Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dâng hoa mùa an cư kiết hạ

07 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13923)
Dâng hoa mùa an cư kiết hạ

DÂNG HOA MÙA AN CƯ KIẾT HẠ
Trần Kiêm Đoàn

blankTrước những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại ngày một xuất hiện nhiều sản phẩm cứu người và giết người tân kỳ mới lạ, con người thường xuyên đứng trước những ngã ba đường của sự chọn lựa thiện ác, khen chê. Đồng thời, sự chuyển biến quá nhanh chóng và tinh vi trong hai lĩnh vực giao thông vận tải và truyền thông đại chúng đã làm cho thế giới thành một “Làng Địa Cầu”. Lạ thay, thực tế trái ngược với ước vọng thường tình, con người càng dễ tiếp cận với nhau chừng nào thì sự cảm thông càng giảm xuống mà xung đột lại càng tăng lên. Thông tin càng nhanh thì sự hiểu lầm càng phát sinh tương ứng. Phải chăng tốc độ vật lý không theo kịp tốc độ tâm lý của con người.

Sự phát triển và chuyển hóa của Đạo Phật Việt Nam cũng không thể nào bước ra ngoài hay vượt lên trên những va chạm xã hội hay dính mắc tư duy của trào lưu lý tínhtâm linh chung. Hơn thế nữa là hiện trạng lĩnh vực truyền thông đang phát triển còn nhanh hơn cả cấp số nhân. Nó đã tạo ra nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm hệ lụy. Lượng thông tin trên trang mạng internet đang ồ ạt chinh phục tâm thứctrí tuệ con người. Google, Yahoo, Firefox, Youtube, Twitter, Facebook… có nhiều “tín đồ” và cư dân trên mạng đông hơn cả tín đồ của Phật, Chúa, Mohamed cộng lại. Màn ảnh nhỏ vi tính đang chinh phục loài người bằng tốc độ của Superman và đôi mắt thấy xa nghìn dặm của Tề Thiên Đại Thánh. Lượng thông tin tung ra không kiểm chứng và không có trách nhiệm có khả năng càng ngày càng trở nên một đống rác khổng lồ; mặc dầu trong đó cũng lóng lánh vô số những hạt minh châu của thông tin và tư tưởng. Nhưng liệu bao nhiêu phần trăm dân cư trong thế giới mạng internet tìm đến những hạt minh châu mà không bị vấy bẩn bởi sự cuốn hút đầy thô bạo của rác rưởi?!

Nếu nói đạo Phật là đạo của trí tuệ thì đồng thời không thể quay mặt phủ nhận được một thực tếđạo Phật đang đứng trước những thách đố của nếp sống, thông tin và tư tưởng thời đại. Trước mọi hoàn cảnh nói chung, 3 khuynh hướng bảo thủ, cấp tiếntrung dung bao giờ cũng hiện ra lù lù để cản đường hay khai thông trước mọi thay đổi. Một tổ chức nghiên cứu tôn giáo hàng đầu thế giới, PEW, đã tìm thấy rằng, trong đời sống tâm linh tôn giáo nói chung, khuynh hướng bảo thủ (conservative) chiếm 83% trong giới tu sĩ và 72% trong giới tín đồ. Với đạo Phật Việt Nam, rất có thể con số nầy sẽ cao hơn vì ảnh hưởng của một bối cảnh văn hóa làng xã, gia trưởng và nền tảng kinh điển Hán Tạng còn quá nặng nề.

Tuy nhiên, sức mạnh chi phối của môi trường sinh sống, hoàn cảnh xã hộiđiều kiện kinh tế mới có sức mạnh quyết định trong thời hiện đại.

Hiện tượng cá nhân tu sĩ “ra chùa”, hiện tượng Phật sự càng ngày càng đa đoan về chuyện cúng dường, xây dựng, gây quỹ, xưng tụng chức danh… là một hậu quả không thể thay đổi ngược lại bởi tác dụng đầy vũ bãoquyết định của nếp sống cá nhân chủ nghĩa và kinh tế thị trường phương Tây vào sinh hoạt tôn giáo. Các khuynh hướng bảo thủ, trung dung, cấp tiến thảy đều bị cuốn phăng vào dòng cuồng lưu của tính thực dụng.

Nghĩ đến cơn lốc thời đại, kẻ đang viết những dòng nấy lắng lòng tưởng nhớ đây đang là thời điểm truyền thống thiêng liêng của đạo Phật Việt Nam: Đó là thời kỳ An Cư Kiết Hạ. Theo giới luật, chư Tăng Ni bất luận tuổi tác hay thứ bậc trong đạo, đểu phải quy tụ về chùa (từ 4 vị trở lên) để tu học điều tâm dưỡng trí trong 3 tháng Kiết Hạ. Năm nay, nhân mùa Hạ về hưu, người viết có dịp đi nhiều chùa ở California và miền Đông nước Mỹ. Được nghe, thấy và gặp gỡ với nhiều giới Phật tử để lắng lòng suy gẫm “những điều trông thấy”.
Nhìn tới nhìn lui, loanh quanh những thành phố đông người Việt ở Hoa Kỳ và Hải Ngoại, tôi bỗng cảm thấy bầu không khí trầm hươngkhông gian tĩnh lặng của chốn cửa thiền chỉ còn là một hoài niệm khói sương trong miền quá khứ.

Triều Dương có hai câu thơ thật xót xa:

“Từng cuối tháng cộng trừ con số nợ.
Thì đường xưa mây trắng cũng thôi bay!”

Nợ ngân hàng, nợ bảo hiểm, nợ thuế, nợ điện, nợ nước, nợ ga, nợ phone, nợ xe, nợ hương đèn hoa quả, nợ ăn, nợ uống, nợ lễ hội vãng lai… có Thầy, Cô nào làm chủ chùa mà không lo và có chùa nào tránh khỏi. Có chăng một xã hội thực dụng đã hạ thấp và giới hạn chân trời cao rộng của tâm linh sâu thẳm xuống ngang tầm với những con số hàng ngày nên “giải thoát” đồng nghĩa với “giải nợ”?!

Và, một câu hỏi nghiêm trọng được đặt ra là trong một xã hội thực dụng phương Tây, khi muốn giữ cho thiền môn thanh tịnhTăng Bảo trang nghiêm thì “cái gì cần phải được ưu tiên hóa trước nhất trong từng cặp phạm trù phủ định lẫn nhau – có cái nầy thì mất cái kia – như: Tín tâm hay tín dụng; tịnh tài hay tịnh hạnh; khất sĩ hay khất tài…?”
Được làm Đồng ấu Phật tử từ năm lên 7 tuổi ta, tôi có được gần 30 năm sinh hoạt Phật tửquê nhà và 30 năm sinh hoạt Phật tử ở quê người. Thời gian không hẳn là thước đo đáng tin cậy của những điều trải nghiệm có giá trị thực chứng, nhưng ít ra cũng ít viễn mơ hơn là đeo kính cận viễn thị vào thư viện để tìm hương vị của một ao sen thơm ngát từ bùn.
Hằng năm, sau lễ Phật Đản (60 năm trước là mồng tám tháng tư ta) thì tới mùa An Cư Kiết Hạ của hàng Phật tử xuất giachư tăng ni – theo truyền thống đạo Phật Bắc Tông như ở Trung QuốcViệt Nam. Đức Phật đã phát huy tinh hoa của tư tưởng chiêm nghiệm tự tại vốn có từ lâu đời trong nếp sống tâm linh Ấn Độ. Đó là khi hành giả tạm dừng chân để suy niệm và nhìn lại chính mình trong quá trình hành hóa tâm linh. Hành giả trong bất cứ tôn giáo nào đều phải tự độ mình trước mới có đủ năng lực độ tha giúp người.

Nếp sinh hoạt tâm linh truyền thống của Ấn Độ trong mùa An Cư (từ khoảng giữa tháng 6 đến tháng 9 âm lịch) không hẳn là vì lý do thời tiết hay vì lòng từ bi tế vật, sợ ra ngoài dẫm đạp lên côn trùng nhỏ bé trên đường theo khuynh hướng diễn giải qua Hán Tạng Đại thừa của Phật giáo Trung Hoa. Nguyên ủy sâu xa nhất vẫn là nhu cầu tịnh hóa – gạn đục khơi trong – dòng chảy của tư tưởngtâm linh. Tâm ý con người như những dòng sông trôi chảybiến động không ngừng nên rất dễ bị hoàn cảnh lôi kéo và khuấy đục. Mùa An CưẤn Độ và Á Đông chính là thời điểm sinh hóa phát tiết cao nhất trong năm. Thiên nhiên tạo vật tưng bừng sống dậy. Năng lực tự nhiên của con ngườivạn vật cũng theo đó mà nẩy nở vươn lên. Thái Hư Đại Sư nói về mùa Kiết Hạ rằng: “An Cư Kiết Hạmùa gặt quý như châu báu của hành giả tiến tu. Trong cái chung có cái riêng và trong cái riêng có cái chung. Tăng ni tập trung về một nơi an tịnh như am miếu, chùa chiền, tự viện hay một chốn thuận lợithích hợp để giúp nhau định tâm, khai ý kiểm nghiệm tiến trình trau giồi giới, định, tuệ; kịp thời cầu sám hối những sai phạm và phát huy năng lực hành trì. Nhưng quan trọng nhất là mỗi thiện giả có một không gian riêng trong tâm để sống đời đạo hạnh cho riêng mình. Hiểu được mình và chiến thắng chính mình là “chiến công” oanh liệt nhất. Phật đã dạy như vậy.”

Thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay đang làm ô nhiễm ngưỡng cửa truyền thống vào nội tâm: Chiến thắng người, vinh danh mình, miễn sao có lợi nhuận càng cao mới là… chiến công càng oanh liệt nhất! Tình trạng tha hóa – đánh mất chính mình vì mất chìa khóa nội tâm – đang trở thành một vấn nạn, một nan đề của nếp sinh hoạt trong xã hội mang nặng tính thực dụng hiện hữu.

Phần đông, những người theo đạo Phật thường bị ám ảnh bởi thời Mạt Pháp. Dẫu chẳng có một mốc thời gian rõ ràng quy ước như lên lịch, nhưng khái niệm “mạt pháp” thường được nói lên như một báo hiệu trước những ngã rẽ khó khăn để tránh một cận ảnh thoái trào của đạo Phật. Người ta tin rằng, thời Mạt Pháp, nhiều Chư ThiênBồ Tát xuống trần hóa độ chúng sinh. Bởi tùy duyênhóa độ nên thế gian có bao nhiêu điệu sống thì sẽ có bấy nhiêu hạnh Bồ Tát hóa thân. Trong đó, những Bồ Tát nghịch hạnh và thuận hạnh xuất hiện giữa đời thường ứng hợp với cảnh đời xuôi ngược gây ra cảnh vàng thau lẫn lộn. Tuy nhiên, định luật khách quan, tự nhiên và không để lọt một tơ hào của Nghiệp Lực chung cuộc lại rất rạch ròi và công bằng với tất cả mọi người ở dưới bất cứ danh vị và hình tướng nào.

Mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, tôi dành nhiều thời gian đến chùa lễ Phật, nhưng chưa được dâng hoa lên chư tôn đức và tăng ni đang “Vô Hạ” như một thời tuổi trẻ trên quê hương của tôi ở Huế. Thuở ấy, quý ôn Linh Mụ, Báo Quốc, Từ Đàm, Châu Lâm, Từ Hiếu, Tây Thiên, Trà Am, Viên Thông, Trúc Lâm, Diệu Đế… là những minh sư trong mùa Kiết Hạ. Các ngài đều đã ra đi. Còn chăng thế hệ kế thừa vẫn còn giữ những ngọn đèn thắp sáng.

Hoa Kỳ, cái xứ mà tôi sinh sống đã 30 năm, đang ở giữa mùa “vào Hạ” mà tôi lại có cảm tưởng như các chùa đang “ra Hạ”. Quý Thầy, chư Tăng Ni, phần đông, ai cũng có vẻ tất bật với “Phật sự đa đoan” trong mùa Hè. Đến viếng các chùa, đã một tháng rưỡi sau ngày Phật Đản, tôi chưa có duyên lành gặp được chùa nào đang có khóa an cư. Tôi tìm thấy bảng niêm yết các chương trình tu học thì ít mà các dự án gây quỹ, xây dựng, cúng dường thì lại quá nhiều. Khủng hoảng thừa hay khủng hoảng thiếu thảy đều là khủng hoảng. Khủng hoảng là một nguy cơ. Nhưng không sao, vì trong gian nguy đã có mầm cơ hội.

Vô thường không hẳn là bất thường vì đấy là lẽ bình thường của cuộc sống. Một dòng sống đầy biến độngbiến chuyển. Không ai có thể ngồi lại bên cầu để mong tắm lại lần nữa trên cùng một dòng sông thuở nọ. Hoàn cảnh thay đổi, sinh hoạt Phật giáo cũng phải biến chuyển là một nguyên lý khách quan và tất yếu. Nhưng nguyên lý tùy duyên, bất biến vẫn là xương sống trong suốt cuộc hành trình mấy nghìn năm của đạo Phật.

Khi không gặp được điều mình mong ước mà phải gặp quá nhiều điều mình chẳng ước mong thì chỉ còn vái giữa thinh không vắng lặngliên tưởng đến một đóa Vô Thường.

Hoa bình thường

Trở lại với khuôn khổ và bối cảnh sinh hoạt của đạo Phật Việt Nam, giới Phật tử có khuynh hướng trung dung hay ở cả hai cực lạc quan hay bi quan về hiện trạng và tương lai của đạo pháp đều có chung một mối quan tâm thiết thân rằng: Đạo Phật Việt Nam chưa theo kịp đà thay đổi của con ngườihoàn cảnh. Dẫu rằng, tôn giáo không thể là một dòng chảy mang tính chất phong trào thời thượng và bất luận lý thuyết tôn giáo nói về nguồn gốc của tôn giáo mình xuất phát từ đâu, nhưng thực tế thì tôn giáo vẫn là một sản phẩm của con người. Vì vậy, bản chất đích thực của tôn giáo không thể thoát ly ra ngoài xã hội con người. Ngay cả những tôn giáo chủ trương xuất ly thế gian thì hành giả vẫn cần thế gian để tồn tại. Trong lúc Phật giáo Việt Nam xiển dương tín lý Đại Thừa, khởi tâm Thiền Tịnh song tu. Thế nhưng những hiện tượng nhập nhằng đem Đạo vào Đời; đem Đời vào Đạo vẫn còn… lờ mờ nhân ảnh là do đâu?

Thực tế trong cũng như ngoài nước Việt Nam cho thấy rằng, thế hệ Chiến Tranh Việt Nam đang ra đi và thế hệ Hậu Chiến Tranh Việt Nam của tuổi trẻ đàn em đang vào đời. Thế hệ đàn anh đã trãi nghiệm một dòng đời thăng trầm đầy biến cố trong một giai đoạn lịch sử không thiếu tính hào hùng nhưng cũng lắm màn đổi trắng thay đen, ba chìm bảy nổi của đất nước và dân tộc. Đối diện với những hệ lụy của cuộc sống, con người có nhu cầu an nghỉ và khai sáng tâm linh. Đối diện với tuổi già và cái chết, con người càng tha thiết muốn “đầu tư” cho cuộc sống phục sinh hay luân hồi mai sau. Tôn giáo là một đáp án và cũng là nguồn đáp ứng sáng giá, vừa vặn nhất cho những nhu cầu tâm linhthân mạng trong dòng sinh diệt vô thường như thế. Đấy cũng là điều lý giải cho hiện tượng thế giới trí thức phương Tây đang tìm về đạo Phật ngày một đông. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước Việt, nhu cầu tu học đạo Phật ngày càng phổ biến và lan rộng trong đại chúng.

Trước hoàn cảnh xã hội đổi thay như chong chóng và sự phát tâm tu học của đại chúng ngày càng cao, đạo Phật Việt Nam nếu không có hướng chuyển biến thích hợp thì sẽ bị kéo theo đuôi của sự chuyển biến tự nhiên không thể nào dừng lại. Cổ xe Đại Thừa đáng lẽ phải do chư tôn cao tăng thạc đức cầm lái để chở đại chúng về bờ giác ngộ; nhưng nếu Tăng Bảo thiếu pháp lực và pháp uy, thì sẽ phát sinh đối lực ngược lại. Ngoại đạo sẽ dành tay lái thì cổ xe đã không tới được Bến Giác mà còn quay lại Bờ Mê! Ngoại đạo không phải là người ngoài đạo Phật mà chính ngay hàng Phật tử xuất giatại gia không an trú trong giới luật, đi ngược đường tu hay lệch hướng Chánh Đạo.

Ba ngôi Tam Bảo có thể hình dung Phật Bảo là ngọn núi Tu Di, vững chãi như một chân lý nhiệm mầu. Pháp Bảo là biển Ta Bà gồm đủ thánh phàm, hải sản trân châu, kình ngư ác điểu và luôn những bè nổi, ghe thuyền để chở chúng sinh về núi Tu Di. Tăng Bảo gồm những người biết chèo chống bè nổi và ghe thuyền trên biển Ta Bà, đóng vai thuyền trưởng để đưa chính mình và người tới bến bờ chân núi Tu Di.

Khi quần sinh mong cầu vượt biển càng đông, vai trò và tiềm năng của Tăng Bảo càng muôn vàn khó khăn phức tạp. Hiện tượng phổ biến nhất trong lịch sử Phật giáo từ xưa đến nay, trên mọi xứ sở và xã hội, là khi Tăng Bảo không còn hòa hợp gây cảnh thiền môn mất thanh tịnh, Tăng Bảo hết trang nghiêm thì đạo Phật trong xứ sở và xã hội đó sẽ bị thoái trào. Lịch sử đạo Phật toàn cầu và Việt Nam đã trải qua bao lần thăng trầm, hưng vong như thế. Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu. Chỉ có điều đáng tiếc là khi một thế hệ lâm vào cảnh nổi sóng xô bồ thì con người ở trong thời điểm đó bị thiệt thòi vì không có được lợi lạc tìm cầu Phật đạo hợp cảnh, đúng người để được khai thị và hóa độ.

Một nguyên tắc đã quá xưa cũ nhưng vẫn còn chí lý: “Khi không thay đổi được hướng gió thì phải điều chỉnh lại thế đứng của cánh buồm”.

Ngọn gió 4 phương đã đưa Phật giáo Việt Nam hôm nay thành một tập thể tăng nitín đồ “đa lưu chi”; nghĩa là nhiều nguồn, nhiều nhánh, nhiều bộ phái, tông môn. Nhìn theo khuynh hướng Bảo Thủ thì một tập thể đa dạng là một sự phân hóa và suy yếu về mặt tổ chức. Nhìn theo khuynh hướng Trung Đạo thì đó là sự phát triển tùy duyên. Nhìn theo khuynh hướng Cấp Tiến thì đây là một sự phát triển hợp với nhu cầu chuyên hóa và đa nguyên trong thời đại mới. Chỉ trên bề mặt nổi của báo chí truyền thông thôi thì Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại đã có hàng chục giáo hội. Những danh xưng đang xuất hiện luân lưu thường được nhắc đến là:

- Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên Thế giới
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Đan Mạch
- Tổng hội Phật giáo Việt Nam
- Giáo hội Tăng già Khất sĩ Thế giới
- Giáo hội Tăng già Du tăng Khất sĩ
- Giáo hội Tăng già Việt Nam
- Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại
- Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật giáo Thiền tông dòng Lâm TếPháp Nhãn
- Giáo hội Phật giáo Nhất tông đời Trần
- Giáo hội Tịnh Độ Tông Việt Nam
- Giáo hội Phật giáo Mật Tông Thế giới
- Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
- Giáo hội Phật giáo Cao Đài…

Nếu đi xa hơn nữa vào sinh hoạt địa phương và các tông phái của cộng đồng người Việt Hải ngoại, các tổ chức Phật giáo tự lậpsinh hoạt độc lập theo quy chế tự do lập hội của xã hội phương Tây thì con số “giáo hội” sẽ còn tăng gấp nhiều lần và đang trên đà phát triển. Đó là một thực tại không thể đảo ngược theo chiều hướng “vạn pháp quy nhất” về mặt cơ chế cấu trúc và phát triển. Cần có một cái nhìn thực tếxây dựng hơn là nuôi ảo vọng chinh phục và tóm thâu về một mối bất cứ dưới hình thái nào trong một xã hội đa nguyên.
Mỗi tổ chức trên đây đều sinh hoạt như một giáo hội độc lập vì được pháp luật nơi cư trú cho phépbảo vệ; có quần chúng và có địa bàn hoạt động riêng; đồng thời, có toàn quyền hành xử và quyết định về cả 5 mặt cốt lõi cho một cơ sở giáo hội biệt lập: Nội quy, Tài chánh, Tổ chức, Kiến thiếtNghi lễ. Như vậy, vấn đề của chúng ta không phải là quay về quá khứ để hỏi “Tại sao?” mà phải hướng tới hiện tại và tương lai để giải quyết vấn đề “Làm thế nào?”

- Làm thế nào để trong một xã hội đa chủng, đa dạng như xã hội Âu Mỹ, Phật giáo Việt Nammột thế đứng chính đáng. Lỡ khi “tối lửa tắt đèn” như trường hợp bị tranh chấp, kỳ thị, phá hoại, ngược đãi, chống báng… từ trong nội bộ hay ra ngoài tầm can dự của pháp luật thì sẽ có chỗ dựa để giúp nhau tồn tại và phát triển.

- Làm thế nào để phát huy tiến trình Tu và Học trong cộng đồng Tăng chúng, Cư sĩPhật tử. Giới Tăng Ni cao niên, có bề dày công hạnh và trí lực đầy phong độ một thời, nay đang yếu dần về cả thân lẫn trí theo quy luật tự nhiên của vòng sinh, lão, bệnh tử. Thế hệ tu sĩPhật tử trẻ tuổi đang thiếu một chỗ dựa tinh thầntâm linh tinh túy trong tiến trình tu học. Đó là là định lực sâu dày của các bậc cao tăng thạc đức, công hạnh tôn túc của các bậc chân tu và thân giáo tròn đầy của những vị thầy khai thị. Hệ quả tất nhiên là khi thiếu vắng một nội lực để phát triển bề sâu, người muốn tu phải quay ra phát triển bề mặt. Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, tăng đoàn và các đạo sĩ thời danh ở Ấn Độ phủi bỏ bề mặt để tiến vào bề sâu. Đức Phậtthánh chúng đắc đạo dưới gốc cây, chứng ngộ dưới những bóng mát đơn sơ của thiên nhiên rừng núi vì chỉ có an trú trong từ bi, trí tuệthanh tịnh thì hành giả mới tìm lại được chính mình. Ngày nay, không ít những hành giả đang làm ngược lại vì bị thu hút và dính mắc vào những giá trị thô lậu của đời thường. Người ta đem hình tướng chùa to tượng lớn để thuyết phục nhau và đổ xô đi tìm Phật ở trong chùa; qua giấy mực, ngôn từảnh tượng. Vô hình chung, chân Phật đích thực ở trong tâm, trong tự tánh mỗi ngày một lu mờ vì bị vùi sâu dưới những lớp bụi hình tướng giả ảnh.

- Làm thế nào để nhiều “giáo hội” trên hình thức, hóa giải và kết hợp với nhau thành một tổ chức tương đối mang tính biểu tượng của Giáo Hội thực sự, có pháp lực và pháp uy, phù hợp với quan niệm hội đoàn hiện đại: Hòa hợp nhưng không bị hòa tan. Nghĩa là việc tham gia kết hợp của các tổ chức, đoàn thể vào “Hội Mẹ” là hoàn toàn xuất phát từ căn bản tự nguyện và tinh thần trách nhiệm. Mỗi “giáo hội” thành viên vẫn có quyền giữ danh xưng, vị thế và tình trạng pháp lý của tổ chức mình. Không một thế lực đơn phương nào có quyền giải tán, khống chế hay áp đặt tùy tiện mà không thông qua sự biểu quyết của một đại hội đồng giáo hội. Đây quả là một vấn đề khá phức tạp và “nhạy cảm” trong tương quan sinh hoạt của cộng đồng Phật giáo Việt Nam ở nước ngài hiện nay. Trước nhu cầu hóa giải xung đột về mặt cơ cấu và tổ chức, có thể tham khảo thêm hình thức “Liên Hội” theo mô thức Liên Hội Tin Lành Châu Mỹ (Coalition of Christian in America) do mục sư Pat Robertson khởi xướng vào thập niên 1980 tại Hoa Kỳ.

- Làm thế nào để giúp nhau thay đổi cách nhìn cũ và xây dựng một cách nhìn mới mang tính hóa giải, hòa đồng và đoàn kết thật sự: Đoàn kết không phải là theo tôi mà phải là cùng tôi. Đoàn kết không phải là nhất trí theo đuôi mà cần phải đa trí đồng tâm.

Trên bề mặt, tưởng như sinh hoạt Phật sự hài hòa với câu khẩu hiệu vàng son lấp lánh 9 chữ kim cương “Đạo Phật là đạo của Từ Bi Trí Tuệ”. Thế nhưng đạo Phật Việt Nam thật sự đang trải qua một cơn khủng hoảng. Sự khủng hoảng ngấm ngầm hay bộc phát, hiện nguyên hình hay tiềm ẩn nhưng đang biến nhiều nhân vật Phật giáo thành “Thiên thần đi trên nạng gỗ”. Đây là một ẩn dụ nói đến những người tôn giáo trong cơn khủng hoảng mà John Milton trong trường ca Thiên Đường Đã Mất gọi là “Thánh què đu trên cái nạng 3 chân”. Tuy Phật giáo chưa có ai “què” hẳn theo biểu tượng Milton vì chẳng có Thiên Đường nào để mất; nhưng đang bị dính mắc vào những đối tượng phi Phật giáo và đeo quá nặng hành lý phàm trần nên bước đi khập khiễng thì… hóa ra hơi nhiều:

Hiện tượng dính mắc vào quyền thế vay mượn: Sự dính mắc trực tiếp hay gián tiếp; hữu ý hay vô tình vào chính trị và kinh tế của các tu sĩ, cư sĩPhật tử là một hình thức quyền thế vay mượn vì lý tưởng của đạo Phậtbuông bỏ để cầu giải thoát chứ không phải níu kéo để sở đắc. Đã có không ít các nhân vật Phật giáo bị những thế lực lợi dụng niềm tin tôn giáo thiêng liêng, biến sức mạnh tâm linh thành một phương tiện sở đắc quyền lực phàm phu hay nhân danh tu sĩPhật tử để kinh doanh dưới nhiều nhãn hiệu và hình thức. Bản chất của chính trị là sách lược và đòn phép. Làm chính trị mà thiếu xảo thuật sẽ không khá hơn Thằng Mõ lớn tiếng rao tin làm cái loa cho thế lực cầm quyền sai vặt. Phật giáo ngày nay đang tự đánh mất vai trò cao đẹp là một chỗ dựa tinh thần, một sức mạnh tham vấn hộ quốc an dân cho giới cầm quyền như thời đại Lý Trần. Bản chất kinh tế thị trường thời nay là phải làm ra lợi nhuận bất chấp phương tiện. Làm kinh tế trong tôn giáo là biến những pháp tướng, pháp danh thành thành thương hiệu.

Hiện tượng dính mắc vào quyền lợi nhất thời: Sự dính mắc vào những giá trị phàm trần. Cụ thểtu sĩ bị cuốn hút vào sức mạnh vật chất đời thường như tiền bạc, tài sản, danh vị, hội đoàn, tiếng tăm, chùa to tượng lớn. Tinh túy của đạo Phậtlý tưởng giác ngộ, giải thoát. Hiện tượng ngã sở, ngã chấp, ngã mạn… đang quay cuồng theo chủ nghĩa thực dụng của thời đại mới. Nếp tu hành mà không bức phá ra khỏi vòng trói buộc phàm tục nầy thì con đường thanh tịnh thiền môn sẽ biến thành “đại lộ kinh hoàng của hoa sen trong biển lửa.”

Hiện tượng dính mắc vào quyền lực ảo tưởng: Sự dính mắc vào những định kiếncố chấp phi Phật giáo có vẻ như càng ngày càng khó hóa giải. Đã có hiện tượng “môi hở răng lạnh” trong nội bộ Phật giáo và “dậu đổ bìm leo” trong mối tương tác giữa Đạo và Đời. Sự mạo phạm qua những lời xúc xiểm tấn công nhau công khai giữa hai hay nhiều tổ chức Phật giáo trên môi trường truyền thông đại chúng hiện nay là biểu hiện tiêu cực nhất trong sinh hoạt cửa thiền xưa nay. Tư tưởng thì đã có Kinh luận, giềng mối thì đã có Giới luật, ấn chứng thì đã có Tam pháp ấn. Chỉ làm thân thêm động và tâm bớt hỷ xả khi còn “hạ thủ công phu” tấn công nhau qua các nhãn hiệu tự chế như: “Giáo gian, tiếm danh, tăng thượng mạn, ngã mạn, gian tăng, phàm tăng…”. Sẽ chẳng ích lợi gì khi dùng những lời tương tự như thế vì dán nhãn hiệu và chụp mũ nhau là dấu hiệu yếu đuối của tri thức, bế tắc về lý luậnnghèo nàn về nhân tâm. Nếu mục đích chỉ gây thêm phiền não cho nhau và càng ngày càng chia rẽ nhau hơn thì cửa chùa có hơn gì cửa ngục tù nghiệp báo.

Đang giữa mùa An Cư Kiết Hạ, người Phật tử xin đảnh lễ, khiêm cung dâng lên chư tôn thiền đức những tràng hoa như thế này để thay cho một lời thỉnh nguyện. Đồng thời, xin nhất tâm cầu nguyện hồng ân Tam Bảo tỏa chiếu năng lượng lành giúp Phật tửthân hữu ở mọi vị thế nhìn hoa mà suy gẫm. Thách thức của thời đại mới là đem Đạo vào Đời; không đem Đời vào Đạo. Đạo giữa phàm trần: Đạo và Đời sẽ nở hoa. Phàm trần giữa đạo: Đời và Đạo sẽ ủ mặt, phôi pha.

Sacramento, mùa An Cư Kiết Hạ 2011
Trần Kiêm Đoàn

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15578)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23030)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14051)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12977)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55109)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9170)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14443)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14204)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13884)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36321)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19884)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19224)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20289)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17638)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31534)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15940)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15021)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14681)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46175)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35937)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21049)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34383)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18947)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20193)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18369)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19843)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33415)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34480)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54520)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21135)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17881)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63650)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17390)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27442)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23035)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18893)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16325)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17923)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20937)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17368)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14472)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16865)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16373)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17475)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21982)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15102)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13506)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14366)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15396)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14986)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12699)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13350)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16237)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21650)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22729)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46185)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22455)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14585)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18906)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14738)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13838)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13656)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14576)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29013)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33318)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38386)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31235)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12529)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43421)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46665)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant