Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dâng hoa mùa an cư kiết hạ

07 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13952)
Dâng hoa mùa an cư kiết hạ

DÂNG HOA MÙA AN CƯ KIẾT HẠ
Trần Kiêm Đoàn

blankTrước những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại ngày một xuất hiện nhiều sản phẩm cứu người và giết người tân kỳ mới lạ, con người thường xuyên đứng trước những ngã ba đường của sự chọn lựa thiện ác, khen chê. Đồng thời, sự chuyển biến quá nhanh chóng và tinh vi trong hai lĩnh vực giao thông vận tải và truyền thông đại chúng đã làm cho thế giới thành một “Làng Địa Cầu”. Lạ thay, thực tế trái ngược với ước vọng thường tình, con người càng dễ tiếp cận với nhau chừng nào thì sự cảm thông càng giảm xuống mà xung đột lại càng tăng lên. Thông tin càng nhanh thì sự hiểu lầm càng phát sinh tương ứng. Phải chăng tốc độ vật lý không theo kịp tốc độ tâm lý của con người.

Sự phát triển và chuyển hóa của Đạo Phật Việt Nam cũng không thể nào bước ra ngoài hay vượt lên trên những va chạm xã hội hay dính mắc tư duy của trào lưu lý tínhtâm linh chung. Hơn thế nữa là hiện trạng lĩnh vực truyền thông đang phát triển còn nhanh hơn cả cấp số nhân. Nó đã tạo ra nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm hệ lụy. Lượng thông tin trên trang mạng internet đang ồ ạt chinh phục tâm thứctrí tuệ con người. Google, Yahoo, Firefox, Youtube, Twitter, Facebook… có nhiều “tín đồ” và cư dân trên mạng đông hơn cả tín đồ của Phật, Chúa, Mohamed cộng lại. Màn ảnh nhỏ vi tính đang chinh phục loài người bằng tốc độ của Superman và đôi mắt thấy xa nghìn dặm của Tề Thiên Đại Thánh. Lượng thông tin tung ra không kiểm chứng và không có trách nhiệm có khả năng càng ngày càng trở nên một đống rác khổng lồ; mặc dầu trong đó cũng lóng lánh vô số những hạt minh châu của thông tin và tư tưởng. Nhưng liệu bao nhiêu phần trăm dân cư trong thế giới mạng internet tìm đến những hạt minh châu mà không bị vấy bẩn bởi sự cuốn hút đầy thô bạo của rác rưởi?!

Nếu nói đạo Phật là đạo của trí tuệ thì đồng thời không thể quay mặt phủ nhận được một thực tếđạo Phật đang đứng trước những thách đố của nếp sống, thông tin và tư tưởng thời đại. Trước mọi hoàn cảnh nói chung, 3 khuynh hướng bảo thủ, cấp tiếntrung dung bao giờ cũng hiện ra lù lù để cản đường hay khai thông trước mọi thay đổi. Một tổ chức nghiên cứu tôn giáo hàng đầu thế giới, PEW, đã tìm thấy rằng, trong đời sống tâm linh tôn giáo nói chung, khuynh hướng bảo thủ (conservative) chiếm 83% trong giới tu sĩ và 72% trong giới tín đồ. Với đạo Phật Việt Nam, rất có thể con số nầy sẽ cao hơn vì ảnh hưởng của một bối cảnh văn hóa làng xã, gia trưởng và nền tảng kinh điển Hán Tạng còn quá nặng nề.

Tuy nhiên, sức mạnh chi phối của môi trường sinh sống, hoàn cảnh xã hộiđiều kiện kinh tế mới có sức mạnh quyết định trong thời hiện đại.

Hiện tượng cá nhân tu sĩ “ra chùa”, hiện tượng Phật sự càng ngày càng đa đoan về chuyện cúng dường, xây dựng, gây quỹ, xưng tụng chức danh… là một hậu quả không thể thay đổi ngược lại bởi tác dụng đầy vũ bãoquyết định của nếp sống cá nhân chủ nghĩa và kinh tế thị trường phương Tây vào sinh hoạt tôn giáo. Các khuynh hướng bảo thủ, trung dung, cấp tiến thảy đều bị cuốn phăng vào dòng cuồng lưu của tính thực dụng.

Nghĩ đến cơn lốc thời đại, kẻ đang viết những dòng nấy lắng lòng tưởng nhớ đây đang là thời điểm truyền thống thiêng liêng của đạo Phật Việt Nam: Đó là thời kỳ An Cư Kiết Hạ. Theo giới luật, chư Tăng Ni bất luận tuổi tác hay thứ bậc trong đạo, đểu phải quy tụ về chùa (từ 4 vị trở lên) để tu học điều tâm dưỡng trí trong 3 tháng Kiết Hạ. Năm nay, nhân mùa Hạ về hưu, người viết có dịp đi nhiều chùa ở California và miền Đông nước Mỹ. Được nghe, thấy và gặp gỡ với nhiều giới Phật tử để lắng lòng suy gẫm “những điều trông thấy”.
Nhìn tới nhìn lui, loanh quanh những thành phố đông người Việt ở Hoa Kỳ và Hải Ngoại, tôi bỗng cảm thấy bầu không khí trầm hươngkhông gian tĩnh lặng của chốn cửa thiền chỉ còn là một hoài niệm khói sương trong miền quá khứ.

Triều Dương có hai câu thơ thật xót xa:

“Từng cuối tháng cộng trừ con số nợ.
Thì đường xưa mây trắng cũng thôi bay!”

Nợ ngân hàng, nợ bảo hiểm, nợ thuế, nợ điện, nợ nước, nợ ga, nợ phone, nợ xe, nợ hương đèn hoa quả, nợ ăn, nợ uống, nợ lễ hội vãng lai… có Thầy, Cô nào làm chủ chùa mà không lo và có chùa nào tránh khỏi. Có chăng một xã hội thực dụng đã hạ thấp và giới hạn chân trời cao rộng của tâm linh sâu thẳm xuống ngang tầm với những con số hàng ngày nên “giải thoát” đồng nghĩa với “giải nợ”?!

Và, một câu hỏi nghiêm trọng được đặt ra là trong một xã hội thực dụng phương Tây, khi muốn giữ cho thiền môn thanh tịnhTăng Bảo trang nghiêm thì “cái gì cần phải được ưu tiên hóa trước nhất trong từng cặp phạm trù phủ định lẫn nhau – có cái nầy thì mất cái kia – như: Tín tâm hay tín dụng; tịnh tài hay tịnh hạnh; khất sĩ hay khất tài…?”
Được làm Đồng ấu Phật tử từ năm lên 7 tuổi ta, tôi có được gần 30 năm sinh hoạt Phật tửquê nhà và 30 năm sinh hoạt Phật tử ở quê người. Thời gian không hẳn là thước đo đáng tin cậy của những điều trải nghiệm có giá trị thực chứng, nhưng ít ra cũng ít viễn mơ hơn là đeo kính cận viễn thị vào thư viện để tìm hương vị của một ao sen thơm ngát từ bùn.
Hằng năm, sau lễ Phật Đản (60 năm trước là mồng tám tháng tư ta) thì tới mùa An Cư Kiết Hạ của hàng Phật tử xuất giachư tăng ni – theo truyền thống đạo Phật Bắc Tông như ở Trung QuốcViệt Nam. Đức Phật đã phát huy tinh hoa của tư tưởng chiêm nghiệm tự tại vốn có từ lâu đời trong nếp sống tâm linh Ấn Độ. Đó là khi hành giả tạm dừng chân để suy niệm và nhìn lại chính mình trong quá trình hành hóa tâm linh. Hành giả trong bất cứ tôn giáo nào đều phải tự độ mình trước mới có đủ năng lực độ tha giúp người.

Nếp sinh hoạt tâm linh truyền thống của Ấn Độ trong mùa An Cư (từ khoảng giữa tháng 6 đến tháng 9 âm lịch) không hẳn là vì lý do thời tiết hay vì lòng từ bi tế vật, sợ ra ngoài dẫm đạp lên côn trùng nhỏ bé trên đường theo khuynh hướng diễn giải qua Hán Tạng Đại thừa của Phật giáo Trung Hoa. Nguyên ủy sâu xa nhất vẫn là nhu cầu tịnh hóa – gạn đục khơi trong – dòng chảy của tư tưởngtâm linh. Tâm ý con người như những dòng sông trôi chảybiến động không ngừng nên rất dễ bị hoàn cảnh lôi kéo và khuấy đục. Mùa An CưẤn Độ và Á Đông chính là thời điểm sinh hóa phát tiết cao nhất trong năm. Thiên nhiên tạo vật tưng bừng sống dậy. Năng lực tự nhiên của con ngườivạn vật cũng theo đó mà nẩy nở vươn lên. Thái Hư Đại Sư nói về mùa Kiết Hạ rằng: “An Cư Kiết Hạmùa gặt quý như châu báu của hành giả tiến tu. Trong cái chung có cái riêng và trong cái riêng có cái chung. Tăng ni tập trung về một nơi an tịnh như am miếu, chùa chiền, tự viện hay một chốn thuận lợithích hợp để giúp nhau định tâm, khai ý kiểm nghiệm tiến trình trau giồi giới, định, tuệ; kịp thời cầu sám hối những sai phạm và phát huy năng lực hành trì. Nhưng quan trọng nhất là mỗi thiện giả có một không gian riêng trong tâm để sống đời đạo hạnh cho riêng mình. Hiểu được mình và chiến thắng chính mình là “chiến công” oanh liệt nhất. Phật đã dạy như vậy.”

Thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay đang làm ô nhiễm ngưỡng cửa truyền thống vào nội tâm: Chiến thắng người, vinh danh mình, miễn sao có lợi nhuận càng cao mới là… chiến công càng oanh liệt nhất! Tình trạng tha hóa – đánh mất chính mình vì mất chìa khóa nội tâm – đang trở thành một vấn nạn, một nan đề của nếp sinh hoạt trong xã hội mang nặng tính thực dụng hiện hữu.

Phần đông, những người theo đạo Phật thường bị ám ảnh bởi thời Mạt Pháp. Dẫu chẳng có một mốc thời gian rõ ràng quy ước như lên lịch, nhưng khái niệm “mạt pháp” thường được nói lên như một báo hiệu trước những ngã rẽ khó khăn để tránh một cận ảnh thoái trào của đạo Phật. Người ta tin rằng, thời Mạt Pháp, nhiều Chư ThiênBồ Tát xuống trần hóa độ chúng sinh. Bởi tùy duyênhóa độ nên thế gian có bao nhiêu điệu sống thì sẽ có bấy nhiêu hạnh Bồ Tát hóa thân. Trong đó, những Bồ Tát nghịch hạnh và thuận hạnh xuất hiện giữa đời thường ứng hợp với cảnh đời xuôi ngược gây ra cảnh vàng thau lẫn lộn. Tuy nhiên, định luật khách quan, tự nhiên và không để lọt một tơ hào của Nghiệp Lực chung cuộc lại rất rạch ròi và công bằng với tất cả mọi người ở dưới bất cứ danh vị và hình tướng nào.

Mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, tôi dành nhiều thời gian đến chùa lễ Phật, nhưng chưa được dâng hoa lên chư tôn đức và tăng ni đang “Vô Hạ” như một thời tuổi trẻ trên quê hương của tôi ở Huế. Thuở ấy, quý ôn Linh Mụ, Báo Quốc, Từ Đàm, Châu Lâm, Từ Hiếu, Tây Thiên, Trà Am, Viên Thông, Trúc Lâm, Diệu Đế… là những minh sư trong mùa Kiết Hạ. Các ngài đều đã ra đi. Còn chăng thế hệ kế thừa vẫn còn giữ những ngọn đèn thắp sáng.

Hoa Kỳ, cái xứ mà tôi sinh sống đã 30 năm, đang ở giữa mùa “vào Hạ” mà tôi lại có cảm tưởng như các chùa đang “ra Hạ”. Quý Thầy, chư Tăng Ni, phần đông, ai cũng có vẻ tất bật với “Phật sự đa đoan” trong mùa Hè. Đến viếng các chùa, đã một tháng rưỡi sau ngày Phật Đản, tôi chưa có duyên lành gặp được chùa nào đang có khóa an cư. Tôi tìm thấy bảng niêm yết các chương trình tu học thì ít mà các dự án gây quỹ, xây dựng, cúng dường thì lại quá nhiều. Khủng hoảng thừa hay khủng hoảng thiếu thảy đều là khủng hoảng. Khủng hoảng là một nguy cơ. Nhưng không sao, vì trong gian nguy đã có mầm cơ hội.

Vô thường không hẳn là bất thường vì đấy là lẽ bình thường của cuộc sống. Một dòng sống đầy biến độngbiến chuyển. Không ai có thể ngồi lại bên cầu để mong tắm lại lần nữa trên cùng một dòng sông thuở nọ. Hoàn cảnh thay đổi, sinh hoạt Phật giáo cũng phải biến chuyển là một nguyên lý khách quan và tất yếu. Nhưng nguyên lý tùy duyên, bất biến vẫn là xương sống trong suốt cuộc hành trình mấy nghìn năm của đạo Phật.

Khi không gặp được điều mình mong ước mà phải gặp quá nhiều điều mình chẳng ước mong thì chỉ còn vái giữa thinh không vắng lặngliên tưởng đến một đóa Vô Thường.

Hoa bình thường

Trở lại với khuôn khổ và bối cảnh sinh hoạt của đạo Phật Việt Nam, giới Phật tử có khuynh hướng trung dung hay ở cả hai cực lạc quan hay bi quan về hiện trạng và tương lai của đạo pháp đều có chung một mối quan tâm thiết thân rằng: Đạo Phật Việt Nam chưa theo kịp đà thay đổi của con ngườihoàn cảnh. Dẫu rằng, tôn giáo không thể là một dòng chảy mang tính chất phong trào thời thượng và bất luận lý thuyết tôn giáo nói về nguồn gốc của tôn giáo mình xuất phát từ đâu, nhưng thực tế thì tôn giáo vẫn là một sản phẩm của con người. Vì vậy, bản chất đích thực của tôn giáo không thể thoát ly ra ngoài xã hội con người. Ngay cả những tôn giáo chủ trương xuất ly thế gian thì hành giả vẫn cần thế gian để tồn tại. Trong lúc Phật giáo Việt Nam xiển dương tín lý Đại Thừa, khởi tâm Thiền Tịnh song tu. Thế nhưng những hiện tượng nhập nhằng đem Đạo vào Đời; đem Đời vào Đạo vẫn còn… lờ mờ nhân ảnh là do đâu?

Thực tế trong cũng như ngoài nước Việt Nam cho thấy rằng, thế hệ Chiến Tranh Việt Nam đang ra đi và thế hệ Hậu Chiến Tranh Việt Nam của tuổi trẻ đàn em đang vào đời. Thế hệ đàn anh đã trãi nghiệm một dòng đời thăng trầm đầy biến cố trong một giai đoạn lịch sử không thiếu tính hào hùng nhưng cũng lắm màn đổi trắng thay đen, ba chìm bảy nổi của đất nước và dân tộc. Đối diện với những hệ lụy của cuộc sống, con người có nhu cầu an nghỉ và khai sáng tâm linh. Đối diện với tuổi già và cái chết, con người càng tha thiết muốn “đầu tư” cho cuộc sống phục sinh hay luân hồi mai sau. Tôn giáo là một đáp án và cũng là nguồn đáp ứng sáng giá, vừa vặn nhất cho những nhu cầu tâm linhthân mạng trong dòng sinh diệt vô thường như thế. Đấy cũng là điều lý giải cho hiện tượng thế giới trí thức phương Tây đang tìm về đạo Phật ngày một đông. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước Việt, nhu cầu tu học đạo Phật ngày càng phổ biến và lan rộng trong đại chúng.

Trước hoàn cảnh xã hội đổi thay như chong chóng và sự phát tâm tu học của đại chúng ngày càng cao, đạo Phật Việt Nam nếu không có hướng chuyển biến thích hợp thì sẽ bị kéo theo đuôi của sự chuyển biến tự nhiên không thể nào dừng lại. Cổ xe Đại Thừa đáng lẽ phải do chư tôn cao tăng thạc đức cầm lái để chở đại chúng về bờ giác ngộ; nhưng nếu Tăng Bảo thiếu pháp lực và pháp uy, thì sẽ phát sinh đối lực ngược lại. Ngoại đạo sẽ dành tay lái thì cổ xe đã không tới được Bến Giác mà còn quay lại Bờ Mê! Ngoại đạo không phải là người ngoài đạo Phật mà chính ngay hàng Phật tử xuất giatại gia không an trú trong giới luật, đi ngược đường tu hay lệch hướng Chánh Đạo.

Ba ngôi Tam Bảo có thể hình dung Phật Bảo là ngọn núi Tu Di, vững chãi như một chân lý nhiệm mầu. Pháp Bảo là biển Ta Bà gồm đủ thánh phàm, hải sản trân châu, kình ngư ác điểu và luôn những bè nổi, ghe thuyền để chở chúng sinh về núi Tu Di. Tăng Bảo gồm những người biết chèo chống bè nổi và ghe thuyền trên biển Ta Bà, đóng vai thuyền trưởng để đưa chính mình và người tới bến bờ chân núi Tu Di.

Khi quần sinh mong cầu vượt biển càng đông, vai trò và tiềm năng của Tăng Bảo càng muôn vàn khó khăn phức tạp. Hiện tượng phổ biến nhất trong lịch sử Phật giáo từ xưa đến nay, trên mọi xứ sở và xã hội, là khi Tăng Bảo không còn hòa hợp gây cảnh thiền môn mất thanh tịnh, Tăng Bảo hết trang nghiêm thì đạo Phật trong xứ sở và xã hội đó sẽ bị thoái trào. Lịch sử đạo Phật toàn cầu và Việt Nam đã trải qua bao lần thăng trầm, hưng vong như thế. Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu. Chỉ có điều đáng tiếc là khi một thế hệ lâm vào cảnh nổi sóng xô bồ thì con người ở trong thời điểm đó bị thiệt thòi vì không có được lợi lạc tìm cầu Phật đạo hợp cảnh, đúng người để được khai thị và hóa độ.

Một nguyên tắc đã quá xưa cũ nhưng vẫn còn chí lý: “Khi không thay đổi được hướng gió thì phải điều chỉnh lại thế đứng của cánh buồm”.

Ngọn gió 4 phương đã đưa Phật giáo Việt Nam hôm nay thành một tập thể tăng nitín đồ “đa lưu chi”; nghĩa là nhiều nguồn, nhiều nhánh, nhiều bộ phái, tông môn. Nhìn theo khuynh hướng Bảo Thủ thì một tập thể đa dạng là một sự phân hóa và suy yếu về mặt tổ chức. Nhìn theo khuynh hướng Trung Đạo thì đó là sự phát triển tùy duyên. Nhìn theo khuynh hướng Cấp Tiến thì đây là một sự phát triển hợp với nhu cầu chuyên hóa và đa nguyên trong thời đại mới. Chỉ trên bề mặt nổi của báo chí truyền thông thôi thì Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại đã có hàng chục giáo hội. Những danh xưng đang xuất hiện luân lưu thường được nhắc đến là:

- Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên Thế giới
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu
- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Đan Mạch
- Tổng hội Phật giáo Việt Nam
- Giáo hội Tăng già Khất sĩ Thế giới
- Giáo hội Tăng già Du tăng Khất sĩ
- Giáo hội Tăng già Việt Nam
- Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại
- Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật giáo Thiền tông dòng Lâm TếPháp Nhãn
- Giáo hội Phật giáo Nhất tông đời Trần
- Giáo hội Tịnh Độ Tông Việt Nam
- Giáo hội Phật giáo Mật Tông Thế giới
- Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
- Giáo hội Phật giáo Cao Đài…

Nếu đi xa hơn nữa vào sinh hoạt địa phương và các tông phái của cộng đồng người Việt Hải ngoại, các tổ chức Phật giáo tự lậpsinh hoạt độc lập theo quy chế tự do lập hội của xã hội phương Tây thì con số “giáo hội” sẽ còn tăng gấp nhiều lần và đang trên đà phát triển. Đó là một thực tại không thể đảo ngược theo chiều hướng “vạn pháp quy nhất” về mặt cơ chế cấu trúc và phát triển. Cần có một cái nhìn thực tếxây dựng hơn là nuôi ảo vọng chinh phục và tóm thâu về một mối bất cứ dưới hình thái nào trong một xã hội đa nguyên.
Mỗi tổ chức trên đây đều sinh hoạt như một giáo hội độc lập vì được pháp luật nơi cư trú cho phépbảo vệ; có quần chúng và có địa bàn hoạt động riêng; đồng thời, có toàn quyền hành xử và quyết định về cả 5 mặt cốt lõi cho một cơ sở giáo hội biệt lập: Nội quy, Tài chánh, Tổ chức, Kiến thiếtNghi lễ. Như vậy, vấn đề của chúng ta không phải là quay về quá khứ để hỏi “Tại sao?” mà phải hướng tới hiện tại và tương lai để giải quyết vấn đề “Làm thế nào?”

- Làm thế nào để trong một xã hội đa chủng, đa dạng như xã hội Âu Mỹ, Phật giáo Việt Nammột thế đứng chính đáng. Lỡ khi “tối lửa tắt đèn” như trường hợp bị tranh chấp, kỳ thị, phá hoại, ngược đãi, chống báng… từ trong nội bộ hay ra ngoài tầm can dự của pháp luật thì sẽ có chỗ dựa để giúp nhau tồn tại và phát triển.

- Làm thế nào để phát huy tiến trình Tu và Học trong cộng đồng Tăng chúng, Cư sĩPhật tử. Giới Tăng Ni cao niên, có bề dày công hạnh và trí lực đầy phong độ một thời, nay đang yếu dần về cả thân lẫn trí theo quy luật tự nhiên của vòng sinh, lão, bệnh tử. Thế hệ tu sĩPhật tử trẻ tuổi đang thiếu một chỗ dựa tinh thầntâm linh tinh túy trong tiến trình tu học. Đó là là định lực sâu dày của các bậc cao tăng thạc đức, công hạnh tôn túc của các bậc chân tu và thân giáo tròn đầy của những vị thầy khai thị. Hệ quả tất nhiên là khi thiếu vắng một nội lực để phát triển bề sâu, người muốn tu phải quay ra phát triển bề mặt. Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, tăng đoàn và các đạo sĩ thời danh ở Ấn Độ phủi bỏ bề mặt để tiến vào bề sâu. Đức Phậtthánh chúng đắc đạo dưới gốc cây, chứng ngộ dưới những bóng mát đơn sơ của thiên nhiên rừng núi vì chỉ có an trú trong từ bi, trí tuệthanh tịnh thì hành giả mới tìm lại được chính mình. Ngày nay, không ít những hành giả đang làm ngược lại vì bị thu hút và dính mắc vào những giá trị thô lậu của đời thường. Người ta đem hình tướng chùa to tượng lớn để thuyết phục nhau và đổ xô đi tìm Phật ở trong chùa; qua giấy mực, ngôn từảnh tượng. Vô hình chung, chân Phật đích thực ở trong tâm, trong tự tánh mỗi ngày một lu mờ vì bị vùi sâu dưới những lớp bụi hình tướng giả ảnh.

- Làm thế nào để nhiều “giáo hội” trên hình thức, hóa giải và kết hợp với nhau thành một tổ chức tương đối mang tính biểu tượng của Giáo Hội thực sự, có pháp lực và pháp uy, phù hợp với quan niệm hội đoàn hiện đại: Hòa hợp nhưng không bị hòa tan. Nghĩa là việc tham gia kết hợp của các tổ chức, đoàn thể vào “Hội Mẹ” là hoàn toàn xuất phát từ căn bản tự nguyện và tinh thần trách nhiệm. Mỗi “giáo hội” thành viên vẫn có quyền giữ danh xưng, vị thế và tình trạng pháp lý của tổ chức mình. Không một thế lực đơn phương nào có quyền giải tán, khống chế hay áp đặt tùy tiện mà không thông qua sự biểu quyết của một đại hội đồng giáo hội. Đây quả là một vấn đề khá phức tạp và “nhạy cảm” trong tương quan sinh hoạt của cộng đồng Phật giáo Việt Nam ở nước ngài hiện nay. Trước nhu cầu hóa giải xung đột về mặt cơ cấu và tổ chức, có thể tham khảo thêm hình thức “Liên Hội” theo mô thức Liên Hội Tin Lành Châu Mỹ (Coalition of Christian in America) do mục sư Pat Robertson khởi xướng vào thập niên 1980 tại Hoa Kỳ.

- Làm thế nào để giúp nhau thay đổi cách nhìn cũ và xây dựng một cách nhìn mới mang tính hóa giải, hòa đồng và đoàn kết thật sự: Đoàn kết không phải là theo tôi mà phải là cùng tôi. Đoàn kết không phải là nhất trí theo đuôi mà cần phải đa trí đồng tâm.

Trên bề mặt, tưởng như sinh hoạt Phật sự hài hòa với câu khẩu hiệu vàng son lấp lánh 9 chữ kim cương “Đạo Phật là đạo của Từ Bi Trí Tuệ”. Thế nhưng đạo Phật Việt Nam thật sự đang trải qua một cơn khủng hoảng. Sự khủng hoảng ngấm ngầm hay bộc phát, hiện nguyên hình hay tiềm ẩn nhưng đang biến nhiều nhân vật Phật giáo thành “Thiên thần đi trên nạng gỗ”. Đây là một ẩn dụ nói đến những người tôn giáo trong cơn khủng hoảng mà John Milton trong trường ca Thiên Đường Đã Mất gọi là “Thánh què đu trên cái nạng 3 chân”. Tuy Phật giáo chưa có ai “què” hẳn theo biểu tượng Milton vì chẳng có Thiên Đường nào để mất; nhưng đang bị dính mắc vào những đối tượng phi Phật giáo và đeo quá nặng hành lý phàm trần nên bước đi khập khiễng thì… hóa ra hơi nhiều:

Hiện tượng dính mắc vào quyền thế vay mượn: Sự dính mắc trực tiếp hay gián tiếp; hữu ý hay vô tình vào chính trị và kinh tế của các tu sĩ, cư sĩPhật tử là một hình thức quyền thế vay mượn vì lý tưởng của đạo Phậtbuông bỏ để cầu giải thoát chứ không phải níu kéo để sở đắc. Đã có không ít các nhân vật Phật giáo bị những thế lực lợi dụng niềm tin tôn giáo thiêng liêng, biến sức mạnh tâm linh thành một phương tiện sở đắc quyền lực phàm phu hay nhân danh tu sĩPhật tử để kinh doanh dưới nhiều nhãn hiệu và hình thức. Bản chất của chính trị là sách lược và đòn phép. Làm chính trị mà thiếu xảo thuật sẽ không khá hơn Thằng Mõ lớn tiếng rao tin làm cái loa cho thế lực cầm quyền sai vặt. Phật giáo ngày nay đang tự đánh mất vai trò cao đẹp là một chỗ dựa tinh thần, một sức mạnh tham vấn hộ quốc an dân cho giới cầm quyền như thời đại Lý Trần. Bản chất kinh tế thị trường thời nay là phải làm ra lợi nhuận bất chấp phương tiện. Làm kinh tế trong tôn giáo là biến những pháp tướng, pháp danh thành thành thương hiệu.

Hiện tượng dính mắc vào quyền lợi nhất thời: Sự dính mắc vào những giá trị phàm trần. Cụ thểtu sĩ bị cuốn hút vào sức mạnh vật chất đời thường như tiền bạc, tài sản, danh vị, hội đoàn, tiếng tăm, chùa to tượng lớn. Tinh túy của đạo Phậtlý tưởng giác ngộ, giải thoát. Hiện tượng ngã sở, ngã chấp, ngã mạn… đang quay cuồng theo chủ nghĩa thực dụng của thời đại mới. Nếp tu hành mà không bức phá ra khỏi vòng trói buộc phàm tục nầy thì con đường thanh tịnh thiền môn sẽ biến thành “đại lộ kinh hoàng của hoa sen trong biển lửa.”

Hiện tượng dính mắc vào quyền lực ảo tưởng: Sự dính mắc vào những định kiếncố chấp phi Phật giáo có vẻ như càng ngày càng khó hóa giải. Đã có hiện tượng “môi hở răng lạnh” trong nội bộ Phật giáo và “dậu đổ bìm leo” trong mối tương tác giữa Đạo và Đời. Sự mạo phạm qua những lời xúc xiểm tấn công nhau công khai giữa hai hay nhiều tổ chức Phật giáo trên môi trường truyền thông đại chúng hiện nay là biểu hiện tiêu cực nhất trong sinh hoạt cửa thiền xưa nay. Tư tưởng thì đã có Kinh luận, giềng mối thì đã có Giới luật, ấn chứng thì đã có Tam pháp ấn. Chỉ làm thân thêm động và tâm bớt hỷ xả khi còn “hạ thủ công phu” tấn công nhau qua các nhãn hiệu tự chế như: “Giáo gian, tiếm danh, tăng thượng mạn, ngã mạn, gian tăng, phàm tăng…”. Sẽ chẳng ích lợi gì khi dùng những lời tương tự như thế vì dán nhãn hiệu và chụp mũ nhau là dấu hiệu yếu đuối của tri thức, bế tắc về lý luậnnghèo nàn về nhân tâm. Nếu mục đích chỉ gây thêm phiền não cho nhau và càng ngày càng chia rẽ nhau hơn thì cửa chùa có hơn gì cửa ngục tù nghiệp báo.

Đang giữa mùa An Cư Kiết Hạ, người Phật tử xin đảnh lễ, khiêm cung dâng lên chư tôn thiền đức những tràng hoa như thế này để thay cho một lời thỉnh nguyện. Đồng thời, xin nhất tâm cầu nguyện hồng ân Tam Bảo tỏa chiếu năng lượng lành giúp Phật tửthân hữu ở mọi vị thế nhìn hoa mà suy gẫm. Thách thức của thời đại mới là đem Đạo vào Đời; không đem Đời vào Đạo. Đạo giữa phàm trần: Đạo và Đời sẽ nở hoa. Phàm trần giữa đạo: Đời và Đạo sẽ ủ mặt, phôi pha.

Sacramento, mùa An Cư Kiết Hạ 2011
Trần Kiêm Đoàn

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14449)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14168)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39781)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15332)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13902)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37391)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40096)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12680)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14870)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13828)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42665)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37288)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11789)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22579)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12529)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12582)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13079)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13129)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17294)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33295)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14855)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11067)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12478)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11980)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11966)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13166)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51320)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12398)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6633)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30473)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13141)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13350)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30745)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19418)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12502)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11875)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14785)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13211)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13224)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30747)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12060)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11855)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12751)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31943)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29447)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11802)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11765)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10458)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11574)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9657)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9684)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10011)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35462)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10172)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10118)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10065)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9688)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27841)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15554)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9875)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13695)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9867)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9725)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18372)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12058)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9594)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9713)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8733)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8938)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8440)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11494)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31777)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12356)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8853)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9466)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11960)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9253)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9100)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9700)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29395)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9101)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9125)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33300)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8450)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31282)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37164)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32320)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9946)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27147)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8471)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19266)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13038)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant