Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12063)
Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG V: TRUYỀN BÁ TỊNH ĐỘ GIÁO Ở PHƯƠNG NAM

Tiết 1: Những nơi các môn hạ của Huệ Viễn truyền đạo

Lô sơn, ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xã, cùng với đại chúng chuyên tu niệm Phật tam-muội, danh đức của ngài cảm hóa vang dội một thời, như đã nói ở chương 3. Sau khi, ngài Huệ Viễn viên tịch, ngài Đạo Bính trụ trì tinh xá Đông Lâm, các đệ tử Đàm Hằng, Đàm Sằn v.v… cũng đều trú ở trong núi, tuyên dương di phong của đại sư; Lô sơn trở thành vùng đất tốt lành của tông Tịnh Độ, mãi mãi hưng thịnh, cũng chẳng phải khó tưởng tượng. Ngoài ra, kết chúng Liên xã, đệ tử của ngài Huệ Viễn du hóa các phương cũng không ít, tín ngưỡng Tịnh Độ cũng nhờ đó mà truyền bá khắp nơi, dân chúng cũng cảm ứng được ánh sáng của Phật. Trong đó có các ngài Đàm Thuận, Đàm Ung, Tăng Triệt v.v… ban đầu đều ở Lô sơn, về sau họ cùng đến Giang Lăng (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc) truyền đạo, cư sĩ Tông Bính cũng dựng nhà ở ẩn tại Tam Hồ, Giang Lăng. Về sau, Đàm Giám cũng đến hoằng pháp ở vùng đất này.

Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài Đàm Giám là đệ tử của ngài Đạo Tổ môn nhân ngài Huệ Viễn, giữ gìn giới luật tinh nghiêm, nghiên cứu tường tận các kinh và từng đến Trường An thụ học với ngài La-thập. Về sau, ngài ở chùa Tân, Giang Lăng, thường chiêm lễ Phật A-di-đà, cầu sinh An Dưỡng”. Điều này cho chúng ta biết sự truyền bá pháp môn Tịnh Độ đến Giang Lăng có rất sớm. Thành Đô (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên) là nơi ngài Huệ Trì em ngài Huệ Viễn từng du hóa. Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Huệ Trì thường lấy Tây phương làm điểm hẹn. Niên hiệu Long An thứ 3 (399TL), thời Đông Tấn, ngài chia tay với ngài Huệ Viễn, đến nước Thục, dừng ở tinh xá Long Uyên, truyền bá rất rộng Phật pháp. Lúc ngài mới đến có các ngài Huệ Nghiêm, Tăng Cung, đạo tục đều tôn trọng, kính phục danh đức của ngài. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 8 (412TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi, Về sau, có hai đệ tử của ngài là Đạo Hoằng và Đàm Lan truyền bá pháp môn Tịnh Độ”.

Lại nữa, có ngài Đạo Uông cũng một mình đến Thành Đô, Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng sao có ghi: “Thuở nhỏ, ngài xuất gia với ngài Huệ Viễn, nghiên cứu tổng quát kinh luật, nhưng rất giỏi về kinh Niết-bàn, ăn rau suốt mấy mươi năm. Sau đó, ngài về Thành Đô, trú ở chùa Kỳ-hoàn và khởi tuyên đại pháp. Thái Thỉ nguyên niên (465TL), thời Lưu Tống, ngài thị tịch”. Thời Hậu Tề, ngài Pháp Lâm cũng đến nước Thục, tinh tấn chuyên tu tịnh nghiệp.

Lại nữa, có ngài Đạo Ôn đệ tử của ngài Huệ Viễn cùng với kết chúng Liên xã như Chu Tục Chi, Lôi Thứ Tông v.v… nối tiếp nhau dời đến thủ đô Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô). Ngài Đạo Ôn, Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài là người Triêu Na, An Định (huyện Bình Thuần, tỉnh Cam Túc), vào Lô sơn, thụ học với ngài Huệ Viễn, sau đến Trường An, thân cận ngài La-thập. Trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453TL), thời Tống, ngài dừng chân ở chùa Đàn Khê, Tương Dương, đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến (454TL) được sắc lệnh trụ trì chùa Trung Hưng ở Kiến Khang. Niên hiệu Thái Thỉ thứ 2 (466TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi”.

Lại nữa, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2 (421TL), thời Tống, Dương Đô (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô) là nơi ngài Phật-đà-bạt-đà-la và ngài Bảo Vân dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Trang đệ tử của ngài Huệ Viễn cũng đến cư trú ở đây. Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài Pháp Trang là người Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), mười tuổi xuất gia, là đệ tử của ngài Huệ Viễn. Về già, ngài đến Quan Trung và thụ học với ngài Tăng Duệ. Đầu niên hiệu Nguyên Gia, ngài rời Dương Đô đến trú ở chùa Đạo Tràng, tụng các kinh như Pháp hoa, Niết-bàn v.v…Đầu niên hiệu Đại Minh (457TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi”.

Lại nữa, người du hóa đến Giang Chiết cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển thứ 5 ghi: “Ngài Huệ Độ xuất gia lúc nhỏ, rồi vào Lô sơn. Đầu niên hiệu Nghĩa Hy, thời Tấn, ngài đến chùa Gia Tường, Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Về sau, bị bịnh, ngài hướng tâm về An Dưỡng, chí thành cầu khẩn Quán Thế Âm, nên lúc lâm chung cảm ứng được điều lành”.

Ngài Đạo Kính đệ tử của ngài Huệ Viễn vào núi Nhược Tà (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), chấn hưng Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.

Ngài Đàm Dực đến núi Tần Vọng (Hàng Châu, Chiết Giang) kiến lập tinh xá. Như chương 3 đã nói.

Lại nữa, tương truyền ngài Đạo Tổ về sau cũng vào nước Ngô (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), theo Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Ban đầu, ngài Đạo Tổ xuất gia với ngài Pháp Tề, người Nhục-chi, sau đó cùng với các ngài Tăng Thiên, Đạo Lưu v.v… đồng chí hướng, cùng vào Lô sơn thụ giới, là những người được ngài Huệ Viễn kỳ vọng, nhưng hai ngài Tăng ThiênĐạo Lưu đều mới hai mươi tám tuổi đã qua đời. Đạo Tổ bèn đem di cảo, chư kinh mục lục của Đạo Lưu tu chính biên tập lại, sau đó ngài trở về chùa Đài, nước Ngô. Nguyên Hy nguyên niên, thời Đông Tấn (419TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi”. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 7 ghi: “Ngài Đạo Tổ đã soạn mục lục có 4 quyển: 1. Ngụy thế mục lục; 2. Ngô thế mục lục; 3. Tấn thế mục lục; 4. Hà Tây mục lục, tất cả đều được lưu hành rộng rãi ở thế gian”.

Ngoài ra, những người không thuộc môn nhân của ngài Huệ Viễn, phát nguyện cầu sinh tịnh độ Tây phương cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng truyện sao có ghi: Tăng Thuyên là người Hải Dương, Liêu Tây (huyện Hưng, tỉnh Phụng Thiên). Thiếu thời, ngài du học ở nước Yên, nước Tề, sau vào núi Hổ Khưu (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), đúc tượng Phật A-di-đà. Về sau, ngài ở chùa Phương Hiển, Dư Hàng (huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang), thường nguyện sinh An Dưỡng, sao chép vài nghìn bản kinh A-di-đà.

Lương cao tăng truyện quyển 12 thuật lại sự tích của ngài Đàm Hoằng: “Ngài là người Hoàng Long (tỉnh Kiết Lâm), chuyên nghiên cứu giới luật. Giữa niên hiệu Vĩnh Sơ, thời Tống, ngài từ phía nam đi đến Phiên Ngung (tỉnh Quảng Đông), về già, ngài đến chùa Tiên sơn, Giao Chỉ (châu Đông Kinh, An Nam), tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh nguyện sinh nước An Dưỡng. Niên hiệu Hiếu Kiến thứ 2 (455TL), ngài gom củi trong núi chất lại, châm lửa tự thiêu thân”. Đây có thể là khởi nguyên của việc truyền bá tín ngưỡng tịnh độ tại Giao Chỉ. Về sau, có nước Lâm Ấp (phía nam An Nam), cống hiến tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng du thạch, có lẽ không phải không liên quan với đến việc này.

Lại nữa, Lương cao tăng truyện quyển 11 và Danh tăng truyện sao ghi: “Ngài Huệ Thông (còn gọi là Trí Thông) trú ở chùa Thái Hậu, Trường An, học thiền với ngài Huệ Thiệu, thường qui tâm về An Dưỡng, khi lâm chung cảm ứng được ánh sáng của Phật đến tiếp dẫn”.

Ngoài ra, Đàm Giám truyện trong Lương cao tăng truyện quyển 7 có ghi: “Bấy giờ, có ngài Đạo Hải ở Giang Lăng, ngài Huệ Khám ở Bắc Châu, ngài Huệ Cung ở Đông Châu, ngài Đàm Hoằng ở Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), ngài Đạo Quảng, ngài Hoằng Nông ở núi Đông Viên (huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam), ngài Đạo Quang v.v…đều nguyện sinh An Dưỡng, lâm chung có hiện điềm lành”. Danh tăng truyện sao có ghi: Các ngài Pháp Ý, Tăng Hoằng, Tăng Sướng v.v… Pháp uyển châu lâm quyển 15 dẫn Minh tường ký ghi: “Thời Tống có cư sĩ Cát Tế Chi, tì-kheo-ni Huệ Mộc, Ngụy Thế Tử, Hà Đàm Viễn v.v… là những người nguyện vãng sinh và họ đều có được cảm ứng”.

Tiết 2: Tín ngưỡng Tịnh Độ trong thời Tề, Lương

Thời Lương, Tề có không ít người cầu vãng sinh tịnh độ, đặc biệt phổ biến nhất là người giảng giải và tụng đọc kinh Vô Lượng Thọ v.v… dần dần mở rộng thành phong trào nghiên cứu giáo lý Tịnh Độ. Xem trong Tăng truyện v.v…, chúng ta thấy vào thời Lương, Tề, có những người nguyện sinh tịnh độ như ngài các Huệ Tấn, Tăng Hạnh, Siêu Biện, Pháp Minh, Pháp Lâm, Tăng Nhu, Pháp Độ, Bảo Lượng v.v…

Trong đó, theo Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài Huệ Tấn là người Ngô Hưng (huyện Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang), ngài trú ở chùa Cao Tòa, Kiến Khang (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), thường tụng kinh Pháp hoa và sao chép một trăm bộ kinh Pháp hoa, hồi hướng Tịnh Độ, nguyện sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 3 (485TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi.

Ngài Tăng Hạnh, theo Danh tăng sao truyện ghi: Ngài là người Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), đệ tử của ngài Huệ Cơ, sau ngài đến trú ở chùa Thành Sơn, huyện Ngu (huyện Ngu Thành, tỉnh Hà Nam), tuyên dương giáo pháp, thường niệm Tây phương, mong được sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 11 (493TL), ngài thị tịch, hưởng dương 59 tuổi.

Ngài Siêu Biện, theo Tăng sao truyện và Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang, chuyên tụng kinh Pháp hoalễ sám Di-đà.

Ngài Pháp Minh ở chùa Linh Cơ, thường tụng kinh Pháp hoakinh Vô Lượng Thọ. Lại có ngài Pháp Lâm, Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, ở chùa Bùi, quận Thục (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), chuyên nghiên cứu giới luật, theo ngài Tăng Ẩn đến Thiểm Tây, sau trở về quận Thục trú ở chùa Linh Kiến, thường có tâm qui hướng Tây phương, tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh. Niên hiệu Kiến Vũ thứ 2 (495TL), thời Tề, ngài thị tịch.

Ngài Tăng Nhu, theo Lương cao tăng truyện quyển 8 ghi: Ngài là người Đan Dương (trấn Đan Dương, huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy), thường tụng các kinh, thăng tòa thuyết pháp. Sau đó, ngài đến Sơn Âm, yết kiến ngài Huệ Cơ. Về sau, ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang được hai vị vua Văn Huệ, Văn Tuyên kính trọng, nổi tiếng một thời. Mỗi ngày khi mặt trời lặn, ngài thường ngồi ngay thẳng chắp tay, cầu sinh An Dưỡng. Diên Hưng nguyên niên (494TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Ngài Pháp Độ là người ở Hoàng Long, từng du học đất Bắc. Cuối thời Tống, ngài đến Kiến Khang trú ở chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), cũng được vua Văn Tuyên v.v…kính trọng. Ngài thường nguyện sinh Tây phương, thường giảng kinh Vô Lượng Thọ. Niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ 2 (500TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Trong đây, chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn, căn cứ vào Nhiếp Sơn Lâu Hà tự bi minh (được Kim Lăng Phạn sát chí quyển 4 ghi lại) do Thị trung thượng thư lệnh Trần Giang, hiệu Tổng Trì soạn, có ghi: Niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống, ở Tề Châu có ẩn sĩ Minh Tăng Thiệu vào núi này dựng một căn nhà tranh để tu hành, về sau có người bạn đạo tên Pháp Độ đến, ở trong nhà này giảng kinh Vô Lượng Thọ, nửa đêm cảm ứng thấy được ánh sáng, vào niên hiệu Vĩnh Minh, thời Tề, sửa nhà thành chùa. Sau khi Tăng Thiệu qua đời, con của ông là Trọng Chương dựng khám thất ở vách đá núi phía tây và cùng Pháp Độ tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ đang ngồi, cao ba trượng một thước năm tấc, tính chung với tòa là bốn trượng và hai tượng bồ-tát, cao ba trượng ba tấc. Bấy giờ, các vị vua như Văn Huệ, Văn Tuyên, Thỉ An đều trợ giúp công trình này.

Quan Thái Tể Giang Hạ Vương tên Hoắc Cơ, thời Tống, thứ sử Ung Châu tên Điền Hạ v.v… thời Tề cũng cúng dường tài vật, đục mài tảng đá lớn tạo tượng hóa thân Phật Thích-ca. Niên hiệu Thiên Giám thứ 10 (511TL), thời Hậu Lương, Lâm Xuyên Tịnh Huệ Vương lại đính thêm ngọc để trang sức, đây được gọi là Nhiếp Sơn thiên Phật nham. Nhưng trong văn bia Minh Trưng Quân ở chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn của Đường Cao Tông ngự chế (được Kim thạch tụy biên quyển 59 ghi lại), chúng ta thấy ghi chép có khác: “Mười tôn tượng do ngài Pháp Độ mới tạc có khám thờ. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), Lâm Xuyên Vương tạo một tượng Phật Vô Lượng Thọ, từ đất đến đỉnh đầu cao năm trượng. Lại Lương cao tăng truyện, quyển 8 có ghi: Ban đầu, ngài Bảo Lượng ở chùa Trung Hưng, Kiến Khang, sau dời đến chùa Linh Vị, thường giảng các kinh: Niết-bàn, Thắng Man, Duy-ma, Pháp hoa. Niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), thời Lương, theo lệnh của Võ Đế, ngài gom chép lại thuyết của các nhà, biên thành Niết-bàn kinh tập giải gồm 71 quyển, và giảng kinh Vô Lượng Thọ gần mười lần. Do đây có thể biết, đương thời việc giải giảng, tán thán kinh Vô Lượng Thọ dần dần lưu hành đến phương nam, nhưng sự trứ tác sách vở có liên quan về tịnh độ còn chưa được thịnh hành.

Ngài Pháp Vân là môn nhân của ngài Bảo Lượng, trú ở chùa Quang Trạch, Kim Lăng (Kiến Khang), thường giảng luận Thành thậtkinh Pháp hoa v.v… Ngài và hai ngài Tăng Mâu, Trí Tạng là ba vị đại sư nổi tiếng vào thời Lương. Tuy chưa truyền pháp cầu sinh tịnh độ nhưng phần giải thích phẩm Tín giải trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 5, có viết về vị Trưởng giả, theo tôi suy đoán có lẽ vị Trưởng giả này là chỉ cho Phật A-di-đà. Cũng trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 8, phần giải thích phẩm Thọ lượng có câu: “Hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân khác, lấy thân mình phối hợp với Phật Thích-ca, thân khác phối hợp với Phật Di-đà”, cho rằng Phật A-di-đà (tức Phật Vô Lượng Thọ) là bản thân của Phật Thích-ca, có thể nói đây là chủ trương có ý vị sâu sắc. Lại nữa có thể căn cứ vào Thỉnh Quán Thế Âm kinh sớ của Trí Khải ghi lại: Ngài An Lẫm (một trong bảy nhà ở Giang Bắc), ở chùa Kỳ-xà cho rằng Thích-ca là tích thân của ứng thân, Di-đà là bản thân của chân thân; ứng thân không thể tiêu phục độc hại, chân thân mới có thể tiêu phục được. Lấy Di-đà và Thích-ca phối hợp với hai môn bản và tích, hiển nhiênkế thừa thuyết của ngài Pháp Vân. Lại nữa, xét về sự kiện, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), các ngài Pháp Duyệt v.v… đúc tượng Vô Lượng Thọ bằng đồng cao một trượng chín thước ở chùa Quang Trạch, có thể cho rằng đương thời chùa Quang Trạchtrung tâm phổ biến rộng về tín ngưỡng Tịnh Độ.

Lại nữa, theo Tì-kheo-ni truyện quyển 4 có ghi: Ni sư Đạo Quý ở chùa Đỉnh Sơn, thường tụng kinh Thắng Man, kinh Vô Lượng Thọ, suốt cả ngày đêm. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), thời Lương, Đạo Quý thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi.

Tục cao tăng truyện quyển 16 ghi: Ngài Đạo Trân, đầu thời Lương, ngài ở Lô sơn, thường tu quán Di-đà. Ngài mộng thấy có người chèo thuyền trong biển lớn, người ấy nói đi về nước A-di-đà, ngài Đạo Trân muốn đi theo. Người chèo thuyền nói: “Chưa tu Tịnh Độ, bảo nên tắm rửa sạch sẽ và tụng kinh A-di-đà”. Khi tỉnh mộng, ngài Đạo Trân theo như lời dạy trong mộng mà thực hành, liền cảm được điều lành, như nguyện vãng sinh. Việc này được ghi trong A-di-đà kinh bất khả tư nghị thần lực truyện và A-di-đà kinh hậu kí được biên tập vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, thời Đường. Nhưng trong đó chỉ ghi là thiền sư Trân, lại nói giấc mộng của ngài thấy nhằm vào giữa niên hiệu Thiên Gia (501-565TL), thời Trần. Ở trong Thừa Hòa ngũ niên nhập Đường cầu pháp mục lục của Viên Nhân, liệt kê có một quyển Niệm Phật tam-muội chỉ qui của ngài Huệ Trân chùa Di Ái, Lô sơn, thời Tùy. Nếu ngài Huệ Trân này và thiền sư Trân đồng một người thì thiền sư Trân chẳng phải là ngài Đạo Trân đầu thời Lương, có lẽ thiền sư Trân là một vị khác sống giữa thời Trần và thời Tùy.

Tiết 3: Tạo lập tượng Phật A-di-đà

Từ cuối thời Tấn về sau, tín ngưỡng Tịnh Độ được lưu hành, đồng thời tượng Phật A-di-đà cũng liên tiếp được đúc tạc, sự tạo tượng ở phương bắc phần nhiều là tượng Phật bằng đá; trái lại ở phương nam thì chủ yếu là đúc tượng Phật bằng đồng. Theo Lương cao tăng truyện quyển 13 và Danh tăng truyện sao có ghi: Ngài Tăng Hồng ở chùa Ngõa Quan, Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), vào cuối thời Tấn, dù thời này bị nghiêm cấm thu gom đồng rất chặt chẽ nhưng ngài vẫn quyên góp những người có duyên để đúc được một pho tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu, cho nên ngài bị bắt vào tù. Ngài liền tụng kinh Quán Thế Âm, nhất tâm hướng về tượng Phật, bỗng nhiên được linh cảm, thế là ngài thoát được nạn.

Lại nữa, ngài Tăng Lượng ở Giang Lăng muốn tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu, nhưng đồng không đủ, ngài bèn nhờ một trăm người mạnh khỏe và mười chiếc thuyền lớn đến miếu Ngô Tử Tế, suối Giới Đồng, Tương Châu lấy đồng về đúc tượng. Thế nhưng, tượng không được sáng, nên Tống Văn Đế phát tâm mạ lớp vàng mỏng để cho sáng và an trí tượng ở chùa Bành Thành. Trong niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống (465-471TL), Minh Đế lại dời tượng đến chùa Tương Cung. Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12 có ghi: “Sa-môn Thích Tăng Lượng ở Kinh Châu tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu”, chính là thuật lại nguyên do tạo tượng này.

Lại nữa, Tì-kheo-ni truyện quyển 2 của ngài Bảo Xướng, thời Lương có ghi: Ni sư Đạo Quỳnh ở Chùa Kiến Phúc, Kim Lăng, vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 15 (438TL), thời Tống, đã tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng. Danh tăng truyện sao ghi: Ngài Đạo Tĩnh ở chùa An Lạc, thời Tống, đã tạo tượng Vô Lượng Thọ cao năm thước, bằng đồng. Ngài Huệ Kính ở chùa Kỳ-hoàn, tạo tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu. Phật tổ thống kỷ quyển 28 có ghi: Ngài Đạo Viên thời Tống, đã tạo bảy pho tượng lớn cho các chùa, còn nấu đồng để đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ. Trong Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục có mục Tống Hiếu Vũ Đế tạo Vô Lượng Thọ kim tượng ký, Lâm Ấp quốc hiến Vô Lượng Thọthạch tượng ký. Lại nữa, Điêu khắc thiên trong Trung Quốc mỹ thuật sử của Đại Thôn Tây Nhai thì trong bài Minh khắc nơi pho tượng đá được điêu khắc vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 25 (448TL), thời Tống, có phụ ghi: “Vì cha mẹ, thân mình và con cái mà phát nguyện vãng sinh cõi nước Phật Vô Lượng Thọ”. “亮 là chữ mượn của chữ量, tức là tượng Vô Lượng Thọ”. Nhờ vậy, ta có thể biết tình trạng tượng Phật Vô Lượng Thọ được liên tiếp đúc tạo vào thời Lưu Tống.

Đến thời đại Tề, Lương, tương truyền sự tích về tạo tượng cũng không ít. Quảng hoằng minh tập quyển 16 ghi: Niên hiệu Vĩnh Minh thứ tư (486TL), thời Tề, phu nhân họ Trần thêu bài tán tôn tượng Phật Vô Lượng Thọ cho tì-kheo-ni Bảo Nguyện ở chùa Lạc Lâm. Lương cao tăng truyện quyển 13 có ghi: Ngài Pháp Duyệt ở chùa Chính Giác, Kiến Khang cùng với ngài Trí Tĩnh ở chùa Bạch Mã quyên góp những người hữu duyên, dự định đúc pho tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng tám. Vào thời Lương mới được cho phép đúc, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), ở chùa Tiểu Trang Nghiêm, Kiến Nghiệp chuyên lo việc đúc tượng. Vì không đủ đồng để đúc, nên dâng tấu xin đồng công đức, nên khi đúc thành tượng cao một trượng chín, đem an trí ở chùa Quang Trạch, là pho tượng bằng đồng lớn nhất ở phía đông Thông Lĩnh. Quang Trạch tự trượng cửu Vô Lượng Thọ kim tượng ký được ghi ở Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12, có ghi nguyên nhân có pho tượng này. Lại nữa, trong Quảng hoằng minh tập quyển 16 có ghi: Di-đà Phật minh của Thẩm Ước, thời Lương. Trong Nam sử quyển 39 có ghi: Lưu Tiềm, thời Lương có soạn Ung châu kim tượng tự Vô Lượng Thọ Phật tượng bi. Thần dị điển trong Cổ kim đồ thư tập thành, quyển 90 ghi: Một bài Di-đà Phật tượng minh của Giản Văn Đế, thời Lương. Theo A-di-đà kinh sớ của Nguyên Chiếu, thời Tống có ghi: Trần Nhân Lăng, thời Lương, kiến lập bia kinh A-di-đà ở chùa Long Hưng, Tương Châu (Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Trong kinh này từ câu “Nhất tâm bất loạn” trở xuống tăng thêm hai mươi chữ “Chuyên trì danh hiệu nãi chí đa thiện căn phúc đức nhân duyên…”. Về sau Nguyên Chiếu mô phỏng khắc lại bia ấy, dựng ở chùa Sùng Phúc, Linh Chi, Tây Hồ (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang). Sau đó, Nhật Bản cũng mô phỏng khắc lại bia này, hiện còn ở trong thần xã Trúc Tiền Tôn Tượng, thì bia này được xếp vào một trong những quốc bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10285)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11161)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10966)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11202)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11253)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14238)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12486)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26344)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11707)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29261)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11656)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10793)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11097)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10946)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10766)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11326)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10779)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12248)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11297)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10056)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11408)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13408)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11252)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11461)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12694)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13781)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13190)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12807)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12166)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30121)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24902)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10966)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11727)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10661)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11225)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11516)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12898)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12090)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11314)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10206)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11809)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11205)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10902)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13076)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10201)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10876)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10946)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14536)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10692)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21958)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12072)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11432)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30177)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19587)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20581)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12558)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12555)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21191)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13254)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14465)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30418)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28021)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28352)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20951)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28677)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27230)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21947)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21486)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26220)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21628)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23406)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26405)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23201)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19834)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22929)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21165)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19961)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15414)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25660)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14129)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22515)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22537)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22867)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13212)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23191)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13168)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28960)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30490)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14249)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26260)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33228)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8625)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13314)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30659)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22140)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant