mây là người vô sự chăng? Ngó trời ngó mây mà trong đầu lăng xăng, có phải vô sự chưa? Thân thì thấy như vô sự mà thực tâm chưa vô sự. Vô sự là tất cả tình chấp không còn, trong ngoài đều dứt sạch, chính chỗ đối cảnh vô tâm mới là người vô sự.

CHÁNH VĂN:

Cương yếu giáo lý tam thừa chỉ là thứ thuốc hợp cơ, tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng, chỉ cần rõ biết thì không bị mê hoặc là hay bậc nhất. Không được bên một cơ, một giáo chấp văn nhận hiểu. Tại sao như thế? Thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

GIẢNG:

Ở đây Ngài muốn nói cho chúng ta hiểu, sở dĩ Phật giảng dạy có chia ra tam thừa Phật giáo, hoặc ngũ thừa Phật giáo là vì đối bệnh cho thuốc, chớ chưa phải chỗ cứu kính. Bởi hợp cơ cho nên tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng nên pháp này khác pháp kia. Chỉ cần rõ biết thì không mê hoặc, chúng ta cần biết những pháp ấy Phật phương tiện tùy cơ mà thuyết. Biết rành rẽ như vậy, không lầm lẫnhay bậc nhất.

Gần đây tôi có một cái nhìn, như hàng Thanh văn lấy pháp Bát chánh đạo làm căn bản, Duyên giác lấy Mười hai nhân duyên làm căn bản. Trong Bát chánh đạo thứ nhất là Chánh kiến, kế đến là Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, tới Chánh định thì dừng. Còn Đại thừa lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ gồm Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ. Như vậy hai bên khác nhau chỗ nào?

Theo Thanh văn, bước đầuChánh kiến, nhận định đúng với Chánh pháp, đúng với lý Tứ đế. Muốn thế phải có trí tuệ mới Chánh kiến được. Trí tuệ ở đâu ra? Phật dạy “các ngươi hãy thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trí tuệ đó từ học mà được. Các hàng Thanh văn nhờ nghe, nhờ học kinh Phật mà có nhận định đúng, thành ra trí đó là trí hữu học. Từ trí hữu học đi lần lần lên thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, tu hành đúng tới chánh định thì dừng. Tại sao? Bởi vì Thanh văn tu muốn cầu Niết-bàn, cứu kính Niết-bàn của Thanh vănDiệt tận định, cho nên dừng lại ở định.

Bồ-tát bắt đầu từ Bố thí, kế đến là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Với tinh thần Đại thừa, trước hết dùng lòng Từ bi, do dùng Từ bi nên bố thí. Bố thí dẹp cái gì? Dẹp tham. Kế đến Trì giớibảo vệ cho chúng ta tránh những lỗi lầm. Nhẫn nhục để trừ sân. Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ diệt hết si. Như vậy trí tuệ của Lục độ từ đâu ra? Từ Thiền định mà được, nên trí tuệ đó là trí tuệ vô sư. Bồ-tát ban đầu đi từ tâm từ bi, lần lần tới diệt tham, sân, si, cuối cùng trí tuệ chân thật hiện. Phân biệt sự khác nhau trên pháp tu của hai bên Thanh văn và Bồ-tát, chúng ta mới thấy hai giáo lý sai biệt nhau ở mục đích cứu kính.

Người tu Bồ-tát đạo khi được trí tuệ rồi, biết trí tuệ ấy đâu phải riêng mình có, ai cũng sẵn vì nó là trí vô sư. Do đó mọi người đều có khả năng thành Phật, vì vậy các ngài không nhập Niết-bàn mà chấp nhận đi trong sanh tử để độ chúng sanh. Còn các vị Thanh văn tu học từ Tứ đế được Diệt tận định, nên muốn ra khỏi sanh tử nhập Niết-bàn. Một bên hết duyên nhập Niết-bàn. Một bên nhận ra trí tuệ vô sư, lăn lóc vào đời độ chúng sanh. Đó là chỗ khác biệt giữa Tiểu thừaĐại thừa.

Hiểu vậy mới thấy giáo lý của Phật có từng chặng, nên nói giáo lý Tam thừa chỉ là phương pháp khế cơ thôi. Ở đây chỉ thẳng cho chúng ta biết tới chỗ cuối cùng không còn tất cả những suy nghĩ luận bàn. Nên nói “thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói”, chẳng qua chỉ là phương tiện.

CHÁNH VĂN:

Tông môn của tôi đây chẳng bàn việc này, chỉ biết dứt tâm liền thôi, không cần suy trước tính sau.

GIẢNG:

Tổ bảo tông môn của Ngài chỉ cần dứt tâm, không cần suy trước tính sau. Chỗ này đơn giản mà khó. Ví dụ như người bị bệnh ái nặng, Phật dạy họ quán thân bất tịnh. Quán đến khi nào gớm nó thì bớt ái, như vậy dễ trừ. Còn ở đây không nói bệnh gì hết, miễn niệm dấy lên liền bỏ. Chúng ta bỏ hoài mà không thấy hết nên nói khó. Càng đơn giản càng khó. Cũng thế, chân lý rất đơn giản cho nên khó tìm. Cái gì màu sắc hoa hòe tô điểm bên ngoài, dễ tìm nên người ta thích, nhưng nó không phải chân lý. Chân lý là lẽ thật, rất đơn giản. Hiểu vậy chúng ta thấy lối tu chỉ biết dứt tâm liền thôi là quá đơn giản, vì thế nên khó. Đó là con đường tắt. Khó mà bền chí tu cũng sẽ thành tựu. Còn dễ là con đường quanh, đi không khéo lòng vòng mãi không biết bao giờ mới về đến nhà. Như người leo núi, đi thẳng lên khó, còn đi vòng vòng dễ hơn. Việc tu của chúng ta cũng giống như vậy. Hiểu rồi mới bền chí, mới quyết tâm tu. Nếu không hiểu thì tu lâu thấy mệt mỏi sanh ra chán ngán. Người khéo tu biết buông bỏ những gì dính mắc, che lấp thì tự sáng thôi.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không?

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay. Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác.

GIẢNG:

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm? Hỏi tâm nào là Phật, Ngài hỏi lại ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không? Tam thừa nói rõ ràngphàm thánh, nếu người tu Thiền từ Sơ thiền tới Tứ thiền thuộc về Phàm phu thiền. Từ Tứ thiền trở lên bước qua Thánh quả, có phàm có thánh. Còn Bồ-tát từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng thuộc về Hiền, từ sơ địa cho tới thập địa… thuộc về Thánh. Rõ ràng từ giáo lý Nhị thừa tới giáo lý Đại thừa đều nói có phàm thánh. Tại sao Ngài nói không phàm thánh.

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, trong tam thừa giáo lý cũng nói tâm phân biệt phàm, tâm phân biệt thánh là tâm vọng. Nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Vì ông còn chấp hai bên phàm thánh, đó là vọng nên còn mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, bây giờ hai bên phàm thánh đều dẹp hết. Nói dẹp phải quấy hơn thua thì dễ, chớ dẹp phàm thánh hơi khó. Dẹp được phải quấy hơn thua cũng là hạng khá, huống nữa là dẹp tình phàm cảnh thánh. Nếu dẹp được tình phàm cảnh thánh thì không còn Phật nào khác nữa, đó là Phật rồi. Cho nên nói ngoài tâm chân thật không có Phật khác.

Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Ở đây dẫn lời của Tổ Đạt-ma chỉ dạy. Ngài chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm tức chạy ra ngoài tìm phàm tìm thánh, trở lại mê tâm mình tức quên tâm, vì thế buộc lòng phải nói với ông “tức tâm là Phật”. Nói thế để nhớ tâm mình là Phật, không thể bỏ nó tìm Phật bên ngoài được.

Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay, thể chân thật hay tâm Phật của mình từ xưa đến giờ không đổi thay tí nào hết. Nếu người có niệm phân biệt suy tính liền rơi vào cõi khác.

Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác. Đẳng là ngang nhau, được Chánh giác bằng nhau chớ không có cao thấp riêng khác.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm?

GIẢNG:

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác. Vừa thấy có đạo lý là tâm khác, chớ không còn tức tâm là Phật nữa.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?chúng ta chạy tìm nên thành khác. Nếu không tìm kiếm thì có gì khác.

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tại ông nói tâm này là phàm, tâm kia là thánh, nên nói tức phàm là thánh.

Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm? Tới chỗ cuối cùng chữ tức cũng phải buông, chữ tâm cũng phải bỏ, cả hai đều hết. Như vậy không cần tìm kiếm ở đâu.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”.

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

GIẢNG:

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Nói khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vừa thấy vọng chúng ta khởi dẹp nó, như vậy cái khởi dẹp cũng là vọng. Nhưng nếu vọng khởi mình không dấy niệm bỏ, làm sao nó hết, cho nên giai đoạn đầu phải phương tiện dùng cái này bỏ cái kia.

Nhưng khi chúng ta tu sâu rồi, vọng vừa dấy mình nhìn nó mất. Quí vị đừng cố đè, đừng cố dẹp, chỉ thấy nó buông thôi, đừng theo là được. Tại sao đừng đè đừng dẹp? Bởi vì nó có thật đâu mà đè, có thật đâu mà dẹp, chẳng qua biết nó hư dối không theo là được rồi. Vọng vốn không gốc, không thật, chỉ nhân phân biệt mà có. Cho nên Tổ dạy ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Tất cả hai bên: phải quấy, hơn thua, tốt xấu, đúng sai, phàm thánh… đều không dính bên nào thì vọng tự hết. Ngược lại, nếu kẹt một bên, bên này hoặc bên nọ thì vọng không bao giờ hết.

Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Tổ dẫn hình ảnh Bồ-tát chặt hai cánh tay để cúng dường, đây là để nói ý bỏ hai bên. Hai bên không còn dính, không còn kẹt, không còn chấp, đó là Phật. Có người bảo khởi nghĩ là vọng, dừng nghĩ là chân, cho nên bỏ vọng cầu chân. Bỏ vọng cầu chân thì còn hai bên hay một bên? Cũng là hai bên. Nói vọng nói chân là phương tiện, chớ không phải thật. Chỉ vọng lặng hết tự nó là chân, cái chân cũng không còn chân, vì đối với vọng nên gọi chân. Vọng hết thì còn gọi là gì? Nó là tâm thể chân thật hiện tiền, không nói vọng, nói chân gì hết.

Cúng dường hai cánh tay là bỏ chấp hai bên. Kinh Đại thừa có những hình ảnh người ta dễ hiểu lầm. Nói Bồ-tát bố thí hai cánh tay, ta tưởng đâu bỏ hai cánh tay được Phật thọ ký. Thích quá hôm nào ta cũng chặt tay để được Phật thọ ký. Nhưng mình chặt tay rồi thì thành người cụt tay, chớ không ai thọ ký cho đâu.

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

Truyền tâm là người không còn dính chấp nào, tâm thể hiện tiền, nghe người kia trình bày chỗ không còn dính mắc của họ, hai bên thông cảm nhau gọi là lấy tâm truyền tâm. Tổ Đạt-ma truyền pháp cho Tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả nói “ngày nay con dứt hết các duyên”, nghĩa là không còn chút dính mắc nào. Tổ Đạt-ma sợ dứt hết các duyên lại chấp không, nên nói “coi chừng rơi vào không”. Tổ Huệ Khả nói “rõ ràng thường biết, làm sao không được”. Dứt hết các duyên mà tâm vẫn rõ ràng thường biết, làm sao không. Tổ Đạt-ma nói “ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế”, đó là truyền tâm. Như vậy có truyền gì không? Thường nói truyền trao là đem gậy, đem bát, đem y trao cho gọi là truyền. Còn ở đây ông thấy như vậy đúng với cái thấy của ta, ta thấy đúng với cái thấy của Phật. Đó là thừa nhận chỗ hợp nhau, gọi là truyền, chớ không phải đem cái gì ra truyền cho người.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy, ông đâu kham lãnh hội.

Hỏi: Như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

GIẢNG:

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội.

Nói truyền tâm là sao? Ngài dẫn Tổ sư nói khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, nhận được chỗ không còn nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết. Khi được cũng không nói tôi biết nó, vì nó rõ ràng hằng biết, đâu thể nói biết được nó. Nếu biết nó thì nó là vật bị biết. Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội. Tôi có dạy ông cũng không lãnh hội được.

Hỏi: Như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Người hỏi nói rằng như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm. Như hư khôngtrước mắt, ta có thể nhìn biết, sao không lấy đó mà chỉ? Ngài nói tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Tâm đó không phải ngoài cảnh mà có, nó có ngay nơi ông. Giả sử mình thấy được nó, chỉ là thấy tâm chiếu cảnh, chớ không phải thấy tâm thật. Như lấy gương soi mặt, mặt mày trong gương chúng ta thấy được là cái bóng, chớ không phải mặt mày thật. Mặt mày thật không thể thấy, như con mắt không thể thấy con mắt. Vì vậy những gì chúng ta tìm thấy chỉ là bóng dáng thôi, không phải cái chân thật.

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”. Ở đây hỏi nếu nói không nhân chiếu khi nào được thấy? Ngài đáp nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, nhân tức là nhân chiếu. Muốn chiếu thì phải có vật mới chiếu được, như vậy chừng nào liễu ngộ. Đây dẫn lời các Tổ nói ông thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”, dù nói mấy ngàn điều chỉ là chuyện luống công, chớ gốc là buông tay không dính một vật. Đó là chủ yếu, còn nói đông nói tây chỉ phương tiện thôi.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

Đơn giản vô cùng. Hỏi “nếu người hiểu rồi chiếu soi cũng không vật sao”, Ngài đáp “nếu là không vật thì cần gì phải chiếu”. Vì chiếu là soi lại, mà cái ấy không có, lấy gì soi. Bây giờ chỉ nói nếu ông hết mê tức là giác, giống như người mở mắt thì không ngủ. Thức ngủ khác nhau ở chỗ mở mắt với nhắm mắt thôi, sáng tối khác nhau ở chỗ tỉnh hay mê thôi.

CHÁNH VĂN:

Ngài thượng đường bảo:

Biết nhiều trăm thứ, chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy. Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cũng không có đạo lý gì có thể nói. Vô sự giải tán đi.

GIẢNG:

Ngài bảo “biết nhiều trăm thứ chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy”, chỗ không cầu là tột bậc nhất, còn biết nhiều trăm thứ không phải là hay.

Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cùng sự không có đạo lý gì có thể nói, nói đạo nhân là chỉ cho những người vô sự, vô sự thì không có tâm lăng xăng lộn xộn, chỗ tột cùng sự không còn đạo lý gì để nói nữa. Cuối cùng Ngài nói một câu dễ dàng nhất: Vô sự giải tán đi, không còn chuyện gì nữa thì giải tán đi, học nhiều làm chi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10130)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10406)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9677)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23599)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11837)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10729)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10068)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28679)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21612)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29401)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11387)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12362)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26320)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31013)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25328)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22801)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13046)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21930)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14135)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12431)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11240)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10690)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38055)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13666)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13453)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12343)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12584)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12050)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10722)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33185)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12793)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7389)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12613)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12035)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12868)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11939)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10694)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11358)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11653)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10861)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10795)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10370)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10484)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10702)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10626)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11909)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10691)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12733)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10803)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11378)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11089)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11624)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10511)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11253)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12299)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11158)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11420)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11503)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11293)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11577)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12995)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14170)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11009)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11864)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13156)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11575)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11417)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10930)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11275)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10809)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11055)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10876)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10245)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17104)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10997)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10862)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10404)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11385)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11075)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11379)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10352)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12765)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19244)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19676)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21264)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20313)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19741)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19022)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20456)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21074)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17918)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21813)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant