Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

B. Ngài Nguyên Không (Pháp Nhiên) và Tư Tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 12402)
B. Ngài Nguyên Không (Pháp Nhiên) và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


IV. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA NHẬT BẢN

B.- Ngài Nguyên Không (Pháp Nhiên) và Tư Tưởng Tịnh Độ

Những người tu theo pháp môn niệm Phật, cầu sau khi lâm chung được vãng sanh Cực Lạc quốc; nên có nhiều vị Sư Trung Hoa chủ trương rằng:

Tín Phật

Niệm Phật

Có khả năng thành Phật


Đây là một mệnh đề giống như Tam Đoạn luận của Triết gia Socrates:

 

Tất cả mọi người đều phải chết

Tôi là người

Vậy tôi phải chết.

Tin Phật là điều kiện đầu tiên và cốt yếu nhất. Tin Phật cũng có nghĩa là tin vào tự lực của mình tin vào Phật; chứ không phải tin vào một ai khác. Kẻ nào đó ở bên ngoài mình, thì không phải là mình.

Khi tin xong chưa đủ. Vì niềm tin ấy bị đóng băng tại đó. Ta phải phát khởi niềm tin ấy bằng cách phải ngày đêm niệm Phật. Sở dĩ ta niệm Phật vì ta nhớ đến ân đức của Đức Phật A Di Đà mà ta niệm. Ngài, từ một thuở quá khứ xa xôi, đã vì chúng sanh mà phát ra 48 lời nguyện để tạo thành quốc độ thanh tịnh của Ngài và nơi ấy chính là chốn an lạc, tự tại để cho chúng sanh nương về.

Nếu dụng công một cách miên mật như vậy thì điều chắc chắn có thể xảy ra là sự thành Phật. Thành Phật chỉ là kết quả của sự dụng công miên mật của một hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ vậy.

Pháp môn nầy được truyền khắp Á Châu từ thời kỳ Chánh Pháp, đến thời kỳ Tượng Pháp và qua thời kỳ đầu của thời kỳ Mạt Pháp. Vào thế kỷ thứ 10 thứ 11 là một động cơ rất lớn và có lý do vững chắc để chư vị Tổ Sư lập ra Tông Phái của mình để chuyên tu. Ví dụ như ở Nhật Bảntrường hợp điển hình nhất.

“Ngài Nguyên Không (1133-1212) còn gọi là Pháp Nhiên Thượng Nhân, Hắc Cốc Thượng Nhân.

Ngài là vị Cao Tăng Nhật Bản và là Tổ thứ hai Tịnh Độ Tông Nhật Bản, người huyện Cương Sơn.

Năm lên 9 tuổi Sư xuất gia, 15 tuổi lên núi Tỷ Duệ thờ Ngài Hoàng ViênDuệ Không làm Thầy. Sư học tập giáo nghĩa Thiên Thai và đọc nhiều kinh điển; Sư xem tất cả các kinh tới 5 lần mà vẫn chưa thấy được con đường xuất ly, sau nhờ đọc được bộ Quán Kinh sớ của Đại Sư Thiện Đạokhai ngộ. Sư bèn dựa vào tác phẩm “Vãng Sanh yếu tập” của Ngài Nguyên Tínsáng lập ra Tông Tịnh Độ, chuyên tu pháp môn niệm Phật tại Cát Thủy thuộc Đông Sơn. Trên từ triều đình, công khanh, dưới đến các tầng lớp vũ sĩ, thứ dân… đều quy y Sư. Nơi đạo tràng, tiếng xưng danh Niệm Phật của Tăng tục không dứt; nhưng bị giáo đồ của phái bảo thủ gièm pha. Sau vì việc 2 cung nữ của Thượng Hoàng Hậu Điểu Vũ tên là Trùng Tùng và Linh Trùng xuất gia tu hànhđạo tràng Niệm Phật tại Lộc Cốc, đã dẫn đến việc tố cáo của Nam Đô Bắc Lãnh; nên cuối cùng đạo tràng niệm Phật của Sư bị đình chỉ, 2 vị Tăng bị xử trảm, còn Sư lúc đó đã 75 tuổi thì bị lưu đày đến Tam Kỳ. Cùng năm ấy Sư được cho phép vào ở chùa Thắng Vĩ tại Nhiếp Tân (Phủ Đại Phản) tạm trú 4 năm. Ở đây Sư tiếp tục hoằng dương Tịnh Độ, giáo hóa Tăng tục. Đến niên hiệu Kiến Lịch năm đầu (1211) Sư mới được phóng thích trở về Kinh Đô (Kyoto).

Năm sau, Sư tịch ở Đại Cốc, Đông Sơn, thọ 80 tuổi.

Sư để lại các tác phẩm: Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập; Hắc Cốc Thượng Nhân ngũ đăng lục, được thu vào Pháp Nhiên Thượng Nhân toàn tập”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3530).

(Xem Pháp Nhiên Thượng Nhân truyện ký; Bản triều Tổ Sư truyện ký hội tù; Nguyên Hanh thính thư quyển 5).

Ở đây có nhiều sự kiện tiêu biểu để được trình bày.

Sự kiện thứ nhất là sự truyền thừa của Tịnh Độ Tông tại Nhật Bản.

Theo Tịnh Độ Chơn Tông của Nhật Bản thì Ngài Thân Loan, đệ tử của Ngài Pháp Nhiên, lập Thầy mình làm Sơ Tổ của Tông nầy; nhưng theo lịch sử truyền thừa như chúng ta thấy, Ngài Pháp Nhiên không phải tự nhiên mà hiểu được Tịnh Độ; nếu không có quyển “Vãng Sanh Yếu Tập” của Ngài Nguyên Tín. Tuy Ngài Nguyên Tín sống cách xa Ngài Pháp Nhiên cả 200 năm về trước; nhưng qua dữ liệu nầy các sử gia cho rằng Ngài Nguyên Tín làm Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông và Ngài Pháp Nhiên Đệ Nhị Tổ và Ngài Thân Loan Đệ Tam Tổ. Thế nhưng ngày nay ở Nhật, Tịnh Độ Tông hay Tịnh Độ Chơn Tông khi được nhắc đến, người ta chỉ còn biết đến Ngài Pháp Nhiên với Ngài Thân Loan chứ không biết đến Ngài Nguyên Tín nữa; nhiều khi Ngài Thân Loanđệ tử của Ngài Pháp Nhiên; nhưng vì chủ trương mới hơn Thầy mình; nên nhiều khi tư tưởng và sự ảnh hưởng còn nhiều hơn Thầy mình nữa.

Như phần sử liệu truyền thừa của Trung Quốc bên trên, chúng ta thấy Ngài An Thế Cao mới là người đầu tiên mang Thiền học vào Trung Quốc vào năm 148; nhưng Trung Quốc vẫn không lập Ngài làm Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa, mà mãi cho đến năm 520 khi Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Ngài mới chính thức được người đời sau xưng là vị Sơ Tổ của Thiền. Có lẽ vì có sự truyền thừa liên tục. Còn Ngài An Thế Cao chỉ là người giới thiệu Thiền Học vào Trung Quốc thuở ấy mà thôi.

Sự kiện thứ hai là sắc đẹp và đường tà; tiếng tămlợi dưỡng.

Khi hai cung nữ Tùng Trùng và Linh Trùng của Thượng Hoàng Hậu Điểu Vũ bỏ chốn hoàng cung để theo Ngài xuất gia tu học. Vì thuở ấy danh tiếng Ngài Pháp Nhiên đã lẫy lừng, khiến nhiều người trên từ triều đình, công khanh, dưới đến bàng dân thiên hạ ai ai cũng quy kính, tin theo. Do vậy những phái Phật Giáo khác ở Nam Đô Bắc Lãnh không thích thấy cảnh nầy; nên đã dùng nữ sắc ấy để tố cáo Ngài Pháp Nhiên cũng như Đệ tử của Ngài. Có lẽ vì vậy mà sau khi Ngài và Ngài Thân Loan ở tù về, ở tuổi gần 80 rồi; Ngài thấy Phật Pháp khó bền lâu; cho nên Ngài đã cho phépđốc thúc Ngài Thân Loan chính thức lập gia đình. Có thể đây là một lý do thầm kín bên trong chăng?

Sự kiện thứ ba là tư tưởng của Ngài Pháp Nhiên qua “Một tờ văn khởi thảo”. Đây là những lời nói cuối cùng của Thượng Nhơn trước khi viên tịch. Ngài khuyên mọi người chỉ nhất tâm niệm Phật chứ không còn gì khác nữa và trên một tờ giấy quan trọng nầy, Ngài đã lăn dấu tay của Ngài vào đó để làm chứng tích. Năm ấy là năm Kiến Lịch thứ 2 (1212) lúc đó Ngài thọ thế 80 tuổi.

Năm nay và sang năm (2011-2012) tại Nhật Bản kỷ niệm 800 năm vị Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông viên tịch và 750 Ngài Thân Loan. Đây là sự kiện rất trọng đại của phái Tịnh Độ Chơn Tông nầy. Ở Nhật đa phần các chùa thờ Tổ khai sơn, khai Tông lớn hơn là thờ Phật. Vì họ nghĩ rằng: Phật ra đời tại Ấn Độ từ xa xôi rồi. Chỉ có các vị Tổ mới là những người truyền thừa tâm phúc cũng như lời dạy của Phật. Cho nên Tổ quan trọng hơn Phật. Đây có lẽ chỉ là quan niệm của người Nhật; chứ không nhất thiết là của tất cả các Phật Tử ở các quốc gia khác”.

“Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập gọi tắt là Tuyển trạch tập.

Tác phẩm nầy gồm một quyển, do Ngài Nguyên Không người Nhật Bản biên soạn, được thu vào Đại Chánh tạng tập 83. Sách nầy được soạn vào năm Kiến Cửu thứ 9 (1198) bằng Hán văn theo lời thỉnh cầu của Cư sĩ Quan Bạch Cửu Điều Kim Thực.

Nội dung sách nầy chia làm 16 chương, nói rõ ý chỉ nghiệp nhân vãng sanh, lấy niệm Phật làm gốc; đồng thời, trong mỗi chương đều có trích dẫn văn để giải thích. Nhưng việc chuyên tu niệm Phật được trình bày trong sách bị chê bai, cho nên sau khi Ngài Nguyên Không qua đời, sách nầy mới được ấn hành. Ngài Cao Biện có soạn Tồi tà luận - Cuốn sách vấn nạn nổi tiếng - để bác bỏ tác phẩm nầy, mặc dầu vậy nhưng nó vẫn là tông điển căn bản của Tịnh Độ Chân TôngNhật Bản, cho nên có nhiều loại bản in”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6579).

Nội dung của tác phẩm “Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập” nầy nói về lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Theo Ngài Pháp Nhiên thì cho rằng do tự lực niệm Phật mà được vãng sanh về Tịnh Độ; trong khi đó Ngài Thân Loan, đệ tử của Ngài Pháp Nhiên thì cho rằng: Việc niệm Phật được vãng sanh là do bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà; đó là tha lực chứ không thể là tự lực vãng sanh. Đây có thể là điểm chính yếu có sự sai khác giữa Thầy và trò. Do vậy sau khi Ngài Pháp Nhiên qua đời, sách nầy mới được ấn hành là vậy.

Tiếp đến là tác phẩm “Hắc Cốc Thượng Nhân Đăng Ngữ Lục”. Đây cũng là tư tưởng về Tịnh Độ của Ngài Pháp Nhiên gồm 18 quyển, do Sư Liễu Huệ Đạo Quang, người Nhật soạn.

“Sau khi Ngài Pháp Nhiên, Tổ khai sáng của Tông Tịnh Độ Nhật Bản, thị tịch được 62 năm, vào năm Văn Vĩnh 11 (1274), do trong môn phái phát sinh các kiến giải khác nhau; nên Sư Liễu Huệ Đạo Quang mới căn cứ theo các bài giảng và lời khai thị của Ngài Hắc Cốc Thượng Nhân (Pháp Nhiên) mà soạn thành sách nầy để chỉnh đốn lại môn phong.

Toàn bộ sách gồm Ngữ Đăng Lục 15 quyển và Thập Di 3 quyển; trong đó, chia làm 2 phần: chữ Hán và chữ Nhật.

- Phần chữ Hán gồm Hán ngữ đăng lục (17 chương) và Thập Di quyển thượng (3 chương).

- Phần chữ Nhật gồm Hòa ngữ đăng lục 5 quyển (24 chương) và Thập Di quyển trung, hạ (8 chương).

Phần chữ Nhật được khắc in vào niên hiệu Nguyên Hanh năm đầu (1321) là bản in Tịnh Độ giáo sớm nhất trong các bản khắc chữ Nhật, do đó rất nổi tiếng”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2079).

Thông thường sau khi Thầy mình tịch rồi thì đệ tử mỗi người mỗi ý hướng khác nhau. Đó là chưa kể những sự kiện đau lòng, vì Ngài Pháp Nhiên mới ở tù về cùng các đệ tử khác, trong đó có Ngài Thân Loan. Ngoài ra có 2 vị đệ tử còn bị xử trảm nữa. Quả là những sự kiện quá đau lòng.

Ngay như thời Phật còn tại thế, với uy đức của Ngài, Ngài đã quy tụ hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn, hằng trăm vạn người; trên từ Vua quan, dưới đến thứ dân; nhưng sau khi Ngài viên tịch có những vị Tỳ Kheo trẻ vui mừng. Vì không còn Phật; nên không cần phải giữ gìn những oai nghi, tế hạnh nữa. Khi Ngài Ca Diếp nghe được như vậy mới suy nghĩ phải có kỳ kết tập kinh điển gấp rút sau 100 ngày, do Vua A Xà Thế bảo trợ cho 500 vị A La Hán trùng tuyên lại những lời dạy của Đức Phật gồm cả 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Còn ở đây, Ngài Pháp Nhiên sau khi viên tịch không những chỉ có những sự kiện đau lòng đã xảy ra bên trên mà còn những sự kiện tiếp theo của Ngài Thân Loan lúc bấy giờ nữa. Nào là Ngài tự xưng là “Ngu ngốc Thân Loan” và lại có vợ, cả 5 người con nữa. Đây có lẽ là những sự lủng củng nội bộ cần phải chấn chỉnh. Do “Hắc Cốc Thượng Nhân Đăng Ngữ Lục” lúc bấy giờ là một chiếc phao duy nhất để duy trì Tông môn, nhất là với những ai còn muốn sống đời tịnh hạnh như Thầy của mình để thực hành pháp môn Tịnh Độ.

Tại Nhật Bản, sau khi Ngài Pháp Nhiên viên tịch (1212) thì Tông phái Tịnh Độ nầy đã được hướng dẫn bởi Ngài Thân Loan. Ngài Thân Loan đã dựa vào Thầy mình để lập ra một phái mới gọi là: Tịnh Độ Chơn Tông. Đây là một phái cải cách có từ thế kỷ thứ 13 tại Nhật; trong khi các nước Á Châu ở gần đó, cho đến thế kỷ thứ 20 vẫn chưa biết gì nhiều. Do vậy phần tiểu sử cũng như hành trạngtư tưởng của Ngài Thân Loan chúng ta sẽ có cơ hội khảo sát rõ ràng hơn ở phần sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15599)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23056)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14078)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13009)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55138)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9201)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14459)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14185)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14225)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13900)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36352)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19926)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18194)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19238)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19185)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20307)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17657)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31570)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15962)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15047)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14708)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46223)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35963)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21068)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21629)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23431)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34410)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19512)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18971)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22957)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20215)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18391)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19862)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19563)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33457)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34533)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54557)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37758)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21160)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17915)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63705)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17416)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49706)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27505)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20309)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23075)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18925)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16353)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17955)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20975)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17387)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14497)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16880)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16397)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16038)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17509)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21999)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15125)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13519)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14384)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15418)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15018)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12732)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13375)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27426)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12540)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13221)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14503)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16259)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12424)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15437)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12884)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12216)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13216)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21682)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11295)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22749)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15106)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14962)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46218)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22497)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14606)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12650)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18925)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14761)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43898)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57019)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13877)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47531)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13680)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14603)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29036)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33352)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38414)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15418)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31263)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12550)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40427)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43455)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46689)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant