Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện 23 - 43

16 Tháng Mười 201200:00(Xem: 10175)
Chuyện 23 - 43

CHUYỆN CỬA THIỀN
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Thấy pháp không phải ta

Nhà Sư đang nghỉ trưa, bỗng nghe tiếng "sàn sạt" ở hiên sau, bèn hỏi:

- Ai đó?

- Không có ai hết!

Nghe ra là giọng chú Đa Lễ.

- Chú làm cái gì đó?

- Chẳng làm cái gì hết!

Một hồi nhà sư mới biết chú ấy đang quét lá. Nhà sư hơi ngạc nhiên về cách trả lời trống không, vô lễ của chú điệu được tiếng là lễ phép bấy lâu nay. Vừa mới nhổm dậy thì nhà sư nghe tiếng đọc kinh vang vang xa dần:

 “Khi trí tuệ quán chiếu
Thấy pháp không phải ta
Liền thoát ly khổ não
Đó là Thanh Tịnh Đạo!"

- À, ra thế! Nhà sư lẩm bẩm gật đầu rồi nằm xuống trở lại.


Thường ích kỷ Bồ-tát

Đa Trí tưới lan xong, ngắm những giò hoa nở một hồi lâu, có vẻ ngẫm ngợi rồi nói với Đa Văn:

- Chú nè, mình chơi lan thế này thiệt là kẹt!

Đa Văn ngạc nhiên hỏi:

- Kẹt sao?

- Nếu người ta xin?

- Thì cứ nhất định là không cho!

- Vậy là ích kỷ rồi!

Đa Văn giải thích:

- Đồng ýích kỷ. Nhưng chú tưởng hành theo "hạnh ích kỷ" dễ lắm sao? Ích kỷ nhưng không phải cho cá nhân mình mà là phụng sự cái đẹp chung. Mình mang tiếng ích kỷ, nhưng mọi người lại có chỗ để di dưỡng tinh thần, để thần kinh được thư giãn. Điều đó nên làm lắm chứ!

Đa Trí lắc đầu:

- Đó là tâm địa Bồ-tát, tôi chịu thôi!

Vô Văn đi ngang qua, nghe được liền hỏi:

- Bồ-tát ấy có tên là gì?

Đa Văn đáp:

- Đấy được gọi là: "Thường Ích Kỷ Bồ-tát!"

Vô Văn vỗ tay:

- Vậy từ đây ta có thêm một Bồ-tát mới nữa rồi! "Nam Mô Thường Ích Kỷ Bồ-tát Ma ha tát!” Hoan hô!

 


Cái gì dơ?

Buổi sáng, Đa Văn nhận trách nhiệm phân phối công việc, chú nói:

- Hổm rày cái sân dơ quá, chỗ này chú Vô Tâm nhận cho!

Vô Tâm cười cười:

- Sân đâu có dơ, chú!

Đa Văn gặn hỏi:

- Sân không dơ thì lá dơ chắc?

Vô Tâm ỡm ờ:

- Lá có lẽ cũng không dơ!

Đa Văn nghiêm mặt lại:

- Sân không dơ, lá không dơ, nhưng chú cũng phải quét, thế thôi!

Mọi người cười xòa.

Vô Văn nghe được, nói lầm thầm: "Đa Văn vì dụng thường ngữ, kẹt nơi tục đế nên gọi sân dơ! Vô Tâm vì dụng pháp ngữ, kẹt nơi chân đế nên gọi sân không dơ, lá không dơ! Ta biết cả hai mà còn ngứa óc, ngứa mồm muốn nói, thế là chổi dơ! Ôi! Nếu chổi dơ thì làm sao quét và quét là quét cái gì đây?"


Mắc mớ gì đến ta

Một nam Phật tử đau khổ vì tình đến gặp Đa Văn:

- Chú ơi! Xin chú hãy giúp tôi một vài ý kiến.

Đa Văn đang ngồi lim dim mắt:

- Chuyện gì vậy?

- Tôi có một mối tình!

- Ờ!

- Tôi rất hạnh phúc!

- Ờ!

- Không, nàng đã phản bội tôi rồi!

- Ờ!

- Tôi rất đau khổ!

- Ờ!

- Vậy bây giờ tôi phải làm sao?

Đa Văn mở mắt ra, hỏi:

- Ai đem hạnh phúc cho anh?

- Dạ, nàng!

- Ai mang đau khổ cho anh?

- Dạ, cũng chính nàng!

Đa Văn "hừm" một tiếng:

- Vậy thì mắc mớ gì đến ta mà hỏi!

-!?

 


Ai ngộ?

Đa VănVô Văn đang trỉa lúa khô, Đa Thức cắp nách rổ đi hái rau, dừng lại nói:

- Nè, các chú ơi! Có một ông cư sĩ rất chi là trí thức vừa bị thầy "cạo" cho một trận.

Đa Văn đứng thẳng lưng dậy:

- Kể nghe!

Đa Thức hăm hở:

- Ông cư sĩ ấy đạp xe từ dưới phố lên, thầy hỏi: "Có mệt không con?" Cư sĩ chậm rãi dựng xe cười: "Bạch thầy, mệt gì đâu! Con cứ để tâm "vô phân biệt" mà đạp. Lên dốc thì con nghĩ: "À, lên dốc à!" Qua ruộng thì con nghĩ: "À, qua ruộng à!" Thế là con luôn trú nơi cái sát-na vĩnh cửu của hiện tại. Không gian, thời gian bất khả hiện hữu. Năng tri và sở tri không hai. Vậy thì có gì xa với gần, mệt với không mệt hở thầy?"

Nghe xong, thầy nói: "Hay dữ ha! Vậy ra con tu hành là để "xa với gần không biết", "người với đường thành một", "không tôi, không người", "đàn ông, đàn bà không khác"... "Vô phân biệt" tuốt, luốt! Hay dữ ha!

Kể xong, chú Đa Thức nói tiếp:

- Hôm trước, có một ông "phân biệt" thì bị thầy "lóc". Bữa nay, một ông "vô phân biệt" thì bị thầy "cạo"! Eo ôi! Khó ơi là khó!

Đa Văn nói:

- Tại cái ông cư sĩ dại, không biết đàng mà lui tới. Thầy nói gì cứ mặc thầy. Có bao giờ tâm vô phân biệtbiến thành sỏi đá đâu mà sợ? Con ruồi bay qua vẫn biết rõ ruồi đực ruồi cái mà tâm vẫn vô phân biệt như thường!

Vô Văn vẫn lom khom trỉa lúa:

- Này, thôi nghe! Hãy lo làm công chuyện!

Đa Văn nhìn Vô Văn ngờ ngợ:

- Ê, chú ngộ rồi hả! Giải quyết sao?

Vô Văn đứng dậy:

- Ngộ cái gì? Giải quyết cái gì?

Chú Đa Thức đưa hay tay lên trời, chiếc rổ lăn tròn xuống hồ rau muống, than dài:

- Eo ơi! Cha nào cũng thiền sư hết trơn hết trọi! Cho chết! Dù có biết, có thấy, ta cũng không nói nửa lời đâu!

 


Không thỏa hiệp

Chú ơi!

- Gì đó anh?

- Kỳ này tôi cương quyết "không thỏa hiệp" với trần gian nữa!

- Một lần nói dối!

Người thanh niên tức giận:

- Sao chú bảo tôi nói dối?

Vô Văn đưa thêm một ngón tay nữa:

- Hai lần nói dối!

Thanh niên như không còn tự chủ được:

- Nếu chú không giải thích, tôi không để chú yên đâu!

Vô Văn cười khà khà.

Thanh niên tím mặt lại:

- Chú lại còn trút thêm dầu vào lửa!

Vô Văn bây giờ mới thủng thỉnh nói:

- Cái gì anh cũng "thỏa hiệp" cả mà dám bảo là "không thỏa hiệp"! Nói dối vừa vừa thôi chứ!

-!


Tâm vô thường

Đa Trí được nhà sư giao cho việc hướng dẫn các chú giới tử sơ cơ học giáo pháp. Hôm đó, chú đang say sưa giảng về cái tâm vô thường của chúng sanh. Chú thao thao phân tích, đưa ra những ví dụ thực tiễn, xác đáng... muốn cho đàn em ai cũng phải khâm phục sức học uyên báctrí tuệ thâm sâu của mình!

Nhìn xuống lớp học, Đa Trí chợt thấy Vô Tư đang gục lên gục xuống trên bàn. Chú gọi to:

- Vô Tư!

Vô Tư giật nẩy mình, ngơ ngác:

- Dạ!

- Điệu có biết điệu bao nhiêu tội rồi không?

- Dạ, không ạ!

Đa Trí cất giọng rổn rảng:

- Này, hãy trả lời cho tôi nghe. Lần trước tôi bảo ngủ thì điệu lấy bài ra học. Bây giờ, giờ học thì điệu lại ngủ gà ngủ gật. Tại sao khi siêng năng lúc biếng nhác thất thường vậy hả?

- Dạ... Dạ... cái đó thì em cũng chịu thôi!

- Sao vậy? Đa Trí gắt - trả lời cho đứng đắn xem nào!

- Dạ, chú dạy cái gì... à, "quán tâm vô thường". Tâm đã vô thường thì nó thay đổi luôn, lúc là thế này, lúc là thế nọ! Vậy thì thử hỏi, em làm sao lại dám đi ra ngoài định luật vô thường ấy?

Đa Trí la hoảng lên "chết tôi", rồi chú đứng im sững!


Nếu biết thế!

Vị sư đệ tam y nhất bát phong trần trở về đến gặp vị trụ trì:

- Sư huynh ạ! Cái câu mà bên thiền tông họ hay nói: "Thần thông là gánh nước, bổ củi là diệu dụng" hồi trước đệ nghĩ là nói láo, nghe láo chơi, bây giờ đệ thấy nó chí lý làm sao!

Vị trụ trì ân cần:

- Ừ! Đệ thấy chí lý như thế nào?

Sư đệ đáp:

- Thiền là pháp môn tiêu hủy phiền não. Vậy thì bất cứ khi nào tâm ta trong sáng, bình lặng, tỉnh thức thì đấy là thể hiện thiền, là thiền quán, là thiền Minh Sát Tuệ. Dù gánh nước hay bửa củi mà tâm ta vô ưu, vô lự, vô phiền, thì đó là diệu dụng chân thật, là thần thông chân thật rồi!

Vị trụ trì khen ngợi:

- Cảm ơn Phật Thánh! Đệ đã thấy!

Buổi chiều, sư huynh nói với sư đệ:

- Lúc này hạn hán quá, bể cạn, cây khô, sư đệ hoan hỷ vận thần thông diệu dụng gánh ít chục đôi nước nghe!

Sư đệ mau mắn:

- Dạ, xong ngay!

Tối đến lúc uống trà, sư huynh nói:

- Thần thôngdiệu dụng của đệ quả là ghê gớm, một buổi chiều mà gánh những bốn chục đôi nước! Sư đệ có mệt không?

Vị sư đệ cười cười:

- Cái đó gọi là trú nơi "tam muội chân hỏa", làm sao mệt được sư huynh!

Sư huynh cười ha hả:

- Phật ôi! Nếu biết thế thì chùa mình khỏi đặt mua cái máy bơm nước tốn mấy chục ngàn!

-!?

 


Công án thứ 1701

Tôi đã bảo chú là "ngũ ấm vốn không", các pháp vô tự tính, không có gì cả đâu!

- Sao lại không có được!

- Không có mà. Này nhé, "sắc" có không?

- Có!

- Nói sao kỳ? Vậy "thọ" có không?

- Có!

- Vẫn cứng đầu! "Tưởng", "hành", "thức" có không?

- Có!

- Thiệt là cái chấp kiến lì lợm! Té ra chú tu hành lâu ni, trí tuệ được thế đấy!

- Hừ! Đừng có lên giọng kẻ cả! Chú được tài lập lại kinh điển, ngôn ngữ của cổ nhân. Tôi hỏi chú, chú bảo tôi chấp hữu, lì lợm. Nhưng mà coi chừng! Hãy nghe đây! Nói rằng, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, đồng ý! Nhưng này, ai đang đứng trước mặt tôi đây?

- Bộ xương nặng 35 ký.

- Tầm bậy, bộ xương không biết nói!

- Ha... ha... ha...

Chú điệu cao, trắng vai vác cây cuốc chỉa vụt cất tiếng cười rang rảng rồi chạy lên đồi. Bóng chú lẫn vào rẫy sắn. Chú điệu thấp, da đen cháy, tay cầm cây chổi rành đứng dưới gốc bồ đề nhìn theo, bặm môi tức tối.

Nắng chiều ấm, nhảy loăng quăng trên những đọt sắn. Tiếng lá thông reo vi vu. Tiếng chim kêu rời rạc. Mấy chiếc lá khô đuổi nhau chạy loi choi về cuối vườn. Một đám mây trôi bâng khuâng trên vòm trời rộng, xanh lơ.

Chú điệu thấp, đen huơ mạnh cây chổi. Những chiếc lá vàng khô tung lên, rớt xuống. Cây chổi lại quét mạnh đẩy chúng về một phía. Lá lại bay lên, đáp xuống.

Những nhát chổi đều đặn hất tới, hất tới; những tấm lá bị đùa nhích tới vài bước rồi lại lì lợm nằm chờ nhát chổi kế tiếp.

Nắng dịu dần, gió thổi mạnh hơn. Nơi chân trời xa đã thấy thấp thoáng vài cánh chim bay về tổ. Tiếng nghé ọ của bầy trâu vọng lại từ con đường băng ngang sau đồi. Giọng hát trong trẻo của cô gái nào đó đang giặt dưới bến sông chốc chốc lại theo gió thoảng lên. Con chích chòe đậu trên cành thông cất tiếng hót phụ họa...

Chú điệu thấp dồn lá lại thành đống rồi chạy nhanh vào nhà bếp lấy cái bội tre. Lá sẽ được cất để chụm dần. Chú nhanh nhẹn hốt từng ôm lá nhét vào bội. Một, hai, ba, bốn... Bỗng một cơn gió quái ác: r...ào... ào, ào tới hất đám lá bay tứ tung. Chú điệu thấp loay hoay huơ chổi quét dồn lại. Nhưng mới hốt được một ôm, cơn gió thiên lôi lại ào tới phá đám.

- Cái lão gió này!

Chú đứng lên nhìn theo những chiếc lá bay chờn vờn như trêu ghẹo. Chú tức bực:

- Đồ phá đám!

- Ai phá đám?

Câu hỏi vang lên đột ngột.

Chú điệu đen, thấp quay lại. Chú điệu cao, trắng xách hai gốc sắn còn nguyên củ, tay cầm cái cuốc chỉa đứng đó tự bao giờ, cười hì hì.

- Gió chứ ai!

- Gió đâu?

- Đâu? Chú chỉ gió cho tôi coi nào?

- Thì đó... ủa!

Chú điệu đen, thấp ngớ ra, im lặng, vì lúc ấy trời không một chút gió. Những đọt thông thôi reo. Những chiếc lá nằm yên không nhúc nhích.

Im lặng.

- Gió đâu? Đâu là gió?

Chú điệu cao, trắng đứng cười hì hì, hà hà.

Chú điệu đen, thấp nhíu mày, bặm môi, quay qua quay lại. Chú tìm gió! Chợt chú ngồi xuống lượm cây chổi, nhanh như chớp, quất mạnh vào đôi chân của chú kia.

- Ý da! Sao chú đánh tôi? Chú điệu cao nhảy cẫng lên la lớn.

- Gió đấy! Gió đấy! Chú điệu đen, thấp lại cười khà khà.

Chú điệu cao, trắng tức tối:

- Đó là chú đánh tôi chứ gió đâu mà gió!

Chú điệu đen, thấp lên giọng:

- Chuyển động là gió. Kinh dạy như thế mà! Tôi là gió mà chú là vật bị gió quật chứ có gì lạ đâu! Hì hì...

- Được đấy!

Nói xong chú điệu cao, trắng hậm hực, quày quả đi về phía nhà bếp.

Chú điệu đen, thấp đứng chống chổi nhìn theo cười khì, rồi nhanh nhẹn cúi xuống ôm lá nhét vào bội.

Trời đã nhá nhem. Tiếng chuông công phu bắt đầu buông thong thả từng gióng một. Trên chánh điện, ánh sáng từ ngọn đèn lọt qua những khung cửa phóng thành những vệt dài trên các lối đi, cây cảnh, lùm bụi quanh chùa.

Sau giờ công phu tọa thiền, Tăng chúng qui tụ tại pháp đường. Ba hồi kiền chùy gióng lên. Tất cả chấp tay nghiêm cẩn. Hòa thượng bước vào và lên pháp tòa. Sau khi niệm Phật hiệu, hòa thượng cao giọng:

- Đêm nay, bần đạo sẽ đưa ra một công án. Quí vị ai có đủ thẩm quyền xin bước ra ấn chứng.

Rồi Ngài tiếp:

- Sinh tử là việc lớn. Quý vị cát ái từ thân vào chốn thiền lâm để làm gì? Phải chăng là nối gót chí nguyện của lão già mặt vàng và tên rợ mắt xanh? Vậy thì hãy quyết chí hạ thủ công phu, đêm ngày quên bặt. Trọn cả thân tâm như đặt trên bờ vực cao ngàn trượng; như ở trong đám cháy lớn bốn phía hừng hực, ráng mà chạy thoát ra ngoài; như ở trong cơn đại hồng thủy bị nước cuốn trôi, cố hết sức bám vào một mảnh gỗ duy nhất trôi bập bềnh trên sóng nước. Mau lên! Mau lên! Chớ để bạch câu vút qua, thoi đưa thấm thoắt rồi ngàn sau ân hận!

Nhảy qua! Nhảy qua bờ kia! Hãy nhảy qua cả bờ kia nữa, hỡi chư thiện hữu! Bodhisvàhà!

Công án thứ hai mươi ba của Vô Môn. Hai ông tăng tranh luận gió và phướn.

Một ông nói:

- Phướn động!

Ông kia bảo:

- Gió động!

Cả hai cãi qua cãi lại không ra lẽ.

Lục Tổ đi qua bảo:

- Không phải gió động, không phải phướn động. Tâm hai ông động đấy.

Hai ông tăng giật mình kinh sợ.

Bây giờ bần đạo xin được hỏi quý vị:

- Phướn động hay gió động? Nói mau! Nói mau!

Pháp đường ngột ngạt. Con tắc kè trên nóc điện tắc lưỡi thở dài.

Chợt một vị tăng bước ra. Hòa thượng hỏi:

- Phướn động hay gió động? Mau!

 "Gió thổi mưa dồn dập
Trời không, không gợn mây."

- Tha cho ba chục hèo!

Vị tăng cúi lạy một lạy rồi lui về chỗ cũ.

Hòa thượng nhìn quanh cao giọng:

- Cả pháp đường không lẽ toàn là bọn giá áo túi cơm cả ư?

Im lặng trôi qua.

Hòa thượng bước xuống pháp tòa.

Chợt phía sau tăng chúng, chú điệu thấp, đen chạy ra:

- Bạch hòa thượng!

Hòa thượng chững lại, thét lớn:

- Là gì?

Chú điệu đen, thấp la to:

- Lão bán củi đất Dương Châu động chứ không phải hai ông tăng động.

Hòa thượng chụp vội cây gậy phang thẳng cánh vào người chú điệu.

- Ai động? Nói mau!

- Hòa thượng!

Nói xong, chú điệu thấp, đen cúi lạy đi về chỗ cũ.

Hòa thượng đưa gậy lên trời đứng sững, rồi bước ra khỏi pháp đường về tịnh thất.

Chú điệu đen, thấp cũng lách mình ra cửa. Chú chạy về hậu viện. Trong lúc vội vàng chú vấp phải vật gì ngáng ngang đường, té sấp xuống. Chú vội lom khom trổi dậy.

Chưa kịp hoàn hồn thì đã nghe quát:

- Ai động ? Nói mau!

- Dạ, không biết!

Chú ngửng đầu lên nhìn người lên tiếng hỏi.

- A! Té ra chú!

- Hì hì... Ai động? nói mau!

Chú điệu cao, trắng vừa cười vừa hét nhỏ.

Chú điệu đen, thấp im lặng quay mình đi vào đêm tối.

Bầu trời chợt như cao hơn, sâu thẳm hơn, huyền diệu và mông lung hơn với vô vàn hạt sao li ti lấp lánh nhảy múa.

Có tiếng rơi nhè nhẹ đâu đây...

Pháp Tông
Mùa Thu 1980

 


Trăng không lặn

Chú điệu Tâm vừa mới vào ở chùa, những đêm đầu tiên vì nhớ nhà nên chú cứ đi thơ thẩn mãi ở ngoài vườn.

Hôm nọ chú ngồi khóc một mình, thấy Vô Văn đi ra, điệu đánh trống lảng:

- Ồ! Đêm nay trăng sáng quá!

Vô Văn ra vẻ ta đây:

- Rõ vớ vẩn! Trăng thì khi nào lại không sáng, cứ gì đêm nay!

Điệu Tâm cãi:

- Hôm qua nó có sáng đâu.

- Có chứ!

- Tối om!

- Sao lại tối ?

- Vì bị mây che.

Vô Văn cười hít hít:

- Đấy, vì bị mây che chứ không phải trăng không sáng.

Điệu Tâm im lặng.

Vô Văn lên giọng kẻ cả:

- Nghe thơ đây:

 "Trăng vốn sáng nhưng lòng mây u uất
Che nguồn trăng không soi thấu lá cành"

Này nhé! Trăng chính tuệ giác đấy! Mây chính là vô minh. Vô minh che mờ tuệ giác! Chú em có hiểu thế không?

Điệu Tâm lắc đầu:

- Em không biết!

Vô Văn trừng mắt:

- Không biết? Đồ ngốc! Thế thì học đi! Vậy có thuộc mấy câu thơ của Đại sư bá không hở?

- Sao ạ ?

- Thơ thế này:

 “Ngàn xưa từ ngàn xưa
Chưa một lần trăng lặn!"

Vô phúc cho chú, vừa lúc Sơ Tổ đi ngang, nghe được, nói khẽ:

- Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi lại khuyết, ta có bảo trăng không lặn bao giờ đâu mà nói oan cho sư bá thế!

Vô Văn thè lưỡi, lủi mất.

 


Lý do ngủ không nằm

Vị khách kia nghe đồn nhà sư ngủ không nằm, hâm mộ lắm, tìm đến và xin được gặp mặt.

- Đại đức hành pháp môn cao thượng này được bao nhiêu lâu rồi?

- Ý ngài muốn nói chuyện gì? Nhà sư ngạc nhiên hỏi.

- Chuyện đại đức ngủ mà không nằm đấy!

Nhà sư cười:

- À, cám ơn ngài đã có ý hỏi han. Vâng, từ khi bần tăng bị mấy cái mụt nhọt ở nơi lưng, nơi hông nó hành, từ đấy bần tăng không còn nằm được nữa!


Chiêu thức của Đa Trí

Một thanh niên có vẻ trí thức đến chùa, ngồi thuyết tràng giang đại hải về chân lý, tuyệt đối, bản thể. Cuối cùng, y tóm tắt:

- Như vậy, rõ ràng là "nhất thiết pháp không", tôi không, các chú không, không có sở đắc, không có Niết-bàn, viên mãn không, tất cánh không.

Đa Trí chăm chú lắng nghe, rồi lắc đầu:

- Vô lý, thậm vô lý!

Khách ngạc nhiên:

- Tại sao vậy? Tôi đã nghiên cứu hầu hết hai truyền thừa Bắc và Nam tông, có khác gì những điều tôi nói.

Đa Trí nhếch mép:

- Bởi vậy tôi mới bảo là tào lao!

Khách tím mặt giận run.

Hồi lâu, Đa Trí mới cười cười, nhã nhặn:

- Như vậy chứng tỏ cái "giận" của ông bạn là có thật đấy chứ ạ?

Khách "à" một tiếng rồi ngớ ra.


Đáp án của Vô Văn

Vô Tâm về thăm nhà lên, gặp Vô Văn đang tưới ớt bên hông chùa, chú hí hửng kéo Vô Văn lại gốc cây.

- Công án mới đây! Hãy chăm chú lắng nghe! Sẵn sàng chưa?

- Sẵn sàng rồi!

Vô Tâm kể:

- "Một người cha đánh con. Lần thứ nhất bảo là không được khóc. Lần thứ hai bảo, không khóc thì được rồi, nhưng cấm chảy nước mắt. Lần thứ ba lại bảo, không khóc, không chảy nước mắt, nhưng cấm cái bản mặt tỉnh bơ như thế".

Vậy trường hợp chú thì chú tính sao? Hử? Nói đi! Nói ngay tức khắc!

Vô Văn đứng dậy:

- Tôi đi tưới cây.

 


Đạo... lan!

Đa Trí ngồi nhìn chú Đa Thức tưới lan, săn sóc lan, chú nhăn mày suy nghĩ rất lâu rồi hăm hở đến gặp nhà sư.

- Thầy à! Con vừa tìm ra được cái Đạo... lan!

- Sao? Đạo lan là? Thử nói ta nghe.

- Dạ, chơi lan phải biết "cho đi" tiền bạc, thì giờ, công lao, sức khỏe... Biết "cho đi" nhiều thứ như vậy thì có khác gì bố thí ba-la-mật... lan?

Nhà sư nhăn mày:

- Cứ nói tiếp.

- Phải chăm sóc, gìn giữ cẩn thận từng cái rễ, cái lá, cái nụ, cái chồi... cũng như giữ gìn thân, khẩu, ý vậy. Cái đó được gọi là trì giới ba-la-mật... lan!

- Được lắm!

- Phải cố gắng thường xuyên, không được lười biếng, cẩu thả, bê trễ. Phải chăm tưới hằng ngày; tưới ít hoặc nhiều lại còn tùy nắng hay mưa, khô hay ẩm, lạnh hay nóng, không được phép dễ đuôi. Cái ấy được gọi là tinh tấn ba-la-mật... lan, không sai!

- Ồ!

Đa Trí hăng hái nói tiếp:

- Phải biết rõ đây là loại nấm đà, nấm đen, nấm trắng... do vi khuẩn nào gây ra. Phải biết phân biệt đâu là bệnh rầy, bệnh cháy lá, bệnh thối lá, thối đọt, thối rễ; bệnh do ung thư, còi cọc, do úng rễ, phỏng lá; bệnh do khô quá, ướt quá... để mà cứu chữa kịp thời. Đấy không phải là trí tuệ ba-la-mật... lan là gì?

- À!

- Khi tưới tắm chăm sóc thì để trọn tâm hồn vào đấy, chăm chú, chuyên nhất,... Cái đó gọi là thiền định Ba-la-mật... lan chính hiệu!

Thấy Đa Trí còn muốn nói nữa, nhà sư ngăn lại:

- Thôi đủ rồi! Vậy là ta hiểu rồi!

Đa Trí hỏi:

- Vậy thầy nghĩ thế nào? Ấy có được gọi là Đạo chăng?

Nhà sư mỉm cười:

- Ta bây giờ già rồi, đầu óc lú lẫn, không có được "biện tài giải", "tuệ phân tích" như con. Con đã "không thầy chỉ dạy" mà tìm ra con đường cho chính mình, khác con đường của các đấng Như Lai! Khá lắm!

Đa Trí nhũn nhặn:

- Dạ, con không dám! Con chỉ mới suy luận thôi!

- Ồ! Vậy ta cũng suy luận đây! Ta hỏi con nhé, nếu có cái được gọi là ba-la-mật lan, thì cũng phải có ba-la-mật cuốc đất, ba-la-mật nhổ cỏ, ba-la-mật lái xe, ba-la-mật họa, ba-la-mật thơ, ba-la-mật đánh cờ... có phải không?

Đa Trí vỗ tay:

- Chính thị! Chẳng có gì không có Ba-la-mật cả! Chẳng có gì mà không có Đạo. Rồi chú ngâm:

 “Mười phương chân lý, Đạo
Thảy thảy hiện trần sa
Thảy thảy ba-la-mật
Thảy thảy Bồ-đề-tát-bà-ha!"

Nhà sư ôn tồn hỏi:

- Con nè, thế ba-la-mật lan của con với ba-la-mật của Phật không có gì khác nhau đấy chứ?

- Dạ, không khác. Chân lý vốn chỉ có một mà thôi. Đã Đạo rồi thì đâu cũng là Đạo cả.

- Con này, nhà sư chậm rãi nói - không đâu là không có Đạo. Đồng ý! Nhưng cái Đạo lan của con có giải thoát được sầu, bi, khổ, ưu, não không?

- Dạ, có chứ! Đa Trí mau mắn đáp - Nhìn lan nở là con giải thoát liền!

- Có an vui tự tại không?

- Dạ có!

- Rất tốt! Rất tốt!

Rồi nhà sư nhẹ nhàng vỗ vai Đa Trí mà rằng:

- Con nè, việc tưới lan, chăm sóc lan, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm nọ thật là vất vả; nên trước đây, chư tăng họp lại rồi phân công đồng đều để các chú có cơ hội tu tập công đức. Nay con đã "thâm ngộ" cái Đạo lan, đã giải thoát được nhờ Đạo lan, đã an vui tự tại được cũng nhờ Đạo lan. Quí hóa thay! Hy hữu thay! Vậy thì từ nay, con hãy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định, trí tuệ ba-la-mật cái vườn lan "một mình" cho chùa vậy nhé!

Đa Trí tròn xoe mắt một hồi rồi tự rủa thầm: "Ta tự hại ta rồi?"


Đường... ta!

Ối dào! Đường lên chùa sư nó xa quá trời là... "xa"!

Sư vốn lãng tai, hỏi:

- Con nói cái gì... "ta"?

- Dạ, đường ạ!

gật gù đáp:

- Phải rồi! Đường... ta, ta... đường! Khi tâm phân biệt thì có "ta", có "đường"! Còn khi tâm không phân biệt thì "không thấy ta", "không thấy đường". Đã vong năng, vong sở, không ta, không đường thì chẳng thấy đâu là xa, đâu là gần cả con ạ!

 


Ni lâu đạo hữu buôn bán mần ăn ra sao?

Một thương gia giàu lòng tín tâm, làm phước, bố thí rất nhiều. Sau mấy tháng chuyên tâm nghiên cứu về giáo pháp, hôm kia ông ta đến gặp nhà sư:

- Bạch thầy! Mọi pháp hữu vi đều là vô thường, đau khổ, vô ngã...

- Đúng thế!

- Nếu các pháp vốn là vô tự tính, không thực hữu, tất cả đều là không, vậy chẳng hay, tu giới, tu định, tu huệ thì "được" cái gì, "lợi" cái gì?

Nhà sư tủm tỉm cười rồi hỏi:

- Ni lâu đạo hữu buôn bán mần ăn ra sao?

-!?


Chém luôn!

Tại sao Nam Tuyền trảm miêu?

Đấy là câu hỏi được đem ra bàn cãi trong giờ uống trà buổi tối.

Một vị sư nói:

- Có lẽ Nam Tuyền lão sư muốn xóa bỏ cái chấp thủ về sở hữu của lưỡng đường.

Vị khác:

- Chưa chắc là vậy. Ngón trỏ chính là ở nơi ý niệm đúng, sai, có, không của lưỡng chúng; chém mèo là hành động tối hậu để đẩy tâm thức môn sinh vượt khỏi bến bờ nhị nguyên đối đãi.

- Trật lất! Vị sư khác phát biểu - Chán chi cách khai mở tuệ giác mà lại dùng phương tiện sát sanh để phạm tội giới? Ý hẳn Nam Tuyền hòa thượng muốn vén mở tâm thức giải thoát, vô tác, vô hành, không còn chi phối bởi nhân quả chăng?

Một vị la lên:

- Trời ơi! Thế là tà kiến! Thế là rơi vào "đoạn diệt luận" của chúng ngoại đạo. Biết đâu hành động chém mèo chỉ là hành động bình thường nói về nhân quả, nghiệp báo?

Thấy các Sư tranh luận, Vô Văn không dám "thèo leo", bèn chạy một mạch ra bến sông, vừa lấy tay phạt làm đao vừa la lớn:

- Con mèo chấp thủ: chém một đao!

 Con mèo nhị nguyên: chém một đao!

 Con mèo vô nhân quả: chém một đao!

 Con mèo hữu nhân quả: chém một đao!

Lúc đó Sơ Tổ đang đi dạo mát giữa trăng, nghe được, nhẹ nhàng bước tới:

- Vô Văn!

- Dạ!

- Còn con một đao, ta một đao nữa, chém luôn!

Vô Văn nghe một luồng khí lạnh chạy dọc xương sống, chú quỳ xuống, sụp lạy!


Hạng người ưu thắng

Lúc này, giới tử vào chùa đông: điệu Tân, điệu Lộc, điệu Hạnh (chưa có pháp danh), Vô TưVô Ý. Đa Thức nhận trách nhiệm quản chúng cùng dạy kinh, dạy giáo lý.

Hôm kia, Đa Thức giảng một đoạn kinh ngắn rồi chú kết luận:

- Thế là có hai hạng người ưu thắng thường được đức Phật khen ngợi: "trong tâm có cấu uế biết rằng có cấu uế, trong tâm khôngcấu uế biết rằng không có cấu uế."

Buổi trưa có thức ăn ngon, các điệu dùng sau, làm hết luôn phần chó và mèo, những cái bụng đầy căng!

Đa Thức xuống tận nơi, ôn tồn nói:

- Vậy là tâm các điệu có "cấu uế" đấy, biết không? Ăn quá độ, tham ăn là cấu uế, đã rõ chưa?

Tất cả đồng thanh đáp:

- Dạ rõ!

Đa Thức giáo huấn:

- Vậy lần sau bỏ cái tính tham ăn ấy đi nghe!

Vô Tư cười hì hì:

- Bỏ làm chi, chú, "Tâm có cấu uế biết rằng tâm có cấu uế", ấy là hạng người ưu thắng thường được đức Thế Tôn khen ngợi mà!

Đa Thức đưa hai tay lên trời!

 


Cái gì bẩn?

Mấy lúc sau nầy các Sư bận học hành, nghiên cứu nên công việc trong ngoài đều giao hết cho các chú.

Nhân đầu mùa trồng trọt, các chú họp bàn thảo luận công việc với nhau. Vô Văn nói:

- Ta chỉ có một sào đất màu mỡ bên sông, vậy nên trồng gì để có khả năng kinh tế cao nhất?

Đa Trí nói:

- Nên trồng thuốc lá bán nhiều tiền, nó "lợi" hơn các loại khác gấp bội.

Đa Văn nói:

- Thuốc lá tốn nhiều phân, nhiều công, lợi bất cập hại đấy. Trồng bắp và đậu là khỏe re, tuy ít tiền nhưng được "lợi" thì giờ.

Đa Thức đứng dậy bỏ đi. Vô Văn hỏi:

- Chú đi đâu ?

- Tôi đi rửa tai!

- Tại sao ?

- Tu hành mà người thì bảo lợi "tiền", người thì bảo "lợi thì giờ"! Không bẩn tai sao được chứ?

Vô Văn bước nhanh lại, vạch tai chú Đa Thức xem, rồi gật đầu:

- Đúng vậy! Té ra tai chú bẩn! Hèn gì!

Đa Trí và Đa Văn được dịp cười khoái trá!


Thiệt là tiện lợi

Vô VănVô Ý đang đào lỗ trồng chuối, chợt chú Vô Ý dừng cuốc nói:

- Chú Vô Văn nè! Khoa học đã đến trình độ chế biến vải, thịt heo... từ dầu hỏa; làm nước ngọt giải khát từ rong biển. Vậy tại sao người ta không sáng chế ra một loại máy, mà khi găm xuống đất nó hút lên nào ngọt, nào bùi, nào béo...? Thiệt là tiện lợi hết ý!

Vô Văn lắc đầu:

- Chẳng tiện lợi chút nào. Cả một đống phiền phức xuất hiện: Đầu tư công tác thí nghiệm, chế máy; rồi nhân công, nhiên liệu, bảo trì .v..v... Chi bằng cứ như thế này; ưa ngọt thì trồng chuối, trồng mít; ưa cay thì trồng ớt, trồng tiêu; ưa béo thì gieo đậu phụng, đậu nành.v..v... Thế không tiện hơn sao?


Mời quý ngài dùng trà kẻo nguội

Hôm đó nhân buổi Trung Thu, tại vườn Thanh Tâm có cuộc họp mặt đông đảo các vị trí thức gồm học giả, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo.v..v... Trong không khí mát mẻ, đầm ấm, họ uống trà thảo luận chuyện văn chương, chữ nghĩa. Sau rốt, có người đặt câu hỏi, giáo pháp của đức Phật, cái gì là quan trọng nhất? Thế là mọi người đưa ra ý kiến, quan điểm của mình. Họ yêu cầu nhà sư chủ trì cuộc thảo luận này.

Người thứ nhất: Theo tôi, cái quan trọng nhất của đạo Phậttrí tuệ. Có trí tuệ mới biết đường, biết sá mà đi, khỏi rơi vào tà lộ, khỏi bị lầm lạc. Nói đến đạo Phật thì trí tuệ là đệ nhất.

Người thứ hai: Nói thế là đúng, nhưng là cái đúng chưa trọn vẹn. Đạo Phật gồm đủ cả hai: Trí TuệTừ Bi. Nếu khôngTừ Bi thì đạo Phật có mặt trên đời này để làm gì? Thuyết pháp độ sanh cho ai? Coi chừng Từ Bi còn quan trọng hơn Trí Tuệ nữa đấy.

Người thứ ba: Tự Tại mới là cái tối thượng của đạo Phật, Trí TuệTừ Bi là hai cánh của một con chim để bay đến chân trời Tự Tại. Nếu khôngTự Tại, chúng ta sẽ sống đời lao chao như những con lật đật, nghiêng bên này, ngả bên kia; sẽ bị pháp trần cuốn trôi vào dòng sông sinh tử đầy hệ lụykhổ não.

Người thứ tư: Thế cũng chưa rốt ráo. Nói Tự Tại thì phải nói đến Tự Do mới trọn nghĩa. Không có tự do thì làm gì có tự tại? Không có tự do, mình sẽ bị lệ thuộc, gông cùm, ràng buộc. Vả lại, kẹt vào Tự Tại có nghĩa là nô lệ, phụ thuộc Tự Tại vậy. Theo tôi, Tự Do mới là cái chân phúc.

Người thứ năm: Không có ai sai cả, nhưng Giải Thoát mới là cái cao nhất, rốt ráo nhất. Quý vị không từng thấy thế gian này đau khổ vì bị buộc ràng bởi tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, vợ con... Biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ ra từ những tham vọng quyền lực, tham vọng thế gian kia! Giải Thoát mới là cái tối thượng của Phật đà.

Người thứ sáu: Ngài nói không sai! Nhưng mà nếu hiểu Giải Thoátbuông bỏ tất cả những điều ấy, coi chừng sẽ rơi vào "hư vô luận". Không rơi vào "hư vô luận" cũng dễ bị thế gian hiểu lầm là thiếu trách nhiệm, thiếu bổn phận với cuộc đời. Theo tôi, Giác Ngộ mới là mục đích tối thắng của Phật Đạo. Đức Phật cũng được gọi là đấng Giác Ngộ, đấng Toàn Giác, đấng Diệu Giác! Rồi Thanh Văn Giác, Duyên Giác, Độc Giác. Ở đâu cũng có chữ “giác” ấy cả. Không có Giác Ngộ thì chúng ta sẽ còn theo đuổi không biết bao nhiêu mục đích hư huyễn trên trần gian này. Không Giác Ngộ chúng ta sẽ lập đi lập lại mãi những việc làm vô ích, ngu si chỉ đem đến đau khổ cho mình và người thôi. Vậy Giác Ngộ mới là đích điểm rốt ráo.

Sau lời phát biểu của vị thứ sáu, không khí lắng lại một lúc. Mọi người đều có vẻ trầm ngâm. Chợt một người trung niên đeo mắt kiếng, cười cười góp ý.

Người đeo kiếng: Tôi phát biểu có lẽ là hơi lếu láo, xin chư quân tử xá tội cho. Tôi thấy ai phát biểu cũng đúng cả. Người sờ đến cái trán Trí Tuệ thì nói Phật giáoTrí Tuệ, đâu có sai! Người sờ được cái tâm Từ Bi thì nói Phật giáoTừ Bi, cũng đúng! Tự Tại, Tự Do, Giải Thoát, Giác Ngộ... đều đúng cả. Xin thưa, Phật giáo phải là toàn diện những điều quý vị vừa nói. Thiếu một, thiếu hai, thiếu ba... thì con-voi-thực-tại-toàn-diện của Phật giáo bị què, bị cụt còn gì? Vậy xin quý Ngài cho biết tôn ý?

Người đeo kiếng phát biểu xong, ai cũng cảm nhận là ông ta nói đúng nhất. Đúng! Phải là toàn bộ con voi, toàn bộ thực tại ấy. Chẳng có ai tranh luận vượt qua kiến giải ấy. Tuy nhiên, chợt có người thở dài, nhìn sang thì đấy là tiếng thở dài của một ông lão tóc trắng. Rồi vị ấy nói chậm rãi, nó nhỏ, như chỉ nói với mình:

- Trí Tuệ ư? Cũng hay! Nhưng kẻ có được trí tuệ thì dễ sinh cống cao, ngã mạn, coi thế gian này như cỏ rác. Trí tuệ thường đứng cao hơn nhân thế một cái đầu, hai cái đầu, sẽ cách biệt với cuộc đời. Do vậy, đã mấy năm sau này, tôi không còn dám học trí nữa mà tôi lại học "ngu". Học "ngu", cái mới kỳ! Tuy nhiên học "ngu" là để "hòa kỳ quang, đồng kỳ trần" đấy quý vị ạ. Tôi có nhớ Thiền sư Huyền Quang có mấy câu:

Ngu-trí, trí-ngu bình đẳng tướng
Ma cung, Phật quốc hảo sinh quan"

Còn Từ Bi? Cái này thì đúng rồi. Thiếu từ bi thì cuộc đời này đầy nước mắt, đầy gian ác, hận thù... Nhưng mà coi chừng, từ bi quá thì chúng sanh cứ ỷ lại, biếng nhác, luôn luôn mong cầu ơn trên cứu rỗi. Con hư tại mẹ đó mà! Vậy từ bi cực đoan sẽ làm cho cuộc đời này cũng hư như thế. Lại nữa, tâm từ bi quá cũng phiền. Có mật ngọt thì kiến ruồi dễ bu. Có từ bi thì chúng sanh dễ tìm đến hưởng lợi. Vô tình bị hệ lụy, bị ràng buộc mất rồi! Do vậy, ai thì tôi không biết, riêng tôi, tôi còn học thêm cái hạnh "không từ bi" nữa. Không từ bi nhưng không phải là ác tâm, hận tâm, sân tâm, xin quý vị hiểu cho.

Còn Tự Tại? Tôi cũng đồng ý. Nhưng tự tại quá tôi cũng ớn lạnh. Vì sao vậy? Người tự tại, trước hoàn cảnh nào cũng trầm ổn, định tĩnh, bình chân như vại, lúc nào cũng tỉnh queo, tỉnh khô. Nếu tự tại hơn chút nữa thì sẽ biến thành tảng đá, đỉnh núi khư khư bất động cũng ớn lắm. Lẽ đó, tôi còn học thêm cái "không tự tại".

Tự Do cũng vậy, cũng hay, nhưng tự do tâm linh hay tự do bản năng đây? Tự do bản năng thì không được rồi, còn tự do tâm linh thì lại khác. Kẻ có tự do tâm linh thì không còn thích sống tự do, họ tự qui định mình trong những mẫu mực, qui củ, hình thức, lễ nghi. Và tôi cũng vậy, tôi đang tu tập trên lối về "không tự do".

Giải Thoát à? Đạo Phật thường nói đến chủ đích này. Nhưng mà giải thoát hết thì tôi không thích, vì tôi đang còn ở trong cuộc đời này, tôi còn có vợ con, gia sản, tình huynh đệ, bằng hữu, thầy trò, thôn xóm, quê hương và cả nhân loại nữa. Nên tôi, với từng này tuổi đầu, tôi đang tập tành cái "không giải thoát".

Giác Ngộ nữa, đồng ý! Nhưng giác ngộ quá thì ta còn làm được điều gì trên cuộc đời này? Không làm được cái gì cả. Vì sao vậy? Vì giác ngộ nên ta đã biết ráo trọi mọi kết quả sau cùng, mọi kết quả hư huyễn "dã tràng xe cát biển đông" của nó. Giác ngộ thì sẽ không còn vọng tưởng để mà tạo hỏa tiễn máy bay, chinh phục sao kim, sao hỏa, xây dựng lâu đài, dinh thự... Do vậy sau này tôi còn học cái bài học "không giác ngộ" nữa.

Nói tóm lại, cả hai đàng đều phải học hết mới là trọn vẹn đạo Phật. Xin cạn lời!

Cuộc thảo luận đến đây dường như hết ý. Mọi người quay qua muốn nghe lời phát biểu của vị chủ trì.

Nhà sư mỉm cười nâng chung trà lên:

- Xin chư vị dùng trà kẻo nguội lạnh lâu rồi!

Mọi người lặng người giây lâu, rồi chợt cười ha hả.


Viết lại, Yên Hà Các, thu 1981
Nhuận sắc, Phong Trúc Am, thu 1996
Tái nhuận sắc, Am Mây Tía, thu 2002

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9786)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10337)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9177)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20440)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8749)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9188)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9448)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8352)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9389)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7968)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8618)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9629)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9508)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9067)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9638)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27115)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32701)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27751)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9389)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23270)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant