Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12064)
Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG V: TRUYỀN BÁ TỊNH ĐỘ GIÁO Ở PHƯƠNG NAM

Tiết 1: Những nơi các môn hạ của Huệ Viễn truyền đạo

Lô sơn, ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xã, cùng với đại chúng chuyên tu niệm Phật tam-muội, danh đức của ngài cảm hóa vang dội một thời, như đã nói ở chương 3. Sau khi, ngài Huệ Viễn viên tịch, ngài Đạo Bính trụ trì tinh xá Đông Lâm, các đệ tử Đàm Hằng, Đàm Sằn v.v… cũng đều trú ở trong núi, tuyên dương di phong của đại sư; Lô sơn trở thành vùng đất tốt lành của tông Tịnh Độ, mãi mãi hưng thịnh, cũng chẳng phải khó tưởng tượng. Ngoài ra, kết chúng Liên xã, đệ tử của ngài Huệ Viễn du hóa các phương cũng không ít, tín ngưỡng Tịnh Độ cũng nhờ đó mà truyền bá khắp nơi, dân chúng cũng cảm ứng được ánh sáng của Phật. Trong đó có các ngài Đàm Thuận, Đàm Ung, Tăng Triệt v.v… ban đầu đều ở Lô sơn, về sau họ cùng đến Giang Lăng (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc) truyền đạo, cư sĩ Tông Bính cũng dựng nhà ở ẩn tại Tam Hồ, Giang Lăng. Về sau, Đàm Giám cũng đến hoằng pháp ở vùng đất này.

Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài Đàm Giám là đệ tử của ngài Đạo Tổ môn nhân ngài Huệ Viễn, giữ gìn giới luật tinh nghiêm, nghiên cứu tường tận các kinh và từng đến Trường An thụ học với ngài La-thập. Về sau, ngài ở chùa Tân, Giang Lăng, thường chiêm lễ Phật A-di-đà, cầu sinh An Dưỡng”. Điều này cho chúng ta biết sự truyền bá pháp môn Tịnh Độ đến Giang Lăng có rất sớm. Thành Đô (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên) là nơi ngài Huệ Trì em ngài Huệ Viễn từng du hóa. Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Huệ Trì thường lấy Tây phương làm điểm hẹn. Niên hiệu Long An thứ 3 (399TL), thời Đông Tấn, ngài chia tay với ngài Huệ Viễn, đến nước Thục, dừng ở tinh xá Long Uyên, truyền bá rất rộng Phật pháp. Lúc ngài mới đến có các ngài Huệ Nghiêm, Tăng Cung, đạo tục đều tôn trọng, kính phục danh đức của ngài. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 8 (412TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi, Về sau, có hai đệ tử của ngài là Đạo Hoằng và Đàm Lan truyền bá pháp môn Tịnh Độ”.

Lại nữa, có ngài Đạo Uông cũng một mình đến Thành Đô, Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng sao có ghi: “Thuở nhỏ, ngài xuất gia với ngài Huệ Viễn, nghiên cứu tổng quát kinh luật, nhưng rất giỏi về kinh Niết-bàn, ăn rau suốt mấy mươi năm. Sau đó, ngài về Thành Đô, trú ở chùa Kỳ-hoàn và khởi tuyên đại pháp. Thái Thỉ nguyên niên (465TL), thời Lưu Tống, ngài thị tịch”. Thời Hậu Tề, ngài Pháp Lâm cũng đến nước Thục, tinh tấn chuyên tu tịnh nghiệp.

Lại nữa, có ngài Đạo Ôn đệ tử của ngài Huệ Viễn cùng với kết chúng Liên xã như Chu Tục Chi, Lôi Thứ Tông v.v… nối tiếp nhau dời đến thủ đô Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô). Ngài Đạo Ôn, Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài là người Triêu Na, An Định (huyện Bình Thuần, tỉnh Cam Túc), vào Lô sơn, thụ học với ngài Huệ Viễn, sau đến Trường An, thân cận ngài La-thập. Trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453TL), thời Tống, ngài dừng chân ở chùa Đàn Khê, Tương Dương, đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến (454TL) được sắc lệnh trụ trì chùa Trung Hưng ở Kiến Khang. Niên hiệu Thái Thỉ thứ 2 (466TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi”.

Lại nữa, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2 (421TL), thời Tống, Dương Đô (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô) là nơi ngài Phật-đà-bạt-đà-la và ngài Bảo Vân dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Trang đệ tử của ngài Huệ Viễn cũng đến cư trú ở đây. Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài Pháp Trang là người Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), mười tuổi xuất gia, là đệ tử của ngài Huệ Viễn. Về già, ngài đến Quan Trung và thụ học với ngài Tăng Duệ. Đầu niên hiệu Nguyên Gia, ngài rời Dương Đô đến trú ở chùa Đạo Tràng, tụng các kinh như Pháp hoa, Niết-bàn v.v…Đầu niên hiệu Đại Minh (457TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi”.

Lại nữa, người du hóa đến Giang Chiết cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển thứ 5 ghi: “Ngài Huệ Độ xuất gia lúc nhỏ, rồi vào Lô sơn. Đầu niên hiệu Nghĩa Hy, thời Tấn, ngài đến chùa Gia Tường, Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Về sau, bị bịnh, ngài hướng tâm về An Dưỡng, chí thành cầu khẩn Quán Thế Âm, nên lúc lâm chung cảm ứng được điều lành”.

Ngài Đạo Kính đệ tử của ngài Huệ Viễn vào núi Nhược Tà (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), chấn hưng Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.

Ngài Đàm Dực đến núi Tần Vọng (Hàng Châu, Chiết Giang) kiến lập tinh xá. Như chương 3 đã nói.

Lại nữa, tương truyền ngài Đạo Tổ về sau cũng vào nước Ngô (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), theo Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Ban đầu, ngài Đạo Tổ xuất gia với ngài Pháp Tề, người Nhục-chi, sau đó cùng với các ngài Tăng Thiên, Đạo Lưu v.v… đồng chí hướng, cùng vào Lô sơn thụ giới, là những người được ngài Huệ Viễn kỳ vọng, nhưng hai ngài Tăng ThiênĐạo Lưu đều mới hai mươi tám tuổi đã qua đời. Đạo Tổ bèn đem di cảo, chư kinh mục lục của Đạo Lưu tu chính biên tập lại, sau đó ngài trở về chùa Đài, nước Ngô. Nguyên Hy nguyên niên, thời Đông Tấn (419TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi”. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 7 ghi: “Ngài Đạo Tổ đã soạn mục lục có 4 quyển: 1. Ngụy thế mục lục; 2. Ngô thế mục lục; 3. Tấn thế mục lục; 4. Hà Tây mục lục, tất cả đều được lưu hành rộng rãi ở thế gian”.

Ngoài ra, những người không thuộc môn nhân của ngài Huệ Viễn, phát nguyện cầu sinh tịnh độ Tây phương cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng truyện sao có ghi: Tăng Thuyên là người Hải Dương, Liêu Tây (huyện Hưng, tỉnh Phụng Thiên). Thiếu thời, ngài du học ở nước Yên, nước Tề, sau vào núi Hổ Khưu (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), đúc tượng Phật A-di-đà. Về sau, ngài ở chùa Phương Hiển, Dư Hàng (huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang), thường nguyện sinh An Dưỡng, sao chép vài nghìn bản kinh A-di-đà.

Lương cao tăng truyện quyển 12 thuật lại sự tích của ngài Đàm Hoằng: “Ngài là người Hoàng Long (tỉnh Kiết Lâm), chuyên nghiên cứu giới luật. Giữa niên hiệu Vĩnh Sơ, thời Tống, ngài từ phía nam đi đến Phiên Ngung (tỉnh Quảng Đông), về già, ngài đến chùa Tiên sơn, Giao Chỉ (châu Đông Kinh, An Nam), tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh nguyện sinh nước An Dưỡng. Niên hiệu Hiếu Kiến thứ 2 (455TL), ngài gom củi trong núi chất lại, châm lửa tự thiêu thân”. Đây có thể là khởi nguyên của việc truyền bá tín ngưỡng tịnh độ tại Giao Chỉ. Về sau, có nước Lâm Ấp (phía nam An Nam), cống hiến tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng du thạch, có lẽ không phải không liên quan với đến việc này.

Lại nữa, Lương cao tăng truyện quyển 11 và Danh tăng truyện sao ghi: “Ngài Huệ Thông (còn gọi là Trí Thông) trú ở chùa Thái Hậu, Trường An, học thiền với ngài Huệ Thiệu, thường qui tâm về An Dưỡng, khi lâm chung cảm ứng được ánh sáng của Phật đến tiếp dẫn”.

Ngoài ra, Đàm Giám truyện trong Lương cao tăng truyện quyển 7 có ghi: “Bấy giờ, có ngài Đạo Hải ở Giang Lăng, ngài Huệ Khám ở Bắc Châu, ngài Huệ Cung ở Đông Châu, ngài Đàm Hoằng ở Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), ngài Đạo Quảng, ngài Hoằng Nông ở núi Đông Viên (huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam), ngài Đạo Quang v.v…đều nguyện sinh An Dưỡng, lâm chung có hiện điềm lành”. Danh tăng truyện sao có ghi: Các ngài Pháp Ý, Tăng Hoằng, Tăng Sướng v.v… Pháp uyển châu lâm quyển 15 dẫn Minh tường ký ghi: “Thời Tống có cư sĩ Cát Tế Chi, tì-kheo-ni Huệ Mộc, Ngụy Thế Tử, Hà Đàm Viễn v.v… là những người nguyện vãng sinh và họ đều có được cảm ứng”.

Tiết 2: Tín ngưỡng Tịnh Độ trong thời Tề, Lương

Thời Lương, Tề có không ít người cầu vãng sinh tịnh độ, đặc biệt phổ biến nhất là người giảng giải và tụng đọc kinh Vô Lượng Thọ v.v… dần dần mở rộng thành phong trào nghiên cứu giáo lý Tịnh Độ. Xem trong Tăng truyện v.v…, chúng ta thấy vào thời Lương, Tề, có những người nguyện sinh tịnh độ như ngài các Huệ Tấn, Tăng Hạnh, Siêu Biện, Pháp Minh, Pháp Lâm, Tăng Nhu, Pháp Độ, Bảo Lượng v.v…

Trong đó, theo Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài Huệ Tấn là người Ngô Hưng (huyện Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang), ngài trú ở chùa Cao Tòa, Kiến Khang (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), thường tụng kinh Pháp hoa và sao chép một trăm bộ kinh Pháp hoa, hồi hướng Tịnh Độ, nguyện sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 3 (485TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi.

Ngài Tăng Hạnh, theo Danh tăng sao truyện ghi: Ngài là người Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), đệ tử của ngài Huệ Cơ, sau ngài đến trú ở chùa Thành Sơn, huyện Ngu (huyện Ngu Thành, tỉnh Hà Nam), tuyên dương giáo pháp, thường niệm Tây phương, mong được sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 11 (493TL), ngài thị tịch, hưởng dương 59 tuổi.

Ngài Siêu Biện, theo Tăng sao truyện và Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang, chuyên tụng kinh Pháp hoalễ sám Di-đà.

Ngài Pháp Minh ở chùa Linh Cơ, thường tụng kinh Pháp hoakinh Vô Lượng Thọ. Lại có ngài Pháp Lâm, Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, ở chùa Bùi, quận Thục (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), chuyên nghiên cứu giới luật, theo ngài Tăng Ẩn đến Thiểm Tây, sau trở về quận Thục trú ở chùa Linh Kiến, thường có tâm qui hướng Tây phương, tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh. Niên hiệu Kiến Vũ thứ 2 (495TL), thời Tề, ngài thị tịch.

Ngài Tăng Nhu, theo Lương cao tăng truyện quyển 8 ghi: Ngài là người Đan Dương (trấn Đan Dương, huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy), thường tụng các kinh, thăng tòa thuyết pháp. Sau đó, ngài đến Sơn Âm, yết kiến ngài Huệ Cơ. Về sau, ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang được hai vị vua Văn Huệ, Văn Tuyên kính trọng, nổi tiếng một thời. Mỗi ngày khi mặt trời lặn, ngài thường ngồi ngay thẳng chắp tay, cầu sinh An Dưỡng. Diên Hưng nguyên niên (494TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Ngài Pháp Độ là người ở Hoàng Long, từng du học đất Bắc. Cuối thời Tống, ngài đến Kiến Khang trú ở chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), cũng được vua Văn Tuyên v.v…kính trọng. Ngài thường nguyện sinh Tây phương, thường giảng kinh Vô Lượng Thọ. Niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ 2 (500TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Trong đây, chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn, căn cứ vào Nhiếp Sơn Lâu Hà tự bi minh (được Kim Lăng Phạn sát chí quyển 4 ghi lại) do Thị trung thượng thư lệnh Trần Giang, hiệu Tổng Trì soạn, có ghi: Niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống, ở Tề Châu có ẩn sĩ Minh Tăng Thiệu vào núi này dựng một căn nhà tranh để tu hành, về sau có người bạn đạo tên Pháp Độ đến, ở trong nhà này giảng kinh Vô Lượng Thọ, nửa đêm cảm ứng thấy được ánh sáng, vào niên hiệu Vĩnh Minh, thời Tề, sửa nhà thành chùa. Sau khi Tăng Thiệu qua đời, con của ông là Trọng Chương dựng khám thất ở vách đá núi phía tây và cùng Pháp Độ tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ đang ngồi, cao ba trượng một thước năm tấc, tính chung với tòa là bốn trượng và hai tượng bồ-tát, cao ba trượng ba tấc. Bấy giờ, các vị vua như Văn Huệ, Văn Tuyên, Thỉ An đều trợ giúp công trình này.

Quan Thái Tể Giang Hạ Vương tên Hoắc Cơ, thời Tống, thứ sử Ung Châu tên Điền Hạ v.v… thời Tề cũng cúng dường tài vật, đục mài tảng đá lớn tạo tượng hóa thân Phật Thích-ca. Niên hiệu Thiên Giám thứ 10 (511TL), thời Hậu Lương, Lâm Xuyên Tịnh Huệ Vương lại đính thêm ngọc để trang sức, đây được gọi là Nhiếp Sơn thiên Phật nham. Nhưng trong văn bia Minh Trưng Quân ở chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn của Đường Cao Tông ngự chế (được Kim thạch tụy biên quyển 59 ghi lại), chúng ta thấy ghi chép có khác: “Mười tôn tượng do ngài Pháp Độ mới tạc có khám thờ. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), Lâm Xuyên Vương tạo một tượng Phật Vô Lượng Thọ, từ đất đến đỉnh đầu cao năm trượng. Lại Lương cao tăng truyện, quyển 8 có ghi: Ban đầu, ngài Bảo Lượng ở chùa Trung Hưng, Kiến Khang, sau dời đến chùa Linh Vị, thường giảng các kinh: Niết-bàn, Thắng Man, Duy-ma, Pháp hoa. Niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), thời Lương, theo lệnh của Võ Đế, ngài gom chép lại thuyết của các nhà, biên thành Niết-bàn kinh tập giải gồm 71 quyển, và giảng kinh Vô Lượng Thọ gần mười lần. Do đây có thể biết, đương thời việc giải giảng, tán thán kinh Vô Lượng Thọ dần dần lưu hành đến phương nam, nhưng sự trứ tác sách vở có liên quan về tịnh độ còn chưa được thịnh hành.

Ngài Pháp Vân là môn nhân của ngài Bảo Lượng, trú ở chùa Quang Trạch, Kim Lăng (Kiến Khang), thường giảng luận Thành thậtkinh Pháp hoa v.v… Ngài và hai ngài Tăng Mâu, Trí Tạng là ba vị đại sư nổi tiếng vào thời Lương. Tuy chưa truyền pháp cầu sinh tịnh độ nhưng phần giải thích phẩm Tín giải trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 5, có viết về vị Trưởng giả, theo tôi suy đoán có lẽ vị Trưởng giả này là chỉ cho Phật A-di-đà. Cũng trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 8, phần giải thích phẩm Thọ lượng có câu: “Hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân khác, lấy thân mình phối hợp với Phật Thích-ca, thân khác phối hợp với Phật Di-đà”, cho rằng Phật A-di-đà (tức Phật Vô Lượng Thọ) là bản thân của Phật Thích-ca, có thể nói đây là chủ trương có ý vị sâu sắc. Lại nữa có thể căn cứ vào Thỉnh Quán Thế Âm kinh sớ của Trí Khải ghi lại: Ngài An Lẫm (một trong bảy nhà ở Giang Bắc), ở chùa Kỳ-xà cho rằng Thích-ca là tích thân của ứng thân, Di-đà là bản thân của chân thân; ứng thân không thể tiêu phục độc hại, chân thân mới có thể tiêu phục được. Lấy Di-đà và Thích-ca phối hợp với hai môn bản và tích, hiển nhiênkế thừa thuyết của ngài Pháp Vân. Lại nữa, xét về sự kiện, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), các ngài Pháp Duyệt v.v… đúc tượng Vô Lượng Thọ bằng đồng cao một trượng chín thước ở chùa Quang Trạch, có thể cho rằng đương thời chùa Quang Trạchtrung tâm phổ biến rộng về tín ngưỡng Tịnh Độ.

Lại nữa, theo Tì-kheo-ni truyện quyển 4 có ghi: Ni sư Đạo Quý ở chùa Đỉnh Sơn, thường tụng kinh Thắng Man, kinh Vô Lượng Thọ, suốt cả ngày đêm. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), thời Lương, Đạo Quý thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi.

Tục cao tăng truyện quyển 16 ghi: Ngài Đạo Trân, đầu thời Lương, ngài ở Lô sơn, thường tu quán Di-đà. Ngài mộng thấy có người chèo thuyền trong biển lớn, người ấy nói đi về nước A-di-đà, ngài Đạo Trân muốn đi theo. Người chèo thuyền nói: “Chưa tu Tịnh Độ, bảo nên tắm rửa sạch sẽ và tụng kinh A-di-đà”. Khi tỉnh mộng, ngài Đạo Trân theo như lời dạy trong mộng mà thực hành, liền cảm được điều lành, như nguyện vãng sinh. Việc này được ghi trong A-di-đà kinh bất khả tư nghị thần lực truyện và A-di-đà kinh hậu kí được biên tập vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, thời Đường. Nhưng trong đó chỉ ghi là thiền sư Trân, lại nói giấc mộng của ngài thấy nhằm vào giữa niên hiệu Thiên Gia (501-565TL), thời Trần. Ở trong Thừa Hòa ngũ niên nhập Đường cầu pháp mục lục của Viên Nhân, liệt kê có một quyển Niệm Phật tam-muội chỉ qui của ngài Huệ Trân chùa Di Ái, Lô sơn, thời Tùy. Nếu ngài Huệ Trân này và thiền sư Trân đồng một người thì thiền sư Trân chẳng phải là ngài Đạo Trân đầu thời Lương, có lẽ thiền sư Trân là một vị khác sống giữa thời Trần và thời Tùy.

Tiết 3: Tạo lập tượng Phật A-di-đà

Từ cuối thời Tấn về sau, tín ngưỡng Tịnh Độ được lưu hành, đồng thời tượng Phật A-di-đà cũng liên tiếp được đúc tạc, sự tạo tượng ở phương bắc phần nhiều là tượng Phật bằng đá; trái lại ở phương nam thì chủ yếu là đúc tượng Phật bằng đồng. Theo Lương cao tăng truyện quyển 13 và Danh tăng truyện sao có ghi: Ngài Tăng Hồng ở chùa Ngõa Quan, Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), vào cuối thời Tấn, dù thời này bị nghiêm cấm thu gom đồng rất chặt chẽ nhưng ngài vẫn quyên góp những người có duyên để đúc được một pho tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu, cho nên ngài bị bắt vào tù. Ngài liền tụng kinh Quán Thế Âm, nhất tâm hướng về tượng Phật, bỗng nhiên được linh cảm, thế là ngài thoát được nạn.

Lại nữa, ngài Tăng Lượng ở Giang Lăng muốn tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu, nhưng đồng không đủ, ngài bèn nhờ một trăm người mạnh khỏe và mười chiếc thuyền lớn đến miếu Ngô Tử Tế, suối Giới Đồng, Tương Châu lấy đồng về đúc tượng. Thế nhưng, tượng không được sáng, nên Tống Văn Đế phát tâm mạ lớp vàng mỏng để cho sáng và an trí tượng ở chùa Bành Thành. Trong niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống (465-471TL), Minh Đế lại dời tượng đến chùa Tương Cung. Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12 có ghi: “Sa-môn Thích Tăng Lượng ở Kinh Châu tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu”, chính là thuật lại nguyên do tạo tượng này.

Lại nữa, Tì-kheo-ni truyện quyển 2 của ngài Bảo Xướng, thời Lương có ghi: Ni sư Đạo Quỳnh ở Chùa Kiến Phúc, Kim Lăng, vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 15 (438TL), thời Tống, đã tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng. Danh tăng truyện sao ghi: Ngài Đạo Tĩnh ở chùa An Lạc, thời Tống, đã tạo tượng Vô Lượng Thọ cao năm thước, bằng đồng. Ngài Huệ Kính ở chùa Kỳ-hoàn, tạo tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu. Phật tổ thống kỷ quyển 28 có ghi: Ngài Đạo Viên thời Tống, đã tạo bảy pho tượng lớn cho các chùa, còn nấu đồng để đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ. Trong Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục có mục Tống Hiếu Vũ Đế tạo Vô Lượng Thọ kim tượng ký, Lâm Ấp quốc hiến Vô Lượng Thọthạch tượng ký. Lại nữa, Điêu khắc thiên trong Trung Quốc mỹ thuật sử của Đại Thôn Tây Nhai thì trong bài Minh khắc nơi pho tượng đá được điêu khắc vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 25 (448TL), thời Tống, có phụ ghi: “Vì cha mẹ, thân mình và con cái mà phát nguyện vãng sinh cõi nước Phật Vô Lượng Thọ”. “亮 là chữ mượn của chữ量, tức là tượng Vô Lượng Thọ”. Nhờ vậy, ta có thể biết tình trạng tượng Phật Vô Lượng Thọ được liên tiếp đúc tạo vào thời Lưu Tống.

Đến thời đại Tề, Lương, tương truyền sự tích về tạo tượng cũng không ít. Quảng hoằng minh tập quyển 16 ghi: Niên hiệu Vĩnh Minh thứ tư (486TL), thời Tề, phu nhân họ Trần thêu bài tán tôn tượng Phật Vô Lượng Thọ cho tì-kheo-ni Bảo Nguyện ở chùa Lạc Lâm. Lương cao tăng truyện quyển 13 có ghi: Ngài Pháp Duyệt ở chùa Chính Giác, Kiến Khang cùng với ngài Trí Tĩnh ở chùa Bạch Mã quyên góp những người hữu duyên, dự định đúc pho tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng tám. Vào thời Lương mới được cho phép đúc, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), ở chùa Tiểu Trang Nghiêm, Kiến Nghiệp chuyên lo việc đúc tượng. Vì không đủ đồng để đúc, nên dâng tấu xin đồng công đức, nên khi đúc thành tượng cao một trượng chín, đem an trí ở chùa Quang Trạch, là pho tượng bằng đồng lớn nhất ở phía đông Thông Lĩnh. Quang Trạch tự trượng cửu Vô Lượng Thọ kim tượng ký được ghi ở Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12, có ghi nguyên nhân có pho tượng này. Lại nữa, trong Quảng hoằng minh tập quyển 16 có ghi: Di-đà Phật minh của Thẩm Ước, thời Lương. Trong Nam sử quyển 39 có ghi: Lưu Tiềm, thời Lương có soạn Ung châu kim tượng tự Vô Lượng Thọ Phật tượng bi. Thần dị điển trong Cổ kim đồ thư tập thành, quyển 90 ghi: Một bài Di-đà Phật tượng minh của Giản Văn Đế, thời Lương. Theo A-di-đà kinh sớ của Nguyên Chiếu, thời Tống có ghi: Trần Nhân Lăng, thời Lương, kiến lập bia kinh A-di-đà ở chùa Long Hưng, Tương Châu (Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Trong kinh này từ câu “Nhất tâm bất loạn” trở xuống tăng thêm hai mươi chữ “Chuyên trì danh hiệu nãi chí đa thiện căn phúc đức nhân duyên…”. Về sau Nguyên Chiếu mô phỏng khắc lại bia ấy, dựng ở chùa Sùng Phúc, Linh Chi, Tây Hồ (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang). Sau đó, Nhật Bản cũng mô phỏng khắc lại bia này, hiện còn ở trong thần xã Trúc Tiền Tôn Tượng, thì bia này được xếp vào một trong những quốc bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13420)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11710)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11212)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11936)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10249)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29245)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11956)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11939)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10954)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19626)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7334)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11369)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35316)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12866)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12215)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17344)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11476)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22110)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11828)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15925)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14109)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12609)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13224)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13656)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20000)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14411)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13547)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12345)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11903)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34732)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13410)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13732)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31983)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13069)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13428)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13314)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18048)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14931)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15737)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14874)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15853)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20786)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21310)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35147)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27544)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37916)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15137)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15075)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12976)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12650)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15616)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27711)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14965)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11416)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53186)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16524)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13168)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20697)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12615)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15586)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15499)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14762)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15615)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13038)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11766)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12303)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12585)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13484)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12471)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24987)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11970)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12743)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11620)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13744)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14101)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12918)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12748)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13012)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13922)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12992)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13611)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12445)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14437)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13296)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13760)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14628)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11860)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12728)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28293)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11785)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12645)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15061)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12009)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11777)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12874)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11985)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11521)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant