Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Chương 1: Atiśa

12 Tháng Chín 201200:00(Xem: 18947)
09. Chương 1: Atiśa
Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 1
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Thượng)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎

Chương 1: Atiśa[1]

1. Chỉ ra sự vĩ đại của tác giả của giáo pháp này để xác lập rằng giáo pháp đó là nguồn chánh pháp {quyền năng}:

A. Tái sinh trong một dòng dõi quý tộc

B. Đạt được các phẩm hạnh cao quý.

1. Qua học hỏi nhiều kinh văn đạt được tri kiến trác tuyệt

2. Đạt phẩm hạnh thâm sâu về tri kiến chứng nghiệm từ việc thực hành đúng.

a. Ngài Atiśa thành tựu trong rèn luyện giới luật

1) Giữ gìn các thệ nguyện tối cao về việc giải thoát cá nhân[2]

2) Giữ gìn Bồ-tát giới[3]

3) Giữ gìn các thệ nguyện Kim Cương thừa

b. Ngài Atiśa thành tựu trong tu tập thiền định

1) Rèn luyện định lực theo kinh điểnmật điển thông thường

2) Rèn luyện các định lực siêu việt

c. Ngài Atiśa thành tựu trong rèn luyện trí huệ

1) Rèn luyện trí huệ thông thường

2) Rèn luyện Trí huệ siêu việt

C. Sau khi có được các phẩm hạnh cao quý, ngài Atiśa đã tiếp tục hoằng hóa

1. Hành trạng tại Ấn

2. Hành trạng tại Tây Tạng

 

––––\––––

 

1. Chỉ ra sự vĩ đại về giáo pháp của tác giả để xác lập rằng đó là nguồn chánh pháp {quyền năng}:

Những huấn thị này một cách tổng quát là từ Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Abhisamayâlakâra)[4] được soạn thảo bởi đức Di Lặc. Riêng, nội dung của luận này là từ tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận

(Bodhi-patha-pradipa)[5] của Atiśa; do đó, tác giả của Bồ-đề Đạo Đăng Luận cũng chính là tác giả của bản [luận] này[6].

Tên khác của Atiśa tuyệt vờiđại sư dîpaṅkaraúrîjñâna.

 

A. Tái sinh trong một dòng dõi quý tộc

Như đã được nhắc đến trong bài kệ Bát Thập Kệ Tụng (bsTod pa brgyad cu pa) viết bởi đại dịch giả Nag-tso (Nag-tsho)[7]

 

Ở Za-hor (nay là Bengal) thuộc phía đông Ấn độ,

Có một thành phố lớn là Vikramanipûra.

Đóng tại trung tâm thành phố là cung điện nguy nga

Của Hoàng gia với tên Kim Thắng Phướng

Với tài nguyên, sức mạnh và sự thịnh vượng

không thua kém vương triều của Trung Hoa ở phương đông.[8]

Vua của xứ này là Kalyanaśri

Và hoàng hậu Úriprabhâ

Có ba hoàng tử là Padmagarbha,

Candragarbha, và Śrigarbha.

Hoàng thái tử, Padmagarbha có năm hoàng thái phi và chín người con trai.

Con trai cả của ông, Puòyaúri,

Là một học giảđại thời bấy giờ

Thường được biết đến qua tên gọi Dhanaśri[9].

Người con út, Ṥrigarbha, tức là sư viryâcandra.

Người con giữa, Candragarbha là đạo sư[10] tức tôn sư [Atiśa].

 

B. Đạt được các phẩm hạnh cao quý.

Việc ngài đạt đến các phẩm hạnh cao quý được giải thích trong 2 phần:

  1. Bằng cách hiểu biết nhiều về các kinh văn, ngài đạt đến tri kiến sâu sắc về kinh điển.
  2. Qua việc tiến hành tu tập đúng đắn, ngài chứng nghiệm được các phẩm chất cao quý về tri kiến chứng nghiệm.

 

1. Bằng cách hiểu biết nhiều về các kinh văn, ngài đạt đến tri kiến trác tuyệt về kinh điển

Trong Bát Thập Kệ Tụng của Nag-tsho có viết: [11]

 

Vào tuổi hai mươi mốt,

Người đã tinh thông sáu mươi bốn bộ môn[12].

Tất cả các loại hình công nghệ,

Phạn ngữtoàn bộ triết học.

 

Như khẳng định ở đây, vào thời điểm hai mươi mốt tuổi, ngài đã trở thành một học giả trưởng thành sau việc rèn luyện trong các đề tài về kiến thức chung trong và ngoài Phật giáo, bốn loại kiến thức về văn phạm, lý luận, các kỹ năng, và y học.[13] [5] Đặc biệt hơn, Dro-lung-ba đệ nhất (Gro-lung-pa) kể rằng vào tuổi mười lăm, sau một lần nghe qua Chính Lý Nhất Đích Luận[14] của Nguyệt Xứng, Atiśa đã tranh luận với một học giả luận lý học phi Phật giáo nổi tiếng và đã đánh bại người này, bởi đó danh tiếng của ngài lan rộng khắp nơi.

Sau đó, ngài nhận điểm đạo trọn vẹn từ đạo sư Râhulagupta, vị tổ thiền quán của Hắc Sơn Tự[15], người đã mục quán được Hevajra[16] và nhận được lời tiên tri từ Vajraḍâkini[17]. Ngài đã được đặt pháp danh Mật thừa là Jñânaguhyavajra. Bằng sự rèn luyện trong suốt hai mươi chín năm trong Kim Cương Thừa với nhiều đạo sư, ngài đã đạt tới các thành tựu tinh thần và trở nên thiện xảo trong tất cả các mật điển và các giáo huấn. Khi ý tưởng “ta một mình thiện xảo trong Mật chú thừa”[18] nảy lên với ngài thì lòng tự hào đó đã bị khuất phục bởi các Không hành nữ[19] trong một giấc mơ khiến ngài thấy khối lượng lớn về lộ trình Mật chú mà ngài chưa bao giờ được biết trước đó.

Sau đó, các đạo sư và các giác thể[20] được ủy thác hoặc trực tiếp hoặc trong mơ thúc giục ngài xuất gia, bảo rằng làm thế sẽ mang lại ích to tát cho giáo pháp và cho chúng sinh. Theo lời khẩn hoản của họ, ngài đã xuất gia, nhận lễ thọ cụ túc giới[21] từ một trụ trì đã đạt mức chứng nghiệm được thực tại[22] qua thiền định đạt đến lộ trình chuẩn bị[23]. Vị Trụ trì này tên Śilarakṣita[24], là một trưởng lão của Đại chúng bộ[25] là một cột trụ lớn về kinh văn của luật tạng. Như phát biểu trong Bát Thập Kệ Tụng, trụ trì của ngài đã được mọi người biết đến như là người đã đạt tới lộ trình chuẩn bị” [26] Xa hơn nữa, Atiśa đã được đặt pháp danh là Śri Dipaṃkarajñâna[27].

Cho đến tuổi ba mươi mốt, Atiśa đã tu học qua tập hợp các kinh luận ở các trình độ cao và thấp trong nội dung triết lý truyền thống Phật giáo. Đặc biệt tại O-tan-ta-pῡ-ri[28], Ngài tu học ở đó trong mười hai năm với vị đạo sư là Dharmarakṣita[29] về Đại Tì-bà-sa Luận[30]. Qua việc thông tuệ các kinh luận của bốn truyền thừa[31], ngài phân biệt và không nhầm lẫn cho đến từng chi tiết nhỏ nhất giữa các trường phái này về các ứng xử nào nên được tiếp thu và nên tránh trong các giới luật như là những phương thức để bố thí và thọ thực. [6]

Do vậy, thông hiểu qua lượng giáo pháp nhiều tựa biển của truyền thống riêng và của các truyền thống khác, ngài đạt đến chính kiến về tất cả các mấu chốt của giáo pháp kinh điển.

 

2. Qua việc tiến hành tu tập đúng đắn, ngài chứng nghiệm được các phẩm chất cao quý về tri kiến chứng ngộ.

Một cách tổng quát có Tam Tạng kinh điển[32] quý báu bao gồm tất cả các giáo pháp của đức Tối Thắng[33]. Giống như là việc tất cả các giáo pháp của kinh điển được chứa trong Tam tạng thì tất cả các giáo pháp như khi được chứng nghiệm gọi là Pháp của giác ngộ được bao gồm trong Tam học[34] [đoạn này LD dịch từ Sopa trang 38 vì bản chính viết không rõ nghĩa]Với mối quan hệ như thế, các kinh văn và các chú giải của giáo pháp đề cao việc tu tập giới luật như là một cơ sở cho tất cả các phẩm chất tốt đẹp như là các tu tập trong định và tuệ. Do đó, ngay từ khởi đầu các thiện tri thức cần phải có những phẩm chất tốt của tri kiến đến được từ khung cảnh của việc rèn luyện giới luật.

 

a. Ngài Atiśa thành tựu rèn luyện giới luật[35]

Việc ngài Atiśa thành tựu rèn luyện giới luật được giải thích trong mối quan hệ đến 3 khía cạnh:

 

  1. Các thệ nguyện tối cao cho việc giải thoát cá nhân
  2. Giới nguyện Bồ-tát
  3. Giới nguyện Kim Cương thừa

 

1) Giữ gìn các thệ nguyện tối cao về giải thoát cá nhân

Trong Bát Thập Kệ Tụng, Nag-tso viết:[36]

 

Con cúi đầu trước trưởng lão trì giữ các giới luật,

Các tăng sĩ tối cao, thành tựu trong các hạnh nghiệp cao quý

Ngài, đã bước vào ngưỡng cửa Thanh Văn[37] thừa

Bảo tồn giới hạnh tựa bò-tót[38] giữ đuôi.

 

Bò-tót thật luyến chấp các sợi lông đuôi của nó đến nỗi lỡ khi một cọng lông vướng vào trong bụi cây, thì nó có thể bất chấp tính mạng nhằm bảo đảm không để mất cọng lông nào ngay cả khi nó có thể bị giết bởi người thợ săn. Cũng như thế, sau khi nhận đủ các hạnh nguyện tu sĩ, không phải chỉ với các giới điều trọng yếu mà dù chỉ với những chi tiết nhỏ, ngài đã dám liều thân để gìn giữ. Do đó, như có nêu trong Bát Thập Kệ Tụng, ngài là một trưởng lão trì giữ các giới luật.

 

2) Atiśa thành tựu trì giữ các giới nguyện Bồ-tát

Trong Bát Thập Kệ Tụng có nêu:[39]

 

Ngài, đã bước vào ngưỡng cửa Bát-nhã thừa

Phát triển một giải pháp toàn tâm thuần khiếtdựa trên tâm giác ngộ, ngài

không bỏ rơi các chúng sinh

Con cúi đầu trước ngài, đấng trí huệtừ bi.

 

Cho nên, điều đó nói lên rằng ngài đã tu tập nhiều giáo pháp để phát triển tâm thức của giác ngộ, có gốc rễ từ yêu thương và bi mẫn. Đặc biệt, nhờ vào ngài Ser-ling-pa (gSer-gling-pa) [40], ngài đã tu tập trong thời gian dài giáo pháp được chuyển xuống từ Bồ-tát Di lặc và Văn-thù-sư-lợi cho đến Vô TrướcTịch Thiên một cách tương ứng. [7]

Qua đó, như trong Bát Thập Kệ Tụng có nêu: [41]

 

Người gạt một bên quyền lợi riêng mình và nhận lấy

gánh nặng từ lợi ích của tha nhân[42] chính là đạo sư của con [Atiśa]

 

Khởi lên trong tim ngài là tâm thức của giác ngộ chắt chiu cho tha nhân hơn cho chính mình. Tâm nguyện đó trong ngài bao gồm tâm thức của giác ngộ {Bồ-đề tâm (tib. བྱང་ཀྱི་སེམས་)} đã phải được thực thi. Sau đó, ngài tu học các pháp nhằm theo đuổi các hứa nguyện của ngài để rèn luyện trong các đợt sóng vĩ đại của các nguyện ước Bồ-tát, và với những hành vi thiện đức đó, ngài không bao giờ vi phạm các giới luật của các con Phật[43].

 

3) Atiśa thành tựu trì giữ các giới nguyện Kim Cương thừa

Bát Thập Kệ Tụng có ghi:[44]

 

Đã bước qua ngưỡng của Kim cương thừa,

Ngài tự quán mình là một giác thể và đạt được Tâm Kim cương[45]

Thiền Vương, Avadhûtipa[46],

Con cúi đầu trước ngài người tiến hành các tu tập Mật.

 

Nag-tso biểu lộ một xưng tụng chung, gọi Atiśa là Du-già vương do ngài đạt được mức tập trung của giai đoạn tổng quát, trong đó ngài xem thân mình như là một giác thể, và sự thiền định của giai đoạn hoàn tất, theo đó ngài đạt tới trạng thái kim cương của tâm thức. Đặc biệt, trong khía cạnh về việc bảo đảm các thệ nguyện và không vi phạm các luật Mật thừa, thì Bát Thập Kệ Tụng có nêu[47]:

 

Vì ngài luôn toàn tâm và tỉnh thức,

Ngài không còn những ý tưởng vô hạnh

Tế nhịcảnh giác, không mánh khóe không đòi hỏi,

Ngài không nhiễm uế bởi những sai phạm.

 

Do vậy, Atiśa không chỉ dũng cảm trong việc hứa hẹn tu tập các giới luật của cả ba cấp độ[48] mà còn bảo trì các giới luật đó bằng cách giữ gìn các tuyên hứa và không vi phạm các giới hạn của các giới luật. Ngay cả với vi phạm nhỏ nhặt, ngài lập tức gột rửa sai sót đó bằng nghi thức thích hợp để phục hồi lời nguyện. Biết rằng bản tiểu sử này làm hoan hỷ các học giả hiểu biết về các điểm mấu chốt của kinh điển; nêu gương cho họ. [8]

 

b. Atiśa thành tựu tu tập thiền định

1) Rèn luyện định lực theo kinh điểnmật điển thông thường

Tâm thức ngài trở nên hoạt dụng trong thiền định

 

2) Rèn luyện các định lực siêu việt

Ngài đạt tới một sự an trụ cao trong giai đoạn tổng quát bởi do đã thực hành các công năng thâm diệu trong sáu hay ba năm[49]. Thời đó, sau khi nghe các bản nhạc mật điển được hát bởi các Không hành nữ tại Oḍḍiyâna, ngài ghi nhớ chúng.

 

c. Ngài Atiśa thành tựu trong rèn luyện trí huệ

1) Rèn luyện trí huệ thông thường

Ngài đạt đến một tuệ giác hợp nhất giữa thiền định và trí huệ

 

2) Rèn luyện trí huệ siêu việt

Ngài đạt tới một định lực đặc biệt của giai đoạn hoàn tất. Bát Thập Kệ Tụng viết:

 

Rõ ràng ngài thành tựu lộ trình chuẩn bị

Theo đúng với kinh điển mật chú thừa

 

c. Sau khi có được các phẩm hạnh cao quý, ngài Atiśa đã tiếp tục hoằng hóa

1. Hành trạng tại Ấn-độ

Trong cung điện về đại giác ngộ ở Bodh-gaya[50], ngài duy tôn Phật pháp ba lần bằng cách sử dụng các giáo pháp để đánh bại giáo lý của các triết gia ngoài Phật giáo. Với sự tôn trọng đến các giáo phái Phật giáo cao lẫn thấp, ngài đã thuyết giảng sâu hơn thông qua việc dọn sạch những sai lạc của vô minh, những tà kiến, và những nghi ngờ. Vậy nên các giáo phái không cùng hệ phái, xem ngài như là một bảo trang. Như trong Bát Thập Kệ Tụng:[51]

 

Trong thánh điện của toàn giác

Khi tất cả đã tụ họp về

Với giọng âm tựa sư tử hống

Ngài làm bối rối tâm trạng tất cả

Những ai bênh vực các tín điều thấp kém,

Của giáo phái mình và giáo phái khác

 

Cũng như là:[52]

 

Có tại Otantapûri

Hai trăm măm mươi tăng sĩ

Tại vikramaúîla

hiện diện gần đủ trăm

Cả bốn truyền thừa chính[53] đều tham dự

Ngài không chút kiêu hãnh trước các truyền thừa

Mà trở nên bảo trang của tất cả

Tứ chúng của cùng một bổn sư

Trong mọi lãnh vực

Thuộc vương quốc Magadha[54] [9]

Vì ngài truyền các giáo pháp chung

Của cả mười tám bộ phái[55] [và do đó là bất bộ phái]

Mọi người cùng tu học theo ngài.

 

2. Hành trạng tại Tây Tạng

Các hoàng thân đã xuất gia, chú và cháu[56], nối tiếp nhau gửi hai dịch giả đến Ấn độ là Gya-dzön-seng (brGya-brtson-seng)[57] và Nag-tso Tshul-trim-gyal-wa (Nag-tsho-tshul-khrims-rgyal-ba). Vì họ đã có những nỗ lực rất lớn để mời ngài nhiều lần, Atiśa đã đến Thượng Nga-ri (mNga’-ris) trong thời đại của chup-ö (byang-chub-‘od).

Được chào đón tại đó, những thí chủ đã cầu nguyện rằng ngài có thể tinh lọc Phật pháp. Dựa trên lời cầu này, ngài truyền giảng sâu hơn qua các hoạt động như là soạn thảo Bồ-đề Đạo Đăng Luận một tác phẩm kết nối các giai đoạn tu tập lại với nhau, cô đọng những điểm mấu chốt của kinh thừamật chú thừa. Hơn thế nữa, với ba năm tại Nga-ri, chín năm tại Nye-tang (sNye-thang), và năm năm tại những nơi khác trong Ü (dBus) và Tsang (gTsang), ngài dạy tất cả các giáo pháp của các kinh văn trong kinh thừamật chú thừa cho các đệ tửcơ duyên[58]. Kết quả là ngài đã tái lập hệ thống tu hành Phật giáo vốn đã bị suy thoái; ngài đã tiếp thêm sinh lực trở lại cho những truyền thống mà chỉ còn lại một cách lu mờ; và xóa bỏ sự sai lạc dựa trên những tà kiến. Do đó, ngài đã tạo ra những giáo lý quý giá không bị ô nhiễm.

Một cách tổng quát, các đại sư trứ danh Tịch HộLiên Hoa Sinh đã du nhập hệ thống tu hành phật giáo vào Xứ Tuyết [Tây Tạng] trong giai đoạn sơ khai của sự hoằng hóa giáo pháp[59]. Tuy nhiên, vị trụ trì Trung Hoa là Ha-sang (Hva-shang)[60] đã làm cho giáo pháp bị suy sụp. Ông ta đã không hiểu tính Không một cách đúng đắn và do đó đã phỉ báng yếu tố phương tiện và phủ nhận việc đem bất kì điều gì vào tâm thức, ngay cả các công hạnh. Đại sư Tịch Hộ, sau đó cũng đã bác bỏ Ha-sang, thiết lập chủ ý của Đấng Điều Ngự[61]; do đó, lòng tốt của ngài to tát nhất.

Trong việc hoằng hóa giáo pháp sau này tại Tây Tạng, một số người cho rằng những học giả và nhà du-già giả đã giải thích sai về ý nghĩa của các lớp mật điển. Vì thế, họ đã gây thiệt hại lớn cho việc bảo tồn giới luật, nguồn cội của các giáo pháp. Kẻ xuất chúng này [Atiśa] đã bác bỏ họ hoàn toàn. Hơn nữa, ngài đã làm cho các lỗi lầm của họ tiêu biến và sau đó đã hồi phục lại giáo pháp hoàn mỹ. [10] Bởi vậy, sự tử tế của ngài đã ảnh hưởng rộng đến tất cả người sống ở Xứ Tuyết.

Xa hơn nữa, tác giả của các luận giải về chủ ý của bậc Thánh giả phải nên có được 3 phẩm chất. Đó là, tác giả cần (1) thông thạo năm đề tài của tri thức[62]; (2) làm chủ được các giáo pháp mà đó là các điểm mấu chốt cho việc tu tập theo ý nghĩa của các đề tài về tri kiến Phật giáo đã được truyền giao trong một truyền thừa không đứt đoạn qua các truyền nhân xuất chúng từ đức Phật toàn hảo truyền xuống; và (3) được chuẩn y cho phép để soạn thảo luận giải đã trải qua sự thị kiến về một giác thể được chọn trước. Một người có bất kì phẩm chất nào trong ba điều kể trên có thể soạn thảo một luận giải, và trường hợp lý tưởng là có cả ba phẩm chất. Người đại sư này được phú cho cả ba phẩm chất như sau:

 

1. Về việc các giác thể được chọn của ngài hỗ trợ cho ngài, Bát Thập Kệ Tụng nêu[63]:

 

Vì có các thị kiến và nhận được chuẩn y

Từ Hevajra cao quý

Trisamayavyûharâja[64],

Quán Thế Âm dũng mãnh

Thánh giảtôn sư Târâ[65], và v.v...

Ngài luôn lắng nghe lời giáo huấn tuyệt luân

Của những tri kiến thâm diệu và hạnh nghiệp đại từ bi

Trong mơ hay trực tiếp.

 

2. Về các dòng truyền thừa của các vị đạo[66], có hai truyền thừa: tổng quát [cho cả Tiểu thừaĐại thừa] và riêng của Đại thừa. Trong dòng Đại thừa, lại chia làm hai: Bát-nhã thừa và Mật chú thừa. Trong Bát-nhã thừa có hai lần phân chiatruyền thừa về tri kiến thâm diệutruyền thừa về các hạnh nghiệp[67] – và trong dòng Phương tiện này tách xuống kể từ ngài Di-lặc và từ ngài Văn-thù-sư-lợi, tạo nên ba dòng truyền thừa trong Bát-nhã thừa. Xa hơn, riêng về Mật chú thừa, có năm hệ thống truyền thừa[68]. Thêm vào đó, còn có các dòng truyền thừa như dòng các giáo thuyết, dòng các hỷ lạc, và dòng của nhiều pháp môn. Atiśa đã được phú cho các giáo pháp từ rất nhiều dòng kể trên. Các đạo sư mà Atiśa nhận được giáo huấn trực tiếp, theo Nag-tso nêu ra là[69]:

 

Những guru mà ngài luôn tin nhận

Đã thành tựu những tri kiến tinh thần; nhiều vị là:

Úânti-pa và Ser-ling-ba

Bhadrabodhi, và Jñânaúri[70]

Và, biệt lệ, ngài thành tựu

Các giáo phâp tri kiến thâm diệu và hạnh nghiệp đại từ

Chuyển xuống qua nhiều thế hệ từ Long Thụ. [11]

 

Tiếng vang là ngài có mười hai đạo sư những người đã thành tựu các tri kiến tinh thần, và cũng có nhiều sư phụ khác.

 

3. Sự tinh thông về năm đề tài của tri thức đã được giải thích trước đây.

Do đó, đại sư này đã có thể xác định được chủ ý của Đấng Điều Ngự.

Đại sư này với những phẩm chất trên đã có số đệ tử đông không tưởng tượng nổi tại Kashmir, Oḍḍiyâna, Nepal và Tây Tạng. Nói về các đệ tử đứng đầu ở những nơi này, thì tại Ấn-độ, có bốn học giả Bi-do-ba (Bi-to-pa), Dharmâkarâmati, Mahyasinha, và Kṣitigarbha tất cả đều có tri kiến tương đương với ngài Trưởng Lão [Atiśa]. Một số người cũng bao gồm thêm Mitraguhya như là học giả thứ năm. Tại Nga-ri, có dịch giả Rin-chen-sang-bo (Rin-chen-bzang-po), dịch giả Nag-tso, và hoàng thân đã xuất gia Jang-chup-ö. Tại Tsang, có Gar-gay-wa (‘Gar-dge-ba) và Gö-kuk-ba-hlay-dzay (‘Gos-khug-pa-lhas-btas). Tại Hlo-drak (lHo-brag), có Chak-ba-tri-chok (Chag-pa-khri-mchog) và Gay-wa-gyong (dGe-ba-skyong). Tại Khams có Nal-jor-ba-chen-bo (rNal-‘byor-pa-chen-po), Gön-ba-wa (dGon-pa-ba), Shay-rap-dor-jay (Shes-rab-rdo-rje), và Chak-dar-dön-ba (Phyag-dar-ston-pa). Tại trung tâm Tây Tạng, có 3 vị, Ku-dön Dzön-dru-yung-drung (Khu-ston-brtson-‘grus-gyung-drung), Ngok Lek-bay-shay-rap (Ngog-legs-pa’i-shes-rab) và Drom-dön-ba Gyel-way-jung-nay (‘Brom-ston-pa-rgyal-ba’i-‘byung-gnas)[71].

Từ những vị này, người truyền nhân của dòng truyền thừa tiếp tục các hoằng hóa của chính đạo sư [Atiśa] là Drom-dön-ba Gyel-way-jung-nay – người đã được tiên tri bởi Târâ.

Đây là bài tóm lược về sự vĩ đại của tác giả. Chi tiết có thể tìm biết từ văn chương tiểu sử lớn[72].



[1]Có nơi dịch là A-Đề-sa hay Nhiên Đăng Cát Tường Trí (skt. Atiśa), một Đại sư người Đông Ấn (982-1054), đã đóng góp rất nhiều trong việc truyền Phật giáo sang Tây Tạng. Sư chuyên nghiên cứu các phương pháp phát triển Bồ-đề tâm (skt. bodhicitta). Là Tổ của dòng Ma-kiệt-đà (skt. magadha) và thuyết sư tại đại học Siêu Giới (skt. vikramaúîla), Sư được mời qua Tây Tạng và sống ở đó 12 năm cuối đời mình. Sư là người sáng lập trường phái Kadampa (Ca-đương) và có ảnh hưởng lớn đến phái Gelug (Cách Lỗ).

[2]Chữ Phạn là Prâtimokṣa hay tên phiên âm từ chữ Hán là Ba-la-đề Mộc-xoa (chn. 波 羅? 提 木 叉) còn gọi là biệt giải thoát giới là các giới luật ban đầu của hàng tăng sĩ Phật giáo – tức là các thệ nguyện hay là các nội quy cấm kỵ mà người tu hành không được vi phạm. Việc giữ gìn các giới luật được gọi là trì giới hay giữ giới.

[3]Hay còn gọi là các hạnh nguyện Bồ-tát.

[4]BA5 Đoạn văn này hàm ý về các kinh điển Ba-la-mật (prajna-paramita sutra), chi tiết hóa lộ trình để giác ngộ (Sopa tr. 22). 

[5]Bồ-đề Đạo Đăng Luận (skt. bodhipathapradîpa) là một tác phẩm quan trọng của Đại sư Atiśa (980-1054), người truyền Phật pháp sang Tây Tạng trong thời kỳ truyền pháp thứ hai. Tác phẩm này là nền tảng tu học của hầu hết các tông phái Phật giáo tại đây. Đại ý của tác phẩm này là việc chia ra thứ bậc trong việc tu hành Phật pháp do căn cơ không giống nhau.

[6]BA6 Vì nguồn chính văn của bản luận Lamrim ChenmoBồ-đề Đạo Đăng Luận, nên Tsongkhapa cho rằng bản luận này cũng là của Atiśa qua đó nêu bật sự vĩ đại của Atiśa. Steps on the Path to Enlightenment. Vol1. P22. Lhundub Sopa. Wisdom. 2004.

[7]BA7 Nag-tsho-lo-tsa-ba-tshul-khrims-rgyal-ba (1011 - ?) sinh tại vùng Gung-thang của nNga’-ris nay là Ladakh. Ông đã thành công trong việc thỉnh mời và tháp tùng Atiśa đến Tây Tạng và lưu lại đó nhiều năm làm thầy dạy. Tên đầy đủ của bài kệ xưng tụng này về Atiśa của Nag-tsho là Khams gsum chos kyi rgyal pod pal ldan mar me mdzad ye shes la bstod pa’i rab tu byed pa tshigs bcad brgyad cu pa. Bài tụng được tìm thấy trong Legs par bshad pa bka’ gdams rin po che’i gsung gi gces btus nor bu’i bang mdzod (bKa’ gdams bces btus) được dịch bởi Ye-shes-don-grub-bstan-pa’i-rgyal-mtsha, pp.30 -39. Một bản tiểu sử nhiều chi tiết hơn, Jo bo rje dpal ldan mar me mdzad ye shes kyi rnam thar rgyas pa (rNam thar rgyas pa) (bản tiểu sử chi tiết của Atiśa) phần lớn dựa vào Nag-tsho về Atiśa. Trích dẫn trên và trích dẫn sau đây lấy từ tác phẩm của Nag-tsho là bsTod pa brgyad cu pa đều thấy có trong rNam thar rgyas pa (Jo bo rje dpal ldan mar me mdzad ye shes kyi rnam thar rgyas pa), và khoảng gần mười câu kệ khác tiếp sau đó – có thể có một ngoại lệ. Các trích dẫn theo sau của Tsongkhapa từ các bài câu xưng tụng này sẽ được trích ra từ rNam thar rgyas pa. Các câu trích dẫn ở đây (với một ít khác biệt) là từ rNam thar rgyas pa: 48.8-12 và 49.9-16 nhưng là của Paṇḍita Kaṣitigarbha (Sa’i-snying-po), đệ tử đầu tiên của Atiśa. Đọc thêm chi tiết về rNam thar rgyas pa xem Eimer 1979, chi tiết về bsTod pa brgyad cu pa xem Blue annals (Roerich:242), và Eimer 1997: 142-146).

[8]Theo niên đại thì đây có thể là Vương triều hậu Đường – Tóngguâng (同光) (923-926).

[9]BA9 Ba-so-chos-kyi-rgyal-mtshan (mChan: 20.5) cho rằng đó là Dhanaśrimita

[10]Từ chữ guru (skt. गुरु – guru) dịch nghĩa là đạo sư, thuật ngữ từ tiếng Tây Tạng nghĩa là một người có được tri kiếntrí tuệ sâu sắc cũng như có đủ thẩm quyềnđủ khả năng để hướng dẫn người khác. Còn được dịch là thiện sư hay thiện xảo sư. Theo trang WEB Rigpa Shedra thì thuật ngữ này được xem là tương đương với thuật ngữ "lama" {lạt-ma} (tib. བླ་མ་རྣམ་པ་བཞི་, lama nampa shyi): Trong Phật giáo Tây Tạng thì người ta chia làm 4 loại guru: (1) Truyền nhân (tib. གང་ཟག་བརྒྱུད་པའི་བླ་མ་, gangzak gyüpé lama) nắm giữ truyền thừa, (2) Phật ngôn sư (tib. རྒྱལ་བ་བཀའ་ཡི་བླ་མ་, gyalwa ka yi lama) là người thầy đại diện cho ngôn từ của đức Phật, (3) Tôn sư {bổn sư} (tib. སྣང་བ་བརྡ་ཡི་བླ་མ་, nangwa da yi lama) là một vị sư phụ biểu tượng cho mọi trình hiện, (4) Chân sư (tib. རིག་པ་དོན་གྱི་བླ་མ་, rigpa dön gyi lama) là vị đạotuyệt đối, là bản chất thật của tâm.

 Guru. Rigpa Shedra. Truy cập: 12/02/2012.

 <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Guru>.

[11]BA10 rNam thar rgyas pa: 51.2-51.5.

[12]BA11 Sgyu rtsal. A-kyayongs’-dzin (A-kya: 89.1-2) có cho giải thích chi tiết về 64 môn công nghệ mà ông cho rằng đến từ bộ luận Mahâvihâbṣa (Thuyết nhất thiết hữu bộ đại luận hay Tì-bà-sa đại luận), một yếu giải về Vi Diệu Pháp của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ. Những bộ môn này cũng có liệt kê trong Bod rgya tshig mdzod chjen mo (Từ điển Tạng –Hoa) (Nhà xuất bản Nhân Dân 1984). Bao gồm 30 kỹ năng (bzo), như văn chương, thiên văn, võ nghệ, nài và huấn luyện các loại thú, và các môn thể thao; 18 kỹ năng thuộc về âm nhạc (rol mo’i bye brag) chủ yếu là các loại nhạc cụ khác nhau cùng như là giọng hát và các điệu đi kèm với tay chân; 7 loại cất giọng (glu dbyangs kyi nges pa), là các âm thanh giống các loài chim hay thú khác nhau để diễn bày các cảm xúc khác nhau; và 9 kỹ năng là các trạng thái cảm xúc múa (gar gyui cha byad) diễn bày các ý tưởng cung cách khác nhau của thân (mãnh liệt, hùng dũng), khẩu, và ý (từ bi, an hòa). Ganguly (1962) có mô tả những điều này từ quan điểm của truyền thống Ấn.

[13]BA12 rNam thar rgyas pa:34-35 có cho chi tiết về những gì mà Atiśa đã tu học.

[14]skt. Nyâyabindu-prakaraa đây là một trong loạt 7 tác phẩm làm nền tảng cho luận lý học Phật giáo của ngài Pháp Xứng (~ 600-650) Các tác phẩm đó là Quan Tướng Thuộc Luận (skt. sabandhaparîkâprakaraa), Lượng Quyết Định Luận (skt. pramâaviniścaya) Lượng Thích Luận (skt. pramâavarttika-kârikâ), Chính Lý Nhất Đích Luận (skt. nyâyabindu-prakaraa), Nhân Luận Nhất Đích Luận (skt. hetubindu-nâma-prakaraa), Luận Nghị Chính Lý Luận (skt. vâdanyâya-nâma-prakaraa), Thành Tha Tướng Thuộc Luận (skt. satânântarasiddhi-nâma-prakaraa). Pháp Xứng là một trong những luận sư quan trọng của Phật giáo truyền thừa Nâlandâ. Ngài có nhiều đóng góp trong Duy thức họcNhân minh học (túc là khoa học về lập luận).

[15]BA13 Tức là vùng Kṛṣṇagiri hay Kâlaúilâ (Chattopadhyaya 1981:73). nhưng Kâlaúilâ có nhiều khả năng hơn, theo quan điểm của Hội Đồng Phật giới luật Phật giáo (Buddhist Council Law) và cũng được dẫn bởi Roerich (1979:242) rằng nơi này là một trong 7 ngọn đồi nổi tiếng gần Râjagṛha. [LĐ tìm thấy nhận định trong trang 73 của sách “Atisa and Tibet” 1999. Motilal Banarsidass ISBN:8120809289 của Alaka Chattopadhyaya, Lama Chimpa lại ghi rằng “ The Black Mountain or Kṛṣṇagiri (Ri-nag-po) is considered by R.C. Majumdar to be the same as modern Kanheri in the Bombay Precidency But without any sound evidence, B.C. Law, on the other hand, identifies it with Kâlaúilâ one of the famous seven hills near Râjagṛha -- Do đó, để tránh trình trạng thiếu chính xác LĐ ghi gọn lại chú thích này!]

[16]Hevajra còn được mang tên là Hô Kim Cương, một giác thể (thánh bổn tôn) chính trong Mật tông. Vị đối ngẫu của Hevajra là Nairâtmyâ.

[17]Ba-so-chos-kyi-rgyal-mtshan (mChan: 20.5) cho rằng đó là Dhanaśrimita.

[18]BA14 Mật chú thừa (gsang sngags kyi theg pa), hay Kim Cương thừa (rdo rje theg pa) là pháp tu hành được giảng dạy trong các kinh văn Mật tông, các Mật điển, và các lớp Mật điển (rgyud sde).

[19]BA15 về Thub pa'i dgongs gsal, Xem Geshe Wangyal and B. Cutillo, Illuminations (Novato, 1988)

[20]Từ chữ “deity”.

 Trong trường hợp được sử dụng thông thường thì thuật ngữ này chỉ đến các thần linh, các vị thuộc cõi trời, hay các biểu tượng siêu việt và sẽ được dịch là phạm thiên, chư thiên, thần thể, trời, hay thần linh tùy ngữ cảnh hay dòng văn.

 Trong ngữ cảnh tu tập thiền Phật giáo, có một sự gần gũi giữa khái niệm này và khái niệm Yidam được dùng rộng rãi trong Anh ngữ. Theo giải thích của ngài Sogyal Rinpoche về thuật ngữ này thì: “Trong Mật thừa, nguyên lý về các giác thể là phương cách của giao cảm. Thật khó khăn để liên hệ sự biểu thị của các năng lực giác ngộ nếu chúng [các giác thể] không có sắc tướng hay nền tảng cho việc giao cảm cá nhân. Các giác thể được hiểu như là các biểu tượng, vốn được nhân cách hóa và thu bắt các phẩm chất và năng lực vô hạn của tâm trí huệ của các vị phật. … Qua tu tập việc tạo ra và thẩm thấu vào các giác thể trong thực hành quán tưởng, hành giả ngộ ra rằng tâm chức vốn nhận thức giác thể và chính giác thể đó không tách biệt”. Như trong nhiều giáo pháp mô tả về đối tượng thiền cũng như trong các maṇḍala {đàn tràng} thì giác thể có thể mang hình thức của các sự vật (không phải người) như hoa sen hay các âm tiết Phạn ngữ, xa hơn trong nhiều trường hợp liên quan đến tu tập thiền và maṇḍala giác thể có thể là một biểu tượng về sự hợp nhất của hai đặc tính giác ngộ dưới dạng kết hợp trong dạng hai người hay dạng hai chúng sinh đối ngẫu. Một số tài liệu đã dịch từ này trùng nghĩa với thuật ngữ Yidam là bổn tôn hay hộ phật với ý tưởng các giác thể đó mang sắc tướng một con người hay chúng sinh đã giác ngộ (nghĩa hẹp); tuy nhiên, ở đây chúng tôi dùng thuật ngữ giác thể trong ý nghĩa tổng quát như vừa nêu trên.

 Về khái niệm “yidam” (iṣṭadevatâ) hay thần thể, bổn tôn hay bổn sư: Cũng theo Sogyal Rinpoche thì: “Các hành giả Phật giáo Tây Tạng sẽ có một bổn tôn, đó là, một pháp tu tập về một vị phật hay một vị giác thể cụ thể mà với vị bổn tôn đó họ có một mối liên hệ về nghiệp mạnh mẽ, vốn đối với họ là hiện thân của chân lý [giác ngộ], và họ mời gọi bổn tôn như là trọng tâm của tu tập. Vì sự tu tập của họ đã công nhận bổn tôn như là sự phát tỏa hào quang của tâm thức giác ngộ, nên họ có thể thấy các trình hiện cùng với sự công nhận này và khiến họ khởi sinh hình ảnh bổn tôn như là một giác thể”.

 Như vậy, trong sách này, chúng tôi sẽ tùy theo ngữ cảnh để dùng thuật ngữ bổn tôn, giác thể, hay thần thể cho phù hợp. Nói chung giác thể trong một nghĩa hẹp chính là bổn tôn.

 The Tibetan Book of Living and Dying. P 289. Sogyal Rinpoche. HarperOne. 1994.

[21]Tức là lễ tấn phong để trở thành một tăng sĩ chính thức (sa-di).

[22]Ngụ ý vị thầy của Atiśa đã thực chứng được tính Không. Steps on the Path to Enlightenment. Vol1 p24. Lhundub Sopa. Wisdom. 2004.

[23]BA16 Có 5 giai đoạn tu tập từ lúc bất đầu tu tập thiền định cho đến giác ngộ được gọi là 5 lộ trình: (1) Lộ trình Tích lũyđạt được chánh định mạnh mẽ và làm việc hướng tới một trạng thái giác ngộ tính Không khởi lên từ thiền định. (2) Lộ trình Chuẩn bị – quen thuộc với trạng thái giác ngộ tính Không, cùng với việc nuôi dưỡng động lực từ bi, nhận thức được sự trình hiện của tính Không ngày càng rõ ràng hơn. (3) Lộ trình Tri kiếntính Không được liễu ngộ trực tiếp, mà không có các ô nhiễm vi tế từ sự trình hiện nhị nguyên. Ở thời điểm này trong Đại thừa, bắt đầu giai đoạn thực hành Bồ-tát đạo. (4) Lộ trình Thiền định – lộ trình thiền định này là một lộ trình mở rộng sự thân thuộc hoá về tính Không. Ở cấp độ này, các mức cao hơn của Bồ-tát đạo lần lượt được chứng đắc. (5) Lộ trình Vô học – các trở ngại rất vi tế bị loại trừ hoàn toàn để đạt chánh giác. Tiếp theo đó, tâm thức đạt thành chánh đẳng chánh giác, và bản chất sâu xa của tâm trở thành Phật trí. How to Practice . p202-207.Dalai Lama. Pocket Books. 2002.

[24]Tên Śilarakṣita có thể dịch là Hộ Giới.

[25]Đại Chúng Bộ (skt. mahâsâṅghika) là thuật ngữ chỉ chỉ phái “đại chúng”, phần lớn, đa số của Tăng-già, tách ra từ đại hội kết tập Phật giáo lần thứ ba tại pâṭaliputra. Quan điểm của Đại chúng bộ được xem là tiền thân của giáo pháp Đại thừa sau này. Người ta đã tìm thấy nơi Đại chúng bộ quan điểm cho rằng, tất cả đều chỉ là giả danh, cái tuyệt đối cũng như tương đối, Niết-bàn hay Luân hồi, thế gian hay xuất thế gian. Tất cả những danh tự đó không hề có một thật chất trường tồn

[26] BA17 rNam thar rgyas pa: 61.12. Tài liệu ở đây và đoạn tiếp sau tìm thấyrNam thar rgyas pa: 60.3-62.6. Có sự khác biệt nhỏ trong trích dẫn ở dòng thứ hai: như được trích bởi Tsongkhapa, kết thúc dòng là rab tu grags; như được tìm thấy trong rNam thar rgyas pa lại viết thành grags pa yin. Về ý thì cùng một nghĩa.

[27]Tên Śri Dipaṃkarajñâna dịch nghĩa là Nhiên Đăng Cát Tường Trí. 

[28]BA18. Có nhiều cách viết tên này, một cách viết thông dụng khác là Odantapuri. Vị trí chính xác của Odantapuri chưa được khẳng định. [Những đoạn còn lại không khế hợp với câu văn này nên không cần dịch lại]

[29]Dịch nghĩa tên này là Pháp Hộ.[Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Dharmaraksita nhưng lại là một người trùng tên – xem tiếp: http://en.wikipedia.org/wiki/Dharmarakshita_(Sumatran) ] 

[30]BA19 Đại tì-bà-sa Luận (skt. mahâvibhââ), một bộ luận được biên soạn trong lần Đại hội kết tập Phật giáo lần thứ IV tại Kashmir dưới sự chủ trì của Thế Hữu (skt. vasumitra). Đại tì-bà-sa luận trình bày quan điểm chính thức của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ.

[31]BA20 Bốn truyền thừa hay bốn trường phái thuộc Tiểu thừa. Theo Ngag-dbang-rab-brtan (mChan:23.6) đó là Thuyết nhất thiết hữu bộ (skt. Sarvâstivâdin), Đại chúng bộ (skt. Mahâsaṃghika), Thượng tọa bộ hay Trưởng lão bộ (skt. Sthâvira) và Chánh lượng bộ (skt. Sammitîya).

[32]Toàn bộ giáo pháp Phật giáo được phân chia thành 3 loại chính đó là
Kinh tạng (sûtra-piṭaka) bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử.

 Luật tạng (vinaya-piṭaka) chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già (saṅgha) cũng như các giới luật cho người tu hành.

 Luận tạng (abhidharma-piṭaka) cũng được gọi là A-tì-đạt-ma chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết họctâm lý học. Ba thành phần này gọi chung là Tam Tạng (tripiṭaka).

[33]Đức Tối Thắng ở đây tức là đức Phật Thích-ca Mâu-ni

[34]BA21 Tam học (triśikṣâ) là ba pháp môn tu học chính của người theo đạo Phật gồm:
giới
(adhiúîlaúikṣâ): Hạn chế các hành vi tạo nghiệp bất thiện và phát huy các hành vi thiện đức; định (adhicitta-śikṣâ): Thiền định tập trung, rèn luyện sự tỉnh giác trong đời sống; tuệ (adhiprajñâ-úikṣâ): phát triển tuệ giác thấu hiểu bản chất của sự vật (pháp) nhằm đạt đến giải thoát trọn vẹn. Cả ba pháp môn trên liên hệ chặt chẽ và bổ xung nhau. Hành giả không thể đạt đến giác ngộ viên mãn nếu không hoàn tất cả ba pháp môn trên. 

[35]BA23 Đề mục này không được nêu rõ trong đại luận của Tsongkhapa, nhưng nó lại được tìm thấy trong danh mục của các dàn bài khác như trong bộ luận Byang chub lam rim chen mo’i sa bcad và trong bộ luận ‘Jam-dbyangs-bzhad-pa. ‘s mChan (Chú giải về bốn mối tương quan chặt chẽ) 24.5. Sự thích đáng cần nêu ra của đề mục này được biểu thị qua luận điểm song hành với các phần tiếp theo sau là: b. Ngài Atiśa thành tựu trong rèn luyện thiền định và c. Ngài Atiśa thành tựu trong rèn luyện trí huệ.

[36]BA24 rNam thar rgyas pa:94.15-18.

[37]BA25 Điều này có nghĩa là các thệ nguyện tu sĩ được thực thi tương hợp với kinh văn của Thanh Văn thừa chứ không phải nói rằng Atiśa là một Thanh Văn trong ý nghĩa ngài có một động lực theo tiểu thừa.

[38]Anh ngữ viết là Yak, tên giống đực của một loại bò-tót với lông dài phổ biến ở các vùng Hymalaya Trung Nam Á, cao nguyên Tây Tạng, Tân Cương và Mông Cổ. Vì chúng thuộc dạng bò-tót và ở Tây Tạng không bị nhầm lẫn với các loài bò khác, chúng tôi đôi khi sẽ dùng thuật ngữ “bò-tót” để chỉ giống bò Yak này. 

[39]BA26 rNam thar rgyas pa:95.9-12.

[40]BA27 Xem J. Hopkins, Practice of Emptiness: The Perfection of Wisdom Chương về Fifth Dalai Lama's "Sacred Word of Manjusrl" (Dharamsala, 1976).

[41]BA28 rNam thar rgyas pa:87.2-3.

[42]Chữ “tha nhân”, người dịch dùng ở đây và về sau là để ám chỉ tất cả các chúng sinh hữu tình khác với chủ thể trong câu chứ không riêng dành cho những “con người” hay “chúng sinh dạng người”.

[43]BA29 Con Phật (rgyal sras) tức là Bồ-tát.

[44]BA30 rNam thar rgyas pa:95.16 - 96.1.

[45]BA31 Ở đây ngài Atiśa tu tập pháp môn thiền định giác thể (diety yoga). Điều này cho thấy Atiśa đã đạt giai đoạn hoàn tất của thực hành Mật điển tối cao tức là đạt trạng thái thiền định trí huệ bất nhị giữa tính Khônghỷ lạc. Steps on the Path to Enlightenment. Vol1 p30-31. Lhundub Sopa. Wisdom. 2004.

[46]BA32 Avadhûtipa là một danh hiệu cho Atiśa nghĩa là “người đã tiến hành các tu tập liên quan đến kinh (mạch) trung ương”. – {Ngoài ra, theo tài liệu của Berzin Archieve, và nhiều trang Phật giáo Tây Tạng như www.lamrim.comwww.fpmt.org thì Atiśa cũng có một sư phụ tên là Avadhutipa.

 <http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/teachers/lineage_masters/life_Atiśa.html>. May 02 2009. Geshe Ngawang Dhargyey. 2009. The Berzin Archives}.

[47]BA33 rNam thar rgyas pa:96.17 - 97.1.

[48]BA34 Ba cấp độ giới luậtThanh Văn, Bồ-tát, và Mật thừa.

[49]BA35 Lochö Rimbochay cho rằng “thực hành các công năng thâm diệu” (rig pa brtul zhugs) tức là các rèn luyện của người thực hành Mật tông cao cấp tương phản với những người thông thường rằng người đó trông như mất trí.

[50]thánh địa Phật giáo thuộc bang Bihar Ấn-độ. Đây chính là nơi đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập niết bàn. Còn gọi là Bồ-đề Đạo tràng.

[51]BA36 rNam thar rgyas pa:40.13-16. Bốn trang cuối cũng được trích dẫn tại 21.7-8.

[52]BA37 Ibid.: 92.13-93.1. Roerich (1979: 43) các trích dẫn của kệ này như là nguồn chỉ cho thấy sự suy tàn như thế nào của Phật giáo tại Ấn trong vào thời gian của Atiśa.

[53]BA38 Xem lại chú thích 30 về các giáo phái chính trong tiểu thừa

[54]BA39 Tứ chúng tức là bốn loại người theo Phật giáo gồm: tăng chúng (các tu sĩ nam), ni chúng (các tu sĩ nữ), các nam cư sĩ và các nữ cư sĩ.

[55]Mười tám bộ phái được hình thành từ bốn truyền thừa chính. Đó là: (1) Bắt nguồn từ Ðại Chúng Bộ gồm: Ðông Sơn Trụ Bộ, Tây Sơn Trụ Bộ, Tuyết Sơn Bộ, Thuyết Xuất Thế BộThuyết Giả Bộ. (2) Có nguồn gốc từ Nhất thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) bao gồm: Căn Bản Nhất thiết Hữu Bộ, Ẩm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, Pháp Tạng Bộ, Ða Văn Bộ và một phần của Phân Biệt Thuyết Bộ. (3) Có nguồn gốc từ Chánh Lượng Bộ, bao gồm Kê Dẫn Bộ, Đại Bất Khả Khí Tử Bộ, và Ðộc Tử Bộ. (4) Có nguồn gốc từ Thượng tọa bộ bao gồm Chế Ða Sơn Bộ, Vô Úy Sơn Trụ Bộ và Ðại Tự Phái. Các Bộ Phái Phật GiáoẤn Độ Nalinaksha Dutt. Nguyên Tạng dịch. Chptr4 . PL.2015. 

[56]BA40 Họ là vua Ye-shes-‘od (ye-shay-ö) sống và cuối thế kỉ 9 đầu thế kỉ thứ 10, và Byang-chub-‘od (jang-chup-ö) sống trong tiền bán thế kỉ thứ 11 đã từng là vua của miền Tây Tây Tạng.

[57]BA41 brGya-brtson-’grus-seng-ge mất năm 1041 trên đường về Tây Tạng cùng với Atiśa.

[58]BA42 Ngag-dbang-rab-brtan (mChan: 29.4-6) đề cập tới việc có hai truyền thuyết về khoảng thời gian mà Atiśa lưu lại tại Tây Tạng. Một cho rằng ngài ở đó mười một năm, thuyết khác mà Tsongkhapa tin theo cho rằng ngài đã ở hết mười bảy năm; cả hai đều xác định ngài mất lúc bảy mươi ba tuổi.

[59]Tịch Hộ (skt. úântarakṣita), 750-802, là một Cao tăng Ấn Độ thuộc truyền thừa Trung Quán tông, người truyền bá Phật pháp sang Tây Tạng thời kỳ đầu. Sư quê tại Bengal (Đông Bắc Ấn) và là giảng sư tại viện Nâlandâ. Ngài đến Tây Tạng cả thảy hai lần, trong lần thứ hai đi cùng cùng với Liên Hoa Sinh. Lần đó, sư hoằng hóa 13 năm tại Tây Tạng.

 Liên Hoa Sinh (skt. padmasambhava, padmakâra) là một đại sư Ấn độ sống vào thế kỉ thứ 8. Người có công truyền Mật tông sang Tây Tạngsáng lập phái Ninh Mã (Nyingma) là một trong bốn tông phái lớn nhất ở đây. Tên Padmasambhava có nghĩa là sinh từ hoa sen. Ngài thường được gọi là Guru Rinpoche.

[60]Ha-sang còn được phiên âm là Hòa Thượng.

[61]Tức là đức Phật.

[62]BA43 Năm đề tài của tri thức mà một học giả cần thông thạo là: Phật giáo (nang rig pa), phi Phật giáo (phyi’i rig pa), văn phạm và luận lý (sgra gtan tshigs), các nghệ thuật (bzo), và y học (gso ba). Có trường hợp danh mục của năm đề tài được chia thành: kiến thức Phật giáo, văn phạm, luận lý, các nghệ thuật và y học.

[63]BA44 rNam thar rgyas pa: 4.4-8. Dòng thứ năm, “venerable târâ, and so forth”, được cắt bỏ vì là lỗi sao chép. Trong chú giải theo câu này, rNam thar rgyas pa liệt kê sáu giác thể chính (thugs dam gyi gtso bo) của Atiśa là Đà-la tôn (skt. Târâ, tib. Jo-mo sGol-ma), Quán Thế Âm (skt. Avalokiteśvara, tib.’Phags-pa sPyan-ras-gzigs), Bất Động Địa (skt. Âcala, tib. Mi-g yo-ba), Đề-li-tam-muội-da Trang nghiêm vương (skt. Trisamayarâjavyûharâja; tib. Dam-tshig-gsum-bkod-pa’i-rgyal-po), Luân Cấm (skt. cakrasaṃvara, tib. bDe-mchog-‘khor-lo) và Hô Kim Cương (skt. Hevajra tib. dPal dGyes-pa-rdo-rje).

[64]Dịch Việt là Tam Muội Hoa Nghiêm Mật Điển.

[65]Târâ (Tib. སྒྲོལ་མ་), nghĩa là: 'Thánh Nữ người giác ngộ' — một giác thể thị hiện trong dạng nữ liên quan đến các hành vi từ bigiác ngộ. Có nhiều dạng Târâ như là Tám vị Târâ Hộ trì khỏi sự sợ hãi và 21 vị Târâ nhưng vị phổ biến nhất là vị hộ thần Lục Târâ (Târâ có thân hình màu xanh lục) và Bạch Târâ hỗ trợ cho sự trường thọ. Tương truyền là khởi thủy Târâ thị hiện từ các giọt nước mắt của đức Quán Thế Âm (skt. Avalokiteśvara). Tara. Rigpa Shedra. Truy cập: 16/06/2011.

 <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Tara>.

[66]Các dòng truyền thừa này không bị gián đoạn tính từ đức Phật Thích-ca-mâu-ni truyền xuống (Sopa vol1 p.40).

[67]Truyền thừa Tri kiến thâm diệu còn được gọi là truyền thừa Trí huệtruyền thừa về các hạnh nghiệp còn được gọi là truyền thừa Phương tiện.

[68]BA45 Năm truyền thừa bao gồm: Dòng truyền chung cho mọi giáo pháp mật điển, truyền thừa Bí Mật Tập Hội (skt. Guhyasamâja), dòng Mẫu Thân, dòng Phụ Thân, dòng Mật điển Hành động và Du già, và dòng Diêm Vương Bất Động hay Diêm-mạn-đức-ca (skt. Yamântaka) (Sopa Vol1 p .41).

[69]BA46 Trích dẫn trong rNam thar rgyas pa:21.17-22.2. Đoạn ngay trước đó là một phiên bản cô đọng của phần 6-21 trong rNam thar rgyas pa. Các phần tương ứng với 3 đoạn tiếp theo có thể tìm thấy trong rNam thar rgyas pa ở các phần:6.3, 18.16 và các phần tiếp sau của chúng cũng như là trong 225.1-226.8.

[70]Các tên gọi Úânti-pa, Ser-ling-ba (hay Dharmarakshita), Bhadrabodhi, và Jñânaúri lần lượt có tên dịch nghĩa là Tịch Tĩnh, Pháp Hộ, Giác Hiền (hay Bồ-đề Hiền) và Cát Tường Trí.

[71]BA47 Sơ lược tiểu sử của nhiều nhân vật trên tìm thấy trong Tshe-mchog-gling-Ye-shes-rgyal-mtshan (Ye-shay-gyen-tsen, 1713-1793), Byang chub lam gyi rim pa’i bla ma brgyud pa’i rmam par thar pa (Cuộc Đời các Đại Sư thuộc Giáo Huấn Lamrim), vol. 1, pp. 259-385. Các niên lịch đã biết về họ không được ghi rõ trước đây là: Rin-chen-bzang-po (958-1055), rNal-‘byor-ba-chen-po (1015-1077), dGon-pa-ba (1016-1082), ‘Brom-ston-pa-rgyal-ba’o-‘byung-gnas (1005-1064).

[72]BA48 rNam thar gyi yi ge chen mo rnams. Chúng ta không biết có một lý lịch chuẩn mực nào của Atiśa qua tựa này. Nó có thể là rNam thar rgyas pa hay là các tiểu sử đã được biết vào thời của Tsongkhapa, bao gồm cả rNam thar rgyas pa và rNam thar rgyas pa yongs grags (xem chú thích trước).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15603)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23072)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14086)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13015)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55155)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9211)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14468)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14188)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14230)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13909)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36377)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19931)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18198)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19251)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19188)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20324)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17669)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31583)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15975)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15058)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14720)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46250)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35973)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21075)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21651)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23443)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34429)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19523)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18984)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22967)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20224)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18400)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19875)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19579)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33470)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34564)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54577)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37777)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21178)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17924)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63736)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17433)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49723)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27529)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20320)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23088)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18928)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16361)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17964)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20991)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17394)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14501)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16892)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16406)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16044)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17514)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22026)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15131)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13523)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14391)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15422)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15027)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12739)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13385)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27431)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12552)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13226)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16267)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12433)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15447)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12885)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12223)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13226)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21701)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11298)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22769)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15113)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14966)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46227)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22508)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14616)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12662)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18934)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14772)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43911)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57041)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13884)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47557)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13686)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14618)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29049)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33362)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38428)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15423)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31270)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12552)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40452)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46701)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant