Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Hỏi và đáp

15 Tháng Mười 201200:00(Xem: 11129)
03. Hỏi và đáp

CUỘC ĐỜI LÀ MỘT HÀNH TRÌNH TÂM LINH

Tác giả: Sayādaw U Jotika
Dịch giả: Tâm Pháp


HỎI và ĐÁP


Hỏi: Trong khi hành thiền chúng ta có thể thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràng, sáng suốt và không tham cầu, mong muốn, nhưng trong cuộc sống đời thường thì rất khó để không phản ứng.

 

Đáp: Đúng vậy, trong cuộc sống hàng ngày thì khó mà không phản ứng, không tham cầu mong muốn điều gì. Điều quan trọng trong quá trình thực hành của chúng ta là phải thấy chúng thật rõ chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi, để thấy được tham muốn đó không phải là một người nào. Tham muốn sanh khởi bởi vì có cảm thọ, bởi vì có xúc cảm, bởi vì có sự tiếp xúc với những ấn tượng giác quan. Trong quá trình thiền tập, bạn có thể thấy được cả toàn bộ tiến trình một cách rất rõ ràng. Bạn thấy rằng căn trần xúc chạm là một hiện tượng tự nhiên, cảm nhận được những ấn tượng kích thích của giác quan cũng là một hiện tượng tự nhiên, tham muốn cũng là một hiện tượng tự nhiên. Không có người nào, không có chúng sanh nào ở đó cả.

Khi bạn nhận chân rõ ràng điều này, tuệ giác này có một sức mạnh vô cùng lớn. Ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, có những lúc bạn thất niệm và bị lôi đi theo đối tượng bên ngoài, bạn bị cuốn theo chúng, tham cầu mong muốn điều này điều kia, bạn phản ứng lại với chúng. Song ngay thời điểm bạn chánh niệm về chúng, mức độ tác động của phản ứngtham muốn đó sẽ nhanh chóng tan biến và bạn cảm thấy được giải thoát ở một mức độ nào đó.

Trong quá trình thực hành, điều quan trọng hàng đầu là không được cố vượt qua tham ái một cách hoàn toàn ngay lập tức, mà phải “tiến dần từng bước một”. Việc đầu tiên là phải thấy tất cả chúng chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi. Ở đó không có chúng sanh nào, không có người nào cả.

Ngay cả tầng đạo quả đầu tiên cũng chưa tận diệt được tham và sân. Tầng đạo quả đầu chỉ đoạn tận được tà kiến chấp rằng có một linh hồn, một thực thể trường cửu mà thôi.

Nếu chúng ta có thể thấy không có gì là một thực thể vĩnh cửu, không có gì là một linh hồn cả, mà tất cả chỉ là những tiến trình tự nhiên, chỉ đến và đi, sanh và diệt. Nếu thấy được điều này một cách thật rõ ràng và mạnh mẽ, thì mặc dù đôi lúc bạn vẫn bị cuốn theo và đắm chìm với những đối tượng bên ngoài do thiếu chánh niệm, song ngay cả trong khi bị cuốn trôi và phản ứng như thế, nếu lấy lại sự chú tâm, bạn vẫn có thể tự giải thoát cho mình. Đây chính là lợi ích của sự thấy biết rõ ràng.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không thể thấy biết mọi thứ một cách sáng suốt rõ ràng trong mọi lúc được, nhất là khi chúng ta sống như một con người bình thường chứ không phải là một thiền sinh, chúng ta phải giao tiếp với mọi người, tự thể hiện mình, thể hiện tình thươnglòng nhân hậu của mình. Khi nghĩ đến nhân hậutình thươngchúng ta suy nghĩ đến một người nào đó, chúng ta nghĩ đến thái độ và tình cảm của người khác.

Trong cuộc sống đời thường, ngay cả khi cảm nhận tất cả những cảm xúc này, chúng ta cũng không coi chúng như một cái gì đó thuộc cá nhân mình. Chúng ta có thể hành động theo hai mẫu thức khác nhau, chúng ta phải hành động, phải sống theo hai mẫu thức như thế. Bởi vì, giả dụ chúng ta nhìn con mình mà nói rằng: “Không có đứa con nào ở đó cả, nó không phải là con tôi, đó chỉ là danh và sắc thôi”, thì không lẽ khi nó nghịch lửa đến bỏng và la khóc, chúng ta cũng nói rằng “Không có đứa con nào, không có ai cả, đó chỉ là cảm giác thôi” ư? Điều đó thật phi lýnhẫn tâm. Chúng ta không thể hành động như thế!

Chúng ta phải hiểu rằng có hai cách nhận thức và thấy biết thực tại, và phải hành động theo cả hai cách đó. Một cách là thấy biết thực tại này như thực sự nó đang là và chính điều này sẽ đem đến giải thoát cho chúng ta.

Điều quan trọng ở đây là ngay cả khi chúng ta tham muốn một cái gì đó, khi thấy tham muốn đó chỉ như là những hiện tượng tự nhiên, chúng ta vẫn có thể cố gắng phấn đấu để đạt được nó nếu thấy nó là cần thiết, song chúng ta sẽ làm việc đó một cách thích hợp và thấu tình, đạt lý. Chúng ta sẽ không bao giờ hành động một cách vụng về, ngu xuẩn để có bằng được nó. Bởi vì chúng ta biết rằng không đáng làm những việc bất thiện chỉ để có cho bằng được điều mình mong muốn.

Một người đã đạt tới tầng đạo quả đầu tiên sẽ vẫn còn tham muốnthích thú những cái hay, cái đẹp, nhưng họ sẽ không bao giờ ăn cắp, sát sanh hay làm bất cứ việc bất thiện nào khác để có được cái mình muốn. Đó chính là một sự khác biệt lớn giữa họ với những người bình thường khác.

Hỏi: Chúng ta không nhất thiết phải cố ý chuyển sang một mẫu thức hành động khác, đúng không? Có phải việc đó sẽ tự nó xảy đến?

Đáp: Việc đó xảy đến một cách tự nhiên một khi bạn đã có được một mức chánh niệm vững mạnh, những thoáng chánh niệm đó sẽ thường xuyên đến đều đặn, nhất là mỗi khi bạn xúc động thì chánh niệm thường quay trở lại. Thông thường khi bị xúc động mạnh thì con người ta hay thất niệm, không ý thức được mình nữa, nhưng đối với một thiền sinh thì trong những tình huống khẩn cấp đó, chánh niệm thường quay trở lại với họ. Mặc dù bạn cảm thấy xúc động mạnh, nhưng bạn vẫn ý thức được về nó. Nó có thể còn tiếp tục cả một thời gian dài, nhưng bạn vẫn chánh niệm hay biết nó. Do đó, một thiền sinh giỏi sẽ không còn bị mắc kẹt trong bất cứ trạng thái tình cảm hay cảm xúc nào nữa.

Một thiền sinh giỏi vẫn có thể rất dễ xúc động, vẫn có thể rất tình cảm bởi vì anh ta không cố đè nén và ức chế tình cảm của mình. Đây là một sự khác biệt lớn. Để trở thành một thiền sinh giỏi, nhất định bạn phải giữ cho tâm mình hoàn toàn rộng mở, không ức chế, đè nén hay chối bỏ bất cứ điều gì, không kháng cự hay xua đuổi bất cứ điều gì. Ức chế, đè nén, phủ nhận hay chối bỏ không mang đến hiểu biếtgiải thoátdĩ nhiên là cũng không đem đến trí tuệ.

Một thiền sinh giỏi đích thực, một người hiểu được ý nghĩa của chánh niệm, sẽ giữ tâm mình luôn luôn rộng mở, không kháng cự, không chối bỏ, không phủ nhận, không đè nén, ức chế bất cứ điều gì.

Vì thế một thiền sinh giỏi có thể cảm nhận được thậm chí nhiều hơn người bình thường, họ dễ cảm nhận hơn và cũng rất dễ bị tổn thương bởi vì họ không tự bảo vệ, không tự che chắn cho mình. Một người chánh niệm sẽ rất dễ bị tổn thương, song bởi vì có chánh niệm và sự sáng suốt nên anh ta có thể vượt qua được tất cả mọi chuyện mà không bị dính kẹt vào chúng. Chính điều này sẽ đem lại những hiểu biết thâm sâu uyên áo, đem lại giải thoát và về một khía cạnh nào đó cũng đem lại cả sức khỏe cho bạn nữa. Bất cứ một hình thức đè nén, ức chế nào cũng đều không lành mạnh, không có lợi cho sức khỏe, nhưng bất cứ một hình thức phản ứng hay hành động bất thiện nào thì cũng không lành mạnh chẳng kém. Không phản ứng lại một cách bất thiện, hành giả sẽ kinh nghiệm, cảm nhận và vượt qua được toàn bộ tiến trình đó và thoát ra khỏi nó một cách an toàn, khỏe mạnh hơn xưa. Bạn có thể vẫn tức giận hay tham lam, nhưng bạn có thể thấy rõ điều đó, thấu hiểu nó và vượt qua nó, thoát ra khỏi nó. Một số người bị mắc kẹt lại tại đó và không thể thoát ra được, họ bị kẹt lại trong một số loại tình cảm hay cảm xúc nào đó và trở nên rất ốm yếu, không lành mạnh.

Khi bạn gặp khó khăn hay một vấn đề rắc rối nào đó, nếu có chánh niệm, bạn sẽ không chạy trốn nó, không kháng cự lại nó và cũng không tự bào chữa hay biện hộ cho mình; mà bạn sẽ chú ý nhiều hơn nữa và học hỏi từ nó. Khi phải có một hành động nào đó, bạn sẽ hành động với chánh niệmtrí tuệ, cố gắng làm những điều tốt đẹplợi ích nhất cho mọi người. Bạn không giải quyết vấn đề chỉ cho một mình bản thân mình. Khi có một vấn đề khó khăn và bạn muốn giải quyết nó thì hãy làm sao để vấn đề của những người khác cũng được dàn xếp êm thấm.

Chẳng hạn, có một lần tôi đến xem một bể chứa nước, bởi vì tôi rất thích nhìn ngắm mặt nước, dù đó là nước hồ hay nước bể. Khi tới đó, tôi thấy có nhiều người đang tắm trong bể, mà thực ra nước trong bể đó là để dùng làm nước ăn. Tôi tới nói chuyện với người quản lý bể nước và nói rằng để mọi người tắm rửa ở đó là không tốt, bởi vì những người khác sẽ phải uống nước đó. Ông ta nói ông sẽ đến rình và bắt tất cả bọn họ. Đó là cách giải quyết vấn đề của ông ta. Vì vậy tôi nói: “Ông có thể làm như vậy được bao nhiêu lần? Ông có thể bắt và phạt một số người rồi sau đó ông lại đi. Ông có thể thường xuyên làm như thế được không? Tại sao không kiếm lấy mấy ống nước và đưa nước đến nhà cho họ, họ sẽ không đến tắm ở bể nữa!”.

Khi bạn muốn giải quyết vấn đề của mình thì hãy giải quyết cả vấn đề của người khác nữa, chỉ khi đó bạn mới thực sự giải quyết được tận gốc vấn đề.

Đây chính là điều tôi thường tự nhắc nhở mình mỗi khi muốn giải quyết một vấn đề nào đó. Tôi thường hay nghĩ đến cả những người có liên quan và xem mình có thể nhân tiện giúp giải quyết vấn đề của họ được hay không. Chỉ khi đó thì mới có thể thực sự giải quyết được tận gốc rễ vấn đề. Khi có một vấn đề rắc rối nào đó xảy ra, thường có rất nhiều người liên quan đến nó. Tôi thấy một số người chỉ quen giải quyết vấn đề bằng áp bức, đè nén hay trừng phạt mà thôi, nhưng làm như vậy sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề cả.

Hỏi: Nếu chúng ta thực sự chánh niệmcảm thấyý muốn phải hành động, làm sao chúng ta có thể trở thành một người thực sự phát triển về tâm linh và làm sao biết được đó chính là chánh niệm ngăn không cho chúng ta làm điều đó, hay đó chỉ là do mình sợ bị thất bại hay sợ chết mà thôi?

Đáp: Nỗi sợ thất bại, sợ mình sẽ không thành công đến từ một cảm giác mạnh mẽ về sự ngã mạn hay lòng kiêu hãnh của mình. Nhưng kiêu hãnh không phải là thủ phạm mà chính ngã mạn mới là thủ phạm đích thực. Khi đã phát triển chánh niệmtrí tuệ, bạn sẽ nhìn nhận thành công theo một cách rất khác, thành công không còn mang ý nghĩa như cũ nữa. Bạn sẽ không còn đánh giá cuộc đời mình bằng số tiền mình có; mà bạn đánh giá cuộc đời mình bằng chính trạng thái tâm của mình.

Nếu thực sự hạnh phúcmãn nguyện với tâm mình, bạn sẽ rất bằng lòng và biết đủ và sẽ không còn đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác nữa.

Trong hầu hết mọi trường hợp, chúng ta đánh giá người khác bằng những tiêu chuẩn của chính mình và tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác. Nếu còn tiếp tục làm như thế, chúng ta sẽ còn luôn luôn đau khổ.

Trong quá trình hành thiền, bạn thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràngvượt qua được thân kiến (sakkāya-diṭṭhi: tà kiến chấp ngã), tức là một cảm giác về bản ngã rất mạnh, khi đó tiêu chuẩn giá trị của bạn sẽ hoàn toàn thay đổi và bạn sẽ không còn trở lui lại nữa. Bạn sẽ thấy cái gì là giá trị đích thực trong đời, bạn sẽ thấy được ý nghĩa thực sự của cuộc sống; bạn sống với những giá trị của riêng mình và rất hạnh phúc về điều đó.

Khi có người nào đó thành công về vật chất, bạn cũng không tự so sánh mình với họ. Đôi khi, thậm chí bạn còn cảm thấy bi mẫn, tội nghiệp cho họ nữa. Bạn suy tư đến một thực tếcon người này đang phung phí cả cuộc đời mình chỉ để tìm kiếm vật chất mà không quan tâm phát triển các phẩm chất tâm linh của mình. Đó là lý do tại sao họ đã đánh mất đi một điều thực sự quan trọng trong đời, bạn không coi họ là những con người thành công. Mặc dù họ có thể làm rất tốt một công việc nào đó, song họ đã bỏ quên một công việc quan trọng nhất: phát triển tâm linh. Khi bạn đã thấy và sống với những giá trị đích thực của cuộc đời, bạn sẽ cảm thấy vô cùngtri túc và mãn nguyện với nó.

Mặc dù bạn cảm thấy ít ham muốn vật chất hơn, nhưng bạn vẫn thấy có một ham muốn khác: đó là ham muốn phát triển hơn nữa những phẩm chất tâm linh của mình và ham muốn được giúp đỡ người khác. Bạn cũng thấy ra được rất nhiều thứ không đáng ham muốnbuông bỏ chúng.

Hỏi: Nhưng đôi lúc cũng có rất nhiều việc đáng làm chứ, chẳng hạn như hiện nay tôi đang suy nghĩ đến một dự án giải trí. Tại sao sống trên thế giới này chúng ta lại cần quá nhiều đến chuyện trò và giao tiếp như vậy. Khi bạn đã mất đi bản ngã, bạn sẽ nghĩ rằng mình chẳng có gì để nói cả, vậy khi nào đó là do sự vô ngã và khi nào đó là do sự tự lừa dối và sợ hãi thất bại xui khiến mình hành động?

Đáp: Mọi người đều cảm thấy rằng mình cần phải làm một cái gì đó. Đôi khi chúng ta tự hỏi chính mình là liệu điều đó có đáng làm hay không và có lúc chúng ta nghĩ là nó cũng chẳng đáng làm.

Khi nào chúng ta cảm thấy mình bị thất bại? Đó là khi chúng ta tự đánh giá mình bằng những gì mình đã làm ra.

Sự giao tiếp và trao đổi là rất quan trọng, đó cũng chính là điều tôi đang làm ở đây và tôi nghĩ rằng nó thực sự là việc đáng làm. Tôi biết đã có nhiều đạo sư đã từng đến đây và tôi cũng biết rằng ở đây có hàng ngàn cuốn sách trong thư viện, nhưng tôi vẫn tiếp tục lặp lại những điều y hệt như vậy, tại sao tôi phải làm như thế? Bởi vì điều đó là cần thiết, sự tiếp xúctrao đổi trực tiếp là cần thiết. Chúng ta có thể hiểu ra được điều gì đó nhờ đọc chỗ này chỗ kia, thông qua câu chuyện với người này người nọ. Sự giao tiếp cần phải có trong mọi lúc và nó sẽ đem lại sự thay đổi cho bạn. Khi chúng ta thấy rằng nó đã đem lại sự khác biệt, chúng ta sẽ cảm thấy có hứng thú làm điều đó hơn. Chúng ta thấy rằng việc đó là cần thiếtcảm thấy nó đáng làm.

Hỏi: Như vậy thì có cái bản ngã nào đang làm việc đó không?

Đáp: Có một sự thỏa mãn nào đó khi bạn làm công việc đó, nhưng bản ngã nghĩa là, chẳng hạn khi bạn cố gắng diễn đạt điều gì đó cho người đối diện và người ấy không hiểu, không thèm để ý hay phủ nhận những gì bạn nói và bạn cảm thấy bị chạm tự ái. Trong trường hợp này thì đó chính là bản ngã. Tuy nhiên, nếu trong khi bạn nói chuyện với người khác mà người đó không hiểu bạn, bạn tự nhủ mình rằng: “Được rồi, tôi sẽ chờ đợi, sẽ có người nào đó hiểu”. Bạn không mong đợi là tất cả mọi người sẽ hiểu và trân trọng những gì bạn nói. Thậm chí bạn cũng không mong đợi là mình luôn luôn giao tiếp một cách thành công nữa. Khi đó cái bản ngã của bạn sẽ giảm xuống.

Rất nhiều lần tôi nghĩ rằng mình đã không diễn đạt được rõ ràng điều mình muốn nói, nhưng tôi vẫn tiếp tục cố gắng, cố gắng… Một số người hiểu được, một số khác thì không, một số trân trọngđánh giá cao những gì tôi nói và cũng có một số khác chẳng thèm để ý, thế cũng chẳng sao. Đó cũng là điều hoàn toàn tự nhiên thôi mà. Nhưng khi bạn nổi cáu lên với một người nào đó chỉ vì anh ta không hiểu ý bạn hay không coi trọng những gì bạn nói, thì khi đó bản ngã đang có mặt. Bạn cố gắng hết sức mình, nhưng không dính mắc vào kết quả. Tất cả mọi người đều có cách giao tiếp riêng của mình với những người xung quanh.

Có một cách giao tiếp khác, đó là chỉ sống với pháp hành của bạn, chỉ là một người chánh niệm, khi đó bạn đang giao tiếp và đang thể hiện ra một điều gì đó. Chúng ta không có cách nào ngừng giao tiếp được, ngay cả khi chẳng nói năng gì thì chúng ta vẫn đang giao tiếp.

Hỏi: Khi ngồi thiềnđi kinh hành tôi thường tìm những chỗ kín đáo, không có người qua lại để được một mình hành thiền, thế khi tôi hành thiền ở nơi có người qua lại thì có sao không?

Đáp: Chúng ta có thể hành thiền ở tất cả mọi nơi chốn và mọi hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta phải học cách điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình để có thể hành thiền được ở bất cứ chỗ nào. Bạn có thể hành thiền trong khi ngồi trên xe buýt với đôi mắt vẫn mở mình thường. Bạn ngồi giống như tất cả những người khác trên xe; thậm chí bạn còn có thể nhìn ra ngoài cửa sổ, mà vẫn đang thiền. Bạn có thể nuôi dưỡngduy trì một mức chánh niệm và tỉnh giác trong bất cứ công việc gì bạn đang làm, ngay cả khi đi mua sắm nữa. Bạn có thể luôn luôn chánh niệm về các trạng thái tâm của mình.

Hành thiền không có nghĩa là ngồi yên một nơi thanh vắng trong một tư thế nhất định, hai chân bắt chéo, đôi mắt nhắm nghiền. Đó chỉ là một phần trong quá trình thiền tập của chúng ta mà thôi.

Tuy nhiên, khi hành thiền chỉ (samatha) bạn phải ở một nơi rất yên tĩnh, không có nhiều xáo động và phải ngồi theo một tư thế nhất định, không xê xích, thay đổi nhiều, bạn phải ngồi rất tĩnh, rất yên. Bạn phải an trú tâm vững vàng trong đề mục và không được thay đổi sang đề mục khác, đó là thiền chỉ. Thiền chánh niệm nghĩa là bạn chánh niệm, hay biết tất cả mọi thứ đang diễn ra, hết đối tượng này đến đối tượng khác, Bạn có thể chuyển dịch và thay đổi để mục luôn luôn, nhưng điểm quan trọng là không để bị lôi theo những dòng suy nghĩ vẩn vơ hoặc nằm mơ giữa ban ngày. Nếu bạn có thể duy trì chánh niệm ngay cả trong khi đang đi trên xe buýt, đạp xe đạp hay đang ngồi trong lớp, bạn sẽ có được khả năng nhớ, hiểu và học hỏi nhiều hơn nữa. Bạn sẽ dễ cảm nhận và dễ tiếp thu hơn bởi vì bạn có sự chú ý nhiều hơn.

Hãy cố gắng điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình sao cho có thể hành thiền ở bất cứ nơi nào, bởi vì nếu chúng ta không thực hành được khi ra khỏi góc riêng của mình, thì sự thực hành chánh niệm sẽ bị hạn chế rất nhiều. Đức Phật nói rằng chúng ta phải chánh niệm ngay cả khi đi đứng, nói năng và ăn uống nữa. Hãy cố gắng chánh niệm, chú tâm khi chúng ta nói chuyện, nếu học được cách làm điều đó, bạn sẽ thấy tất cả mọi việc khác trở nên rất dễ dàng.

Từ “hành thiền” mang một nghĩa quá nghiêm túc, “chánh niệm, tỉnh giác” cũng có vẻ nghiêm trọng quá mức, “chú tâm” cũng thế. Thay vì dùng chữ “hành thiền”, tôi ưa nói “chú ý” hơn.

Bạn có thể chú ý trong những tình huống khác nhau, chú ý tới những cái bạn đang nhìn, những điều bạn đang nghe, những gì bạn đang suy nghĩ và những cảm xúc, tình cảm của mình được không? Nếu cố gắng, bạn có thể chú ý được không? Được chứ, đến một mức độ nào đó, bất cứ người nào cũng có thể làm được. Đừng mong đợi là mình sẽ chánh niệm được 100% trong mọi lúc, bởi vì điều đó là không thể, nhưng hãy cố gắng hết mình.

Hỏi: Chánh niệm và tỉnh giác khác nhau như thế nào?

Đáp: Đó chỉ là do mức độ, do sự khác nhau giữa chánh niệm nhiều và chánh niệm ít mà thôi. Chánh niệm nghĩa là tâm bạn đang ở trong hiện tại, tâm bạn đang có mặt ở đây. Do đó, càng chánh niệm về một đối tượng nào đó trong mình, bạn lại càng hay biết và ý thức được về nó. Chánh niệm ngược lại với đãng trí, thất niệm, quên mình.

Chánh niệm và tỉnh giác cũng có nhiều mức độ. Chẳng hạn khi đang nói chuyện với bạn bây giờ là tôi đang chánh niệm. Nhưng đó là một loại chánh niệm khác, bởi vì tôi đang suy nghĩ về những điều mình muốn nói và trong khi nói, tôi cũng phải suy nghĩ xem nên nói như thế nào, chọn câu cú, từ ngữ ra sao cho rõ ý. Bình thường, tôi đang theo dõi và lắng nghe bạn nói, nhưng tâm tôi cũng đang có mặt, nó đang hiện hữu ở đó. Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, tôi cố gắng thấu hiểu tình huống hiện tại, chú ý tới rất nhiều khái niệm và ý tưởng, nhưng một phần tâm tôi vẫn hay biết trạng thái tâm của mình, hay biết những gì đang diễn ra trong tâm. Đây là một trạng thái tâm khác hẳn.

Tuy nhiên, khi tôi ngồi yên tĩnh, không tiếp xúc với bất cứ ai, hoàn toàn đặt sự chú ý trong thân tâm mình, thì đó lại là một loại chánh niệm khác. Nhưng bản chất cơ bản của chánh niệm thì vẫn không thay đổi, chỉ có đối tượng hay đề mục là khác mà thôi.

Chánh niệm trong khi giao tiếp là rất quan trọng, nó giúp cho chúng ta chánh niệm hơn, bởi vì trong giao tiếp, nếu chúng ta không biết được tâm mình, không ý thức được thái độ của mình, chúng ta có thể có những thái độ sai lầm và với thái độ sai lầm đó, sự giao tiếp sẽ không tốt đẹp. Chúng ta có thể nói những điều tổn thương đến người khác hay những điều không trung thực, không lợi ích.

Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, trong quan hệ giao tiếp với mọi người, chúng ta sẽ ít bóp méo sự thật hơn. Chúng ta sẽ không nói những điều không thực, chúng ta sẽ không nói dối hoặc nói phóng đại. Rất khó phân định rõ ràng giữa nói dốiđại ngôn. Chúng ta sẽ chỉ nói những gì lợi ích, chỉ nói những gì đúng sự thật. Chúng ta sẽ nói những điều người khác muốn nghe và đôi lúc cũng có thể phải nói những điều họ không thích nghe nữa. Điều quan trọng là nói sự thật và nói những điều lợi ích. Khi có chánh niệm, chúng ta sẽ không ba hoa những điều vô nghĩa hay những chuyện ngồi lê đôi mách. Với chánh niệm, bạn sẽ dừng lại ngay khi thấy rằng cuộc nói chuyện này là vô ích.

Những thiền sinh cố gắng thực hành chánh niệm trong lúc nói chuyện thường kể với tôi rằng, khi họ chánh niệm, họ không thể tiêu hóa nổi những loại chuyện phiếm vô bổ về phim ảnh, về thời trang hay ngôi sao điện ảnh… Họ không còn hứng thú để nghe và nói những chuyện đại loại như vậy nữa. Đây là một sự tiến bộ lớn, bởi vì con người ta thường phí phạm rất nhiều thời gian vào những câu chuyện phiếm vô bổ như thế.

Vì vậy, cho dù bất kể thế nào đi nữa, bạn cũng hãy cứ cố gắng hết sức giữ chánh niệm. Chánh niệm sẽ có nhiều mức độ và chất lượng khác nhau và khi có chánh niệm thì rồi sẽ có tỉnh giác.

Hỏi: Tôi có một khó khăn là, khi chuẩn bị ngủ tôi thường theo dõi tâm mình và sau đó lại không thể ngủ được nữa!

Đáp: Rất tốt, tại sao lại cứ phải lo lắng về chuyện không ngủ được làm gì nhỉ! Muốn bắt mình ngủ, đó là một loại tham, đó là lý do tại sao đôi khi người ta thường uống thuốc ngủ. Con người ta thường thích thú hưởng thụ trạng thái tâm buồn ngủ lơ mơ, đờ đẫn như vậy, và họ rất thích chìm đắm trong một giấc ngủ thật sâu. Đây quả là một loại thú vui kỳ lạ, bởi vì khi ngủ say bạn không biết là mình đang ngủ, nhưng bạn vẫn cứ thích ngủ. Khi tỉnh dậy bạn nói: “Ôi, một giấc ngủ thật tuyệt vời!”. Đúng, nó có thể làm cho bạn cảm thấy tươi mới và sảng khoái hơn, điều đó thì tốt.

Nhưng đừng lo lắng về chuyện không ngủ được. Nếu bạn có thể giữ cho mình tỉnh thức bằng việc theo dõi chính trạng thái tâm buồn ngủ của mình, thì đây là một dấu hiệu rất tốt, bởi vì hầu hết mọi người đều không thể làm được điều đó. Đa phần mọi người chỉ cảm thấy buồn ngủ rũ ra và họ không thể quan sát nổi trạng thái tâm buồn ngủ đó, họ không thể theo dõi được cái tâm đờ đẫn, rũ rượi của mình, họ không thể theo dõi được tâm mình đang mất dấu đề mục, mất sự hay biết rõ ràng. Do đó, nếu bạn có thể theo dõi được cái tâm buồn ngủ đó, và bởi vì có chánh niệm về nó nên bạn tỉnh thức và nếu bạn cứ tiếp tục chánh niệm như thế, thì đó là một dấu hiệu rất tốt đối với một thiền sinh.

Hãy ra quyết định cho mình, chẳng hạn như: “Bây giờ là lúc tôi đi ngủ đây”, thế rồi bạn có thể “tắt” cái tâm mình đi. Đó là điều tôi vẫn thường làm. Khi không muốn ngủ, tôi có thể rất tỉnh táo, còn khi muốn đi ngủ thì tôi quyết định trong tâm rằng: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ” và tôi thư giãn, thả lỏng toàn bộ cơ thể và tâm mình ra, cảm nhận được thân thểtâm trí mình đang trở nên ngày càng thư giãn…ngày càng buông lỏng hơn.

Đức Phật cũng dạy các vị Tỳ khưu cách đi ngủ và cách thức dậy như thế nào cho đúng. Đối với một thiền sinh thì cách đi ngủ và cách thức dậy là điều rất quan trọng. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản, Ngài nói: “Đừng cố ngủ”, bởi vì nếu bạn cứ cố ngủ, đôi lúc bạn cũng không thể làm được điều đó, và nếu bạn cố quá thì đó lại là một loại tham. Đó là một cách muốn thất niệm, đó không phải là một việc tốt.

Vì vậy, bạn hãy quyết định: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ một cách chánh niệm”. Vâng, bạn có thể đi ngủ một cách chánh niệm. Đa phần mọi người, trước khi ngủ họ cứ lan man suy nghĩ đủ chuyện này chuyện kia, đó là một trạng thái mơ màng, rồi sau đó thì chìm vào giấc ngủ. Một thiền sinh giỏi trước khi ngủ không bao giờ suy nghĩ lung tung về bất cứ chuyện gì. Bạn chú ý vào cơ thể mình và ngày càng thư giãn, tĩnh lặng và bình an hơn. Bạn chỉ chú ý vào sự bình an, tĩnh lặng và thư giãn này, bạn vẫn hay biết được điều đó mà không hề suy nghĩ. Tâm bạn rất yên tĩnh và không hề có những ý nghĩ nặng nề hay mơ mộng vẩn vơ, rồi sau đó bạn ngủ. Nhưng trước khi ngủ, bạn tự nhắc mình: “Tôi sẽ thức dậy vào 4 giờ sáng mai, khi thức dậy tôi sẽ chánh niệm, tỉnh táo, sảng khoái và sáng suốt”. Đây chính là cách chúng ta đi ngủ và thức dậy. Hãy cố gắng làm điều đó, rồi nó sẽ diễn ra như vậy.

Hỏi: (nói thêm về vấn đề khó ngủ)

Đáp: Nghĩa là bạn có thể ngủ tốt hơn khi ngồi thiền? Khi bạn thực sự mệt mỏi thì cần phải đi ngủ. Câu hỏi của tôi bây giờ là bạn ngủ trong bao lâu? Tôi nghĩ điều này sẽ xảy đến với tất cả mọi thiền sinh, ở một giai đoạn trong thiền, bạn sẽ hành thiền nhiều hơn và ngủ ít đi. Đôi khi, trong lúc đang ngồi thiền bạn chợt ngủ thiếp đi, có khi chỉ trong vài phút mà người không bị đổ và rồi lại thức dậy. Bạn có thể ước lượng được thời gian mình ngủ quên đi mất đó không, 5 phút hay 10 phút? Khi thức dậy trạng thái tâm của bạn như thế nào? Bạn có cảm thấy tươi mới, sảng khoái và tỉnh táo, sáng suốt không?

Buồn ngủ trong lúc hành thiền không phải là một vấn đề lớn lắm. Nếu lúc thức dậy bạn cảm thấy tỉnh táo, sáng suốttiếp tục hành thiền được thì điều đó không thành vấn đề, nó cũng có lợi ích nhất định. Nhưng nếu chỉ sau 5 phút ngồi thiền mà bạn đã buồn ngủtiếp tục ngủ cả giờ đồng hồ sau đó, thì điều đó đúng là không tốt. Tuy nhiên, khi có chánh niệm bạn sẽ tỉnh táo hơn.

Chánh niệm mang đến nhiều năng lượng hơn cho tâm bạn. Nhưng nếu bạn đã làm việc cả ngày và trước khi đi ngủ bạn ngồi thiền, thì lẽ tự nhiên là bạn sẽ bị buồn ngủ. Chắc các bạn đã từng được dạy rằng khi buồn ngủ phải niệm thầm: “buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ” rồi phải không? Làm như vậy sẽ khiến bạn tỉnh thức. Bởi vì khi bạn thấy được trạng thái tâm hôn trầm thì chính việc đó sẽ đem lại cho bạn thêm năng lượng. Tôi không biết giải thích điều đó ra sao, có thể một phần não bộ của chúng ta lúc đó ít hoạt động và “tắt” công tắc đi, nếu chú ý thì bạn sẽ tỉnh thức hay “bật” trở lạivì vậy bạn lại tỉnh táo.

Hỏi: Một số vị Tỳ khưu và những người khác đã giải thích câu: “sanh là khổ” nghĩa là không phải sự sanh của thân vật lý mà là sự sanh khởi của các ý niệm trong tâm, hay là tự ngã. Họ nói rằng đó mới là cách hiểu đúng đắn. Tuy nhiên, theo như định nghĩa ở trong kinh Tứ Niệm Xứ thì sanh chỉ có nghĩa là sự sanh của cơ thể vật lý này thôi.

Đáp: Đúng vậy, chúng ta phải hiểu về khổ trong từng ngữ cảnh khác nhau, theo nhiều cách thức và chiều sâu khác nhau. Trong bài kinh này, tôi nghĩ câu “sanh là khổ” có nghĩa là bạn không kinh nghiệm được sự sanh là khổ theo nghĩa đau đớn. Bạn thấy rằng sanh là một điều bất toại nguyện. Bởi vì, bây giờ chúng ta không thể thấy được sự sanh của mình như thế nào, nó đã xảy ra từ rất lâu trước đây.

Đó là nghĩa thông dụng của sanh (jāti), già ( jarā) và chết (maraṇa), nhưng khi quán sát trực tiếp các hiện tượng tâm - vật lý, chúng ta có thể thấy được sự sanh và diệt. Một số người muốn diễn dịch điều đó, rằng sanh là jāti (sanh ra) và diệt là marana (chết), nhưng tôi nghĩ điều này đi hơi quá xa. Nó có ý nghĩa và ngữ cảnh riêng cùng với chiều sâu riêng của nó.

Dù sao, khi chúng ta thấy bất cứ một hiện tượng nào bất toại nguyện, không vừa ý thì chúng ta cũng thấy rằng sanh là bất toại nguyện. Nhưng nếu cứ nghĩ về sanh như là sự sanh của riêng mình và rồi đau khổ về điều đó thì đó không phải là giải pháp. Tri kiến về Pháp (dhamma) không làm cho chúng ta đau khổ. Bởi vì nếu thường xuyên đau khổ là khi đó có rất nhiều bản ngã trong đó. Chúng ta phải thấy ra được tất cả mọi thứ chỉ là bất toại nguyện và rồi xả ly, buông bỏ.


Núi rừng Viên Không
Mùa dâng y 2006

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31677)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12761)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10814)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10823)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22975)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10691)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10027)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11926)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9820)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11277)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12640)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9706)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10467)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10572)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9910)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11062)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10148)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9501)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12563)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10429)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9090)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10563)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8812)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10523)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9197)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9700)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9022)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14763)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8955)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8977)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8745)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9374)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14604)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9044)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8785)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10537)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8647)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9998)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24290)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9475)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8007)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9272)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10342)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9586)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21407)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12170)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19245)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10637)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9538)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18685)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12368)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11891)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10760)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13348)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10003)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9276)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9395)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15906)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant