Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo sư chân chính

12 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 17267)
Đạo sư chân chính

ĐẠO SƯ CHÂN CHÍNH
Việt dịch: Tuệ Tạng


tulku_urgyen_rinpoche_1TRƯỚC KHI BẮT ĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG giải thoátgiác ngộ, chúng ta cần gặp một vị đạochân chính đầy đủ phẩm chất. Để tìm thấy một người như vậy, đầu tiên ta cần hiểu các đặc điểm tiêu biểu của một con người như vậy. Khi chúng ta đến trường, chúng ta cần một người giáo viên tốt. Nếu giáo viên của bạn là một người hoàn toàn khờ dại chẳng có kĩ năng gì, liệu bạn có thể học gì từ họ? Tương tự như vậy, người thầy tâm linhchúng ta tìm kiếm là người mà chỉ dẫn chúng ta trên toàn bộ chặng đường đi đến giải thoáttrạng thái thấu suốt của giác ngộ. Điều đó không đúng hay sao?

“Giải thoát” ở đây nghĩa là tái sinh vào một cõi tịnh độ sau đời này. “Trạng thái thấu suốt của giác ngộ” là Phật quả hoàn hảo với mọi phẩm tánh hoàn thiệnhoàn toàn thoát khỏi bất cứ lỗi lầm nào. Chúng ta nên tìm một vị thầy mà chắc chắn có thể dẫn chúng ta đến trạng thái đó. Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát, hay còn gọi là pratimoksha, trong khi bên trong sở hữu sự rèn luyện của một vị Bồ Tát. Ở mức độ bí mật sâu xa, một vị thầy chân chính cần đạt đến một trạng thái định chân thực.

Một người mà sở hữu chỉ sở hữu các biệt giới thoát liên quan đến các thực hành Tiểu thừa, được gọi là “một người dẫn đường đức hạnh.” Nếu thêm vào đó, người này sở hữu sự rèn luyện Bồ Tát, họ được gọi là “một vị thầy tâm linh.” Nếu người đó giỏi về các thực hành Kim Cương thừa cùng với các giới nguyện và sự rèn luyện này, họ được gọi là dorje lobpon, hay một “vị Đạo sư Kim Cương.”

Một vị ĐạoKim Cương chân chính cần phải là người đã giải thoát khỏi dòng suối sinh tử tồn tại thông qua sự chứng ngộ, điều này có nghĩa là hiện thực hóa trạng thái xác thực của định. Hơn thế nữa, ngài cũng cần có thể giải thoát người khác thông qua lòng từ bi và sự yêu thương; đó là phẩm tánh cần thiết thứ hai.

Để minh họa cho một vài đặc điểm của một vị ĐạoKim Cương có đủ phẩm chất, tôi sẽ kể cho các bạn nghe về thầy của tôi. Đạo sư của tôi chính là bác tôi, ngài Samten Gyatso. Samten Gyatso là anh trai của bố tôi và là hóa thân thứ tư của Đức Ngawang Trinley. Ngawang Trinley đệ nhất là một trong ba anh em trai; hai người còn lại là Sonam Yeshe và Namgyal Tulku. Họ nổi tiếng là “ba trưởng tử như ý.” Trong các đời tiếp theo của mình, các hóa thân của Ngawang Trinley được biết đến dưới cùng một tên, Ngaktrin, phụ thuộc vào nơi mà ngài đản sinh; bởi vậy, Argey Ngaktrin, Tersey Ngaktrin và Tsangsar Ngaktrin. Hóa thân thứ tư đến từ dòng truyền thừa máu Tsangsar là bác của tôi. Tôi cảm thấy khá xấu hổ khi kể câu chuyện này bởi vì không có cách nào để tôi tránh tán dương con người này. Tôi thực sự không muốn nó trở thành như thể tôi đang gián tiếp tán dương bản thân bằng cách ca tụng một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, có một ví dụ khá bình phàm tôi có thể sử dụng để minh chứng điều này. Đạo sư của tôi rất xuất sắc, và tôi liên quan đến ngài, theo cách mà phân liên quan đến thức ăn ngon mà từ đầu nó vốn là. Hãy hiểu sự phân tích này. Tôi đang rất thành thật. Mặc dù tôi đang nói sự thật, có vẻ khá ngượng ngùng bởi vì tôi phải tán dương một ai đó trong dòng truyền thừa của tôi.

Hoàn cảnh của Samten Gyatso, toàn bộ gia đìnhdòng truyền thừa Pháp đều là Barom Kagyu. Dòng truyền thừa này khởi nguồn từ một vị đạo sư tên là Barom Dharma Wangchuk, một trong các vị đệ tử chính của Đức Gampopa. Thầy của ngài Gampopa là Milarepa. Thầy của Milarepa là đại dịch giả Marpa. Thầy của Marpa là Naropa. Thầy của Naropa là Tilopa. Thầy của Tilopa là Đức Kim Cương Trì. Đó là ngược lên dòng truyền thừa. Bây giờ, chúng ta đi xuống, Barom Dharma Wangchuk có một đệ tử tên Tishi Repa. Đến lượt Tishi Repa, ngài có đệ tử tên Sangwa Repa Karpo, người mà lại có đệ tử là Tsangsar Lumey Dorje, tổ tiên của gia đình chúng tôi. Đệ tử chính của ngài là Tsangsar Jangchub Shonnu, cháu trai của ngài.

Dòng truyền thừa Barom Kgayu truyền từ cha sang con trai qua mười thế hệ xuống đến Đức Tsangsar Lhatsun, người đã đạt đến thân cầu vồng. Những người đàn ông này là vua của vùng Nangchen. Thêm vào đó, các ngài có cả vị trí chính trị và tâm linh, được gọi là Tishi, Pakshi hay Gushi, được trao tặng bởi hoàng đế Trung Quốc. Khi vùng Nangchen bị chia đôi, gia đình tôi đã từ bỏ quyền nắm giữ ngai vàng và trở thành các vị ngakpa mang y trắng và quàng khăn. Dòng truyền thừa máu vẫn tiếp tục, nhưng các thành viên của gia đình không còn trị vì đất nước. Trong thời gian đó, được chúng tôi gọi là Đại Tây Tạng được chia thành nhiều vùng bao gồm Trung Tạng và các vương quốc miền đông là Derge và Nangchen. Sau khi Tsangsar Lhatsun chứng thân cầu vồng, bảy thế hệ tiếp theo cho đến tận cha tôi [đã chứng thân cầu vồng].

Tôi không đề cập tới điều này để khoe khoang về hoàn cảnh gia đình đặc biệt, mà để giải thích rằng giáo lýdòng truyền thừa gia đình là một. Như tôi đã đề cập từ trước, bác của tôi, đạo sư gốc của tôi, đến từ dòng truyền thừa gia đình Tsangsar. Mẹ của Samten Gyatso, bà Konchok Paldron, là con gái của terton Chokgyur Lingpa. Samten Gyato còn nắm giữ truyền thừa Chokling Tersar, Kho tàng Mới của Đức Chokgyur Lingpa.

Trong dòng truyền thừa Barom Kagyu, Samten Gyatso được coi là hóa thân của Đức Mahakala tứ thủ. Hóa thân thứ hai của Đức Chokgyur Lingpa đã có một linh kiến thanh tịnh về Samten Gyatso, trong đó ngài là một hóa thân của Vimalamitra. Bên ngoài, Đức Samten Gyatso giữ gìn các giới luật vô cùng thanh tịnhnghiêm khắc. Trong suốt cuộc đời, ngài chưa từng uống rượu hay ăn thịt. Bên trong, đúng theo sự rèn luyện Bồ Tát, ngài luôn giữ hạnh khiêm cung. Ngài chưa bao giờ ăn mặc đẹp; thay vào đó ngài khoác y của một tăng sĩ bình thường. Ngài chưa bao giờ mang các thứ đồ trang sức đặc biệt, như là gấm kim tuyến.

Mọi người nói rằng ngài có tri kiến hay sự chứng ngộ rất cao, nhưng ngài chẳng bao giờ nói về điều đó. Mặc dù một lần, ngài nói với tôi, “Thời trẻ, ta được giới thiệu đến bản chất của tâm. Kể từ đó đến nay, ta chưa bao giờ gặp phải vấn đề với việc duy trì tri kiến; sự thật là, dường như không có bất cứ khác biệt nào giữa ngày và đêm.” Cần phải lặp lại rằng, “một vị trì giữ Kim Cương sở hữu ba cấp độ giới nguyện” nắm giữ các giới nguyện bên ngoài, sự kỉ luật đạo đức của giải thoát cá nhân. Ngài cũng nắm giữ các giới nguyện bên trong, sự rèn luyện bồ tát, và các giới nguyện bí mật của Kim Cương thừa, được gọi là samaya. Ngài Samten Gyatso đã hoàn thiện cả ba điều này.

Đạo sư của ngài là Đức Karma Khenpo, Đức Rinchen Dargye, con trai của Chokgyur Lingpa, Tsewang Norbu và Đức Karmapa thứ 15, ngài Khakyab Dorje. Bên cạnh đó, ngài còn nhận giáo lý từ rất nhiều vị đạo sư khác. Sau đó, sự trao truyền Chokling Tersar mà phần lớn các vị đạo sư ngày nay nhận được đến từ Đức Samten Gyatso.

Ngài trao trọn vẹn sự trao truyền Chokling Tersar cho Đức Karmapa thứ 15, Đức Drukchen Rinpoche, trưởng dòng Drukpa Kagyu và Đức Taklung Tsetrul Rinpoche, ở trụ xứ của dòng Taklung Kagyu ở miền trung Tây Tạng. Samten Gyatso cũng được mời đến tu viện Tsechu ở Nangchen, tu viện vĩ đại nhất trong vùng. Ở đây, ngài ban sự trao truyền Chokling Tersar đến vua vùng Nangchen và như thế trở thành một trong các vị đạo sư của nhà vua.

Ngài Samten Gyatso cũng được mời đến tu viện Palpung, một trong các tu viện chính của vùng Derge, được lãnh đạo bởi Đức Situ Wangchok Gyalpo, người tiền nhiệm của Situ Rinpoche hiện tại. Ngài trao một phần của Chokling Tersar cho Đức Situ Wangchok Gyalpo và như thế được xem là một trong các vị đạo sư của Situ Rinpoche.

Dzongsar Khyentse, hóa thân của Đức Jamyang Khyentse Wangpo, đến khu ẩn cư trên đỉnh núi Randza Dzong-po của ngài Samten Gyatso. Ở đó, Dzongsar Khyentse thỉnh cầu sự trao truyền các phần của Chokling Tersar biên soạn bởi Đức Karmapa thứ 15, ngài Khakyab Dorje, những thứ mà ngài chưa nhận.

Người ta nói rằng sự tin tưởng vào Pháp ảnh hưởng đến kinh nghiệm của mọi người. Bởi vì sở hữu sự can đảm này, Đức Samten Gyatso chưa bao giờ sợ hãi một ai. Ngài luôn mặc những thứ đồ đơn giản bình thường. Ngài không bao giờ mặc theo một phong cách đặc biệt, dù ai đến gặp ngài hay ai mà ngài gặp, dù ngài gặp các vị đạo sư cao nhất của Tây Tạng. Mặc dù ngài chưa bao giờ mặc những thứ đồ bắt mắt, khi ngài vào một căn phòng, mọi người luôn tránh đường cho ngài. Thậm chí họ là những chức sắc quan trọng, mọi người hoàn toàn sợ ngài. Họ ngay lập tức tránh sang một bên để dọn đường cho ngài đi.

Thậm chí Đức Karmapa cũng khá sợ ngài Samten Gyatso. Ngài từng nói với một người đồng hành, “Ta thực sự sợ vị Lama đó. Ta không biết tại sao, nhưng ông ấy thực sự làm ta sợ.” Thậm chí tôi tự nói với mình rằng, “Tôi không cần phải sợ; xét cho cùng, ngài vẫn là chú của tôi!” Nhưng mỗi sáng khi tôi trước cửa phòng của ngài, tôi luôn do dựsuy nghĩ trước khi dám mở cửa. Không có điều gì cần phải sợ hãi, nhưng mọi người, trong đó có tôi, vẫn sợ Đức Samten Gyatso. Ngài sở hữu những phẩm tánh phi thường, một sự hiện diện đầy quyền uy.

Một trong các vị thầy của Samten Gyatso, Karmey Khenpo Rinchen Dargye, tái sinh làm con trai của em gái ngài Samten Gyatso. Ngài được gọi là Khentrul, có nghĩa là hóa thân của Karmey Khenpo. Vị hóa thân trẻ này từng nói với tôi, “Tại sao chúng ta phải sợ ngài: Samten Gyatso là bác của chúng ta.” Vị Khentrul trẻ tuổi khá dũng cảm và hùng hồn theo một cách đáng ngạc nhiên. Tuy thế, bất cứ khi nào ngài gặp Đức Samten Gyatso và nhìn thấy cái đầu trọc, Khentrul sẽ quên cái ngài sắp muốn nói. Ngài cúi xuống nhìn đăm đăm và bắt đầu run sợ.

Bởi vì ngài [Samten Gyatso] là đạo sư của nhà vua, ngài thường được mời vào cung điện, nơi ngài chủ trì nhiều buổi lễ tôn giáo khác nhau. Ngài sẽ ở trong cung điện cổ, trong khi nhà vua và gia đình ngự ở cung điện mới. Trong cung điện mới có phòng họp lớn được gọi là Phòng Vuông, nơi mà các vị thủ lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức ngồi với vẻ đầy kiêu mạn. Nhà vua, một người khá lập dị, không cho phép bất cứ chiếc ghế nguy nga nào trong phòng này – chỉ có chiếc ghế gỗ thô cứng. Dù vị bộ trưởng đặc biệt đến đâu, họ cũng phải ngồi trên một miếng gỗ trần. Tuy nhiên, họ ngồi ở đó trong những chiếc chuba thêu kim tuyến với tay áo dài. Khi họ kiêu mạn, họ vênh mặt và không thèm chú ý đến người thường.

Khi ngài Samten Gyatso đến thăm gia đình hoàng gia vào mỗi sáng, ngài đi qua căn phòng này. Ngài thường ho nhẹ trước khi vào. Khi các vị quan chức nghe thấy tiếng họ, họ đều cố gắng đứng dậy ngay lập tức. Đôi khi họ cố gắng đứng dựa vào vai người bên cạnh. Sau đó, bởi vì họ sử dụng hệ thống hỗ trợ, tất cả ngã nhào ra và tạo thành một đống hỗn độn. Tất cả hoàn toàn sợ Đức Samten Gyatso.

Tôi thường là một trong hai vị thị giả đi cùng ngài Samten Gyatso trong chuyến viếng thăm của ngài đến căn phòng của gia đình hoàng gia. Khi ngài vào phòng họ, hoàng hâu, hoàng tử và công chúa đều bỏ lại tất cả những việc họ đang làm và nhảy lên. Nhà vua từ lâu đã trao quyền cai trị cho hoàng tử và hiếm khi được trông thấy bởi vì ngài đã nhập thất thiền định.

Samten Gyatso không bao giờ bợ đỡ người khác bằng cách nịnh bợ hay nói rằng họ mới tuyệt làm sao. Ngài luôn nói rất thẳng thắn. Nếu điều gì đó đúng, ngài sẽ nói rằng nó đúng; nếu nó sai, ngài sẽ nói là sai – không thêm hay bớt điều gì. Ngài không bao giờ nói vòng vo về điều gì. Nếu ai đó bắt đầu nói với ngài liên quan trực tiếp đến các phẩm tánh đáng ngạc nhiên của ngài, ngài thậm chí chẳng cho họ bắt đầu. Ví dụ, nếu họ bắt đầu nói, “Rinpoche, ngài rất uyên bác …” hay “Ngài chắc hẳn đã rất chứng ngộ …” ngài lập tức sẽ quở trách họ. Ngài không bao giờ tha thứ cho điều đó.

Samten Gyatso đã trung thành với “phong cách yogi ẩn mật” vì thế ngài không bao giờ bộc lộ những thành tựu của mình với bất kì ai, và dứt khoát không cư xử như thể ngài là một người đặc biệt. Ngài không bao giờ gia trì cho ai bằng cách đặt tay lên đầu họ, ngài không cho phép người khác lễ lạy ngài và ngài không bao giờ ngồi ở một vị trí cao. Ngài dành phần lớn thời gian đầu của cuộc đời trong các hang động. Nếu ngài có bất cứ sức mạnh thấu hiểu hay đặc biệt nào, ngài cũng không cho ai biết. Ngài không xây chùa hay đắp tượng. Trong phần đầu tiên của cuộc đời, ngài luôn có bốn hay năm người viết thuê cùng với ngài. Ngài có trọn vẹn [terma] Chokling Tersar, khoảng 40 bộ, được sao chép. Trên thực tế, đây là điều duy nhất mà ngài thực sự dành những nỗ lực, có được toàn bộ giáo lý Chokling Tersar được ghi chép chính xác.

Vậy thì làm sao mà ngài được coi là một vị thầy Kim Cương? Nó đã xảy ra như sau. Đức Karmapa thứ 15 mong muốn nhận sự trao truyền Chokling Tersar từ con trai của Đức Chokgyur Lingpa, ngài Tsewang Norbu. Vào thời điểm đó, ngài Tsewang Norbu đã đến miền Trung Tây Tạng và ở tại Lhasa trong gia đình một thí chủ. Đức Khakyab Dorje mời ngài đến và ngài đồng ý. Không may thay, vị thí chủ quan trọng của ngài không muốn ngài đi, và gây nhiều khó khăn. Tsewang Norbu đã mất trước khi có cơ hội đến Tsurphu và trao truyền Chokling Tersar.

Sau đó ngài Karmapa mời cháu trai của Tsewang Norbu, ngài Tersey Tulku. Ngài là hóa thân của em trai ngài Tsewang Norbu, một người con khác của Đức Chokgyur Lingpa đã mất khi còn rất trẻ và cuối cùng tái sinh là con trai của người con gái ngài Chokgyur Lingpa, bà Konchok Paldron. Ngài là người trẻ nhất trong bốn người con trai, là chú của tôi và là em trai của Samten Gyatso. Tersey Tulku cực kì uyên bác và chú ý đến từng chi tiết. Ngài hoàn toàn đủ năng lực để trao truyền Chokling Tersar theo một cách vô cùng chính xác. Và sau đó ngài đến miền Trung Tây Tạng, Đức Karmapa gửi cho ngài lời nhắn, hãy đến Tsurphu.

Đức Karmapa gửi cho ngài Tersey Tulku một người phục vụ đáng tin cậy nhất, một vị tăng đến từ Golok tên là Jampal Tsultrim, để thỉnh cầu. Jampal Tsultrim sinh ra trong một dòng họ tốt và có nhiều phẩm tánh như vậy. Mặc dù là một người phục vụ cho Đức Karmapa, ngài thực sự là một vị đạo sư. Ngài là người viết thuê cho Đức Karmapa và là một vị tăng thanh tịnh. Ngài rất ấn tượng và là một vị đạotâm linh, bởi vậy Đức Karmapa giao cho ngài trọng trách này. Tuy nhiên, bởi vì ngài đến từ Golok, tâm tánh ngài khá thô ráp và cực kì tự tin vào bản thân. Khi ngài gặp Đức Tersey Tulku, ngài nói với tulku rằng, “Đức Karmapa yêu cầu ngài đến và ban giáo lý Chokling Tersar.” Giống như anh trai Samten Gyatso, Tersey Tulku là một vị yogi ẩn mật, bởi vậy ngài từ chối thẳng thừng, nói rằng, “Thật buồn cười! Làm sao một con chó có thể để móng lên đầu con người? Tại sao ngươi dám ra lệnh như vậy?” Gelong Jampal Tsultrim trả lời, “Tôi không yêu cầu ngài làm điều này; Đức Karmapa bảo tôi ra lệnh. Ngài muốn phá hỏng giới nguyện với ngài [Karmapa]?” Tersey Tulku nói, “Không, ngài là vị Bồ Tát ở địa thứ mười. Tôi chỉ như con chó. Tôi chẳng là gì hết. Làm sao tôi có thể là vị đạo sư của ngài, ban cho ngài các quán đảnh? Chẳng cần nghi ngờ gì hết – làm sao tôi có thể làm như vậy?” Sau đó họ tranh luận dữ dội và Gelong Jampal Tsultrim tát cho ngài một cái vào mặt và quát, “Đồ kém cỏi!” Sau đó ông ta đi mất. Ông ta trở về với Đức Karmapa và nói rằng, “Không thể là người đàn ông đó – thấp nhất của những kẻ thấp kém! Con đã tranh cãi với ông ta, và ông ta hoàn toàn từ chối đi.” Đức Karmapa không buồn vì điều này. Ngài chỉ nói rằng, “Ổn thôi. Chúng ta chờ xem. Có lẽ mọi việc cuối cùng sẽ ổn.”

Khakyab Dorje sau đó mời Đức Samten Gyatso đến Tsurphu, nhưng ngài không nói chính xác mục đích của chuyến viếng thăm. Một thời gian sau khi Samten Gyatso đến Tsurphu, ngài được mời đến phòng riêng của Đức Karmapa. Khi ngài đến đó, ngài được trao một ngai cùng với y áo thêu gấm, một vương miện và mọi thứ đồ tâm linh của một vị đạoKim Cương. Ngài được yêu cầu ngồi lên Pháp tòa. Ban đầu có rất nhiều sự phản đối, nhưng cuối cùng, Khakyab Dorje nói rằng, “Ta ra lệnh cho ông ngồi lên đó. Từ nay trở đi, ta đặt ông vào vị trí của một vị ĐạoKim Cương.”

Không chỉ có Đức Karmapa thúc ép vai trò một vị đạoKim Cương lên Đức Samten Gyatso; Tsewang Norbu cũng đã làm như vậy. Tsewang Norbu đã từng được mời đến Riwoche để ban quán đảnh Rinchen Terdzo. Bởi vì Đức Chokgyur Lingpa đã mất, họ muốn nhận được bộ giáo lý này tốt nhất, từ Đức Jamgol Kongtrul, nhưng ngài khá già và yếu. Kế đó, họ muốn ngài Khyentse, nhưng ngài cũng quá già. Và sau đó, cả Đức Khyentse và Đức Kongtrul đều quyết định gửi con trai của Chokgyur Lingpa, Tsewang Norbu, như đại diện của các ngài để trao truyền quán đảnh Rinchen Terdzo. Rất nhiều vị tulku đã có mặt ở đó, bao gồm cả hai hóa thân của Chokgyur Lingpa.

Mỗi buổi tối sau các buổi lễ, các vị tulku và đại Lama lại tập trung trong phòng riêng của Tsewang Norbu để thảo luận, hỏi và trả lời. Một đêm, họ đang tranh luận về tương lai của Chokling Tersar. Tsewang Norbu là một người đàn ông to lớn, với sự hiện diện đầy uy quyền và đôi mắt dữ. Ngài nhìn trừng trừng vào bọn họ. Sau đó ngài chỉ tay vào Samten Gyatso, người đang ngồi im lặng gần cửa ra vào, giữ hạnh khiêm cung. Tsewang Norbu nói rằng, hãy nhìn Tersey Tulku [Tersey nghĩa là con trai của vị terton], “Các ông nghĩ rằng các ông là hóa thân của con trai ngài Chokgyur Lingpa!” Nhìn hai vị tulku Chokling, ngài nói, “Hai người nghĩ mình là hóa thân của Chokgyur Lingpa. Cả ba người nghĩ mình rất đặc biệt! Nhưng các người không thể so sánh với người đó!” Chỉ tay về phía Samten Gyatso, ngài nói tiếp, “Ông ấy là người có ảnh hưởng hơn trong việc duy trì truyền thừa.” Samten Gyatso sợ hãi trước câu nói này. Mặc dù Tsewang Norbu là cậu của ngài, mọi người khá sợ ngài. Khi ngài tuyên bố như thế, nó như một sự tiên tri mà thực sự thấm vào.

Khi Tsewang Norbu rời miền Trung Tây Tạng nhiều năm sau đó, ngài dường như biết sẽ không bao giờ gặp lại Samten Gyatso nữa. Ngài làm lễ đăng ngôi cho Samten Gyatso một cách bí mật trong phòng riêng và trao cho ngài, chuông và chày Kim Cương, Tsewang Norbu nói rằng, “ Tôi giao phó cho ông dòng truyền thừa Chokling Tersar. Ông sẽ trao truyền nó trong tương lai.” Mặc dù Đức Samten Gyatso phản đối, ngài vẫn dành nhiều nỗ lực cho trách nhiệm này. Đó là lý do tại sao sau đó khi Đức Khakyab Dorje thỉnh cầu ngài đến Tsurphu, ngài nói rằng, “Ổn thôi” và đã ban các quán đảnh.

Khi Đức Samten Gyatso sắp ban cho Khakyab Dorje toàn bộ trao truyền Chokling Tersar, Khakyab Dorje không ở tại Tsurphu, mà ở trong khu nhập thất bên trên Tsurphu. Ngài lúc đó đã già. Cách đấy không lâu, ngài đã kết hôn và vị phối ngẫu của ngài tên là Khandro Chenmo, nghĩa là vị Dakini vĩ đại của Karmapa. Bà lúc đó mới chỉ 16 tuổi; Đức Karmapa mất ba năm sau đó khi bà 19. Tersey Tulku cũng có mặt lúc đó. Ngài không còn rụt rè với việc đi đến Tsurphu bởi vì anh trai ngài đã đồng ý ban quán đảnh. Các buổi tối, họ thường nói về Khakyab Dorje, đôi khi cho đến nửa đêm hay muộn hơn. Khakyab Dorje sau đó rời túp lều ẩn cư của Samten Gyatso và trở về phòng của mình. Một đêm, sau khi họ chia tay, ngài Khakyab Dorje chắp tay và nói với vị phối ngẫu, “Vào thời điểm này và trong thời đại này, có lẽ không có ai ngoài Samten Gyatso có được sự chứng ngộ tinh túy bí mật của Đại toàn thiện.” Đó là một cách tán dương mà ngài Karmapa đã giành cho Samten Gyatso. Vị phối ngẫu của ngài, Đức Dakini vĩ đại nói điều này với tôi sau đó.

Để thiết lập vài trò như một vị ĐạoKim Cương cũng là vấn đề. Trong trường hợp của Đức Samten Gyatso, ngài bị thúc ép đảm nhận vị trí đó bởi Đức Tsewang Norbu, đạo sư gốc của ngài, và bởi Khakyab Dorje. Ngài Samten Gyatso không bao giờ nói điều này với ai. Không lâu trước khi ngài thị tịch, tôi đã dành nhiều đêm trong phòng của ngài. Samten Gyatso nằm trên giường và tôi ngủ dưới chân ngài trên sàn nhà gần đó. Một đêm, chúng tôi đang nói chuyện, và Samten Gyatso bắt đầu kể lần đầu tiên về sự chứng ngộ bí mật của ngài. Ngài cũng kể các chi tiết mà tôi nói ở trên về mối liên hệ của ngài với Khakyab Dorje, Tsewang Norbu và nhiều người khác. Ngoại trừ khoảng thời gian này, ngài chưa bao giờ kể các thông tin cá nhân này cho bất kì ai.

“Từ thời điểm đó,” ngài nói với tôi, “ta rơi vào năng lực của một trong bốn Mara, ma quỷ của sự xao lãng được gọi là “trưởng tử cõi trời.” Trước đó, hoài bão của ta là ở trong một hang động và thực hành. Nhưng vì Đức Karmapa đã buộc ta làm điều này, giờ đây ta phải cư xử như một vị ĐạoKim Cương và ban các quán đảnh, trao truyền qua sự đọc, …” Đây là điều mà trước kia ngài chưa làm. Ngài luôn tránh nó hoàn toàn. Nhưng kể từ đó, ngài phải đảm trách vị trí đó. Khi nhìn trở lại, không có nghi ngờ gì ngài đã chịu trách nhiệm cho việc phổ biến các giáo lý Chokling Tersar.

Samten Gyatso nói rằng, “Ta rất hạnh phúc khi sống trong các hang động. Ta chẳng bao giờ có ý định hay mong ước trở thành một vị Lama. Lên tám tuổi, ta được giới thiệu đến bản tánh của tâm, và ta đã duy trì trong đó càng nhiều càng tốt cho đến ngày hôm nay.” Bởi vậy khi Đức Samten Gyatso già hơn, ngài thường nghĩ rằng, “Ta cần phải sống trong các hang động; thay vào đó, ta lại rơi vào vòng ảnh hưởng của những chướng ngại.” Nó không phải những lời nói suông khi ngài nói vậy; ngài thực sự đã cảm thấy thế. Ngài không có tham vọng trở thành một vị ĐạoKim Cương hay ngồi trên người khác. Ngài từng nói với tôi rằng, “Thành công thực sự được gọi là “những chướng ngại dễ chịu.” Trong khi các chướng ngại không dễ chịu dễ dàng được nhận ra, chướng ngại dễ chịu hiếm khi được công nhận là một chướng ngại.” Ví dụ, các chướng ngại không dễ chịu như là bị nói xấu hay dính vào các xì căng đan, bị ốm, gặp phải vận rủi và nhiều điều khác. Phần lớn các hành giả có thể đối phó với chúng. Họ nhận ra chúng là những chướng ngạisử dụng chúng như là con đường. Nhưng các chướng ngại dễ chịu, như là nổi tiếng, có nhiều đệ tử, và giả vờ hành xử vì lợi lạc của người khác thì dễ nhầm lần hơn. Người ta bắt đầu nghĩ rằng, “Tôi thật tốt! Tôi đang trở nên rất đặc biệt! Tôi đang làm lợi lạc cho nhiều chúng sinh. Mọi thứ rất hoàn hảo!” Họ chắc chắn không nhận ra mình đang trở thành con mồi của các chướng ngại dễ chịu, và đây là lý do tại sao chúng là chướng ngại chính yếu cho sự tiến bộ. Samten Gyatso cảnh báo rằng mọi người cần nhận ra những chướng ngại này. Họ thường chỉ nghĩa, “Khả năng làm lợi lạc cho người khác của tôi là vô hạn!” Tốt thôi, đó là điều mà người ta tự nói với mình khi không chú ý đến việc họ đã trở thành nạn nhân của các chướng ngại.

 

Trích dịch: Bức tranh cầu vồng, Tulku Urgyen Rinpoche.

Việt dịch: Tuệ Tạng.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13521)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14106)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10290)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10758)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11291)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11248)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11410)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10145)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9946)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10682)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11308)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42143)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10464)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11841)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9998)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10445)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10592)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45701)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32085)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10670)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11284)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10608)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13447)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12360)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11011)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10597)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12282)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11131)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11816)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29225)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9195)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10522)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10204)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10546)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10891)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10790)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32102)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17766)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11842)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12240)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10430)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11685)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10409)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10751)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28007)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10124)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10248)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10627)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10758)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11210)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10381)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10682)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11458)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18225)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10499)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12825)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11737)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29130)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28261)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13299)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22756)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13422)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11547)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13786)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26039)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22273)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14467)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12051)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11785)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11680)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11464)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33147)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31818)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12006)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39595)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11948)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14202)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13340)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14296)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12040)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10385)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11214)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13282)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34481)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12597)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12207)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13522)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12600)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12946)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16280)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11708)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28376)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13382)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant