Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12045)
Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG V: TRUYỀN BÁ TỊNH ĐỘ GIÁO Ở PHƯƠNG NAM

Tiết 1: Những nơi các môn hạ của Huệ Viễn truyền đạo

Lô sơn, ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xã, cùng với đại chúng chuyên tu niệm Phật tam-muội, danh đức của ngài cảm hóa vang dội một thời, như đã nói ở chương 3. Sau khi, ngài Huệ Viễn viên tịch, ngài Đạo Bính trụ trì tinh xá Đông Lâm, các đệ tử Đàm Hằng, Đàm Sằn v.v… cũng đều trú ở trong núi, tuyên dương di phong của đại sư; Lô sơn trở thành vùng đất tốt lành của tông Tịnh Độ, mãi mãi hưng thịnh, cũng chẳng phải khó tưởng tượng. Ngoài ra, kết chúng Liên xã, đệ tử của ngài Huệ Viễn du hóa các phương cũng không ít, tín ngưỡng Tịnh Độ cũng nhờ đó mà truyền bá khắp nơi, dân chúng cũng cảm ứng được ánh sáng của Phật. Trong đó có các ngài Đàm Thuận, Đàm Ung, Tăng Triệt v.v… ban đầu đều ở Lô sơn, về sau họ cùng đến Giang Lăng (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc) truyền đạo, cư sĩ Tông Bính cũng dựng nhà ở ẩn tại Tam Hồ, Giang Lăng. Về sau, Đàm Giám cũng đến hoằng pháp ở vùng đất này.

Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài Đàm Giám là đệ tử của ngài Đạo Tổ môn nhân ngài Huệ Viễn, giữ gìn giới luật tinh nghiêm, nghiên cứu tường tận các kinh và từng đến Trường An thụ học với ngài La-thập. Về sau, ngài ở chùa Tân, Giang Lăng, thường chiêm lễ Phật A-di-đà, cầu sinh An Dưỡng”. Điều này cho chúng ta biết sự truyền bá pháp môn Tịnh Độ đến Giang Lăng có rất sớm. Thành Đô (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên) là nơi ngài Huệ Trì em ngài Huệ Viễn từng du hóa. Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Huệ Trì thường lấy Tây phương làm điểm hẹn. Niên hiệu Long An thứ 3 (399TL), thời Đông Tấn, ngài chia tay với ngài Huệ Viễn, đến nước Thục, dừng ở tinh xá Long Uyên, truyền bá rất rộng Phật pháp. Lúc ngài mới đến có các ngài Huệ Nghiêm, Tăng Cung, đạo tục đều tôn trọng, kính phục danh đức của ngài. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 8 (412TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi, Về sau, có hai đệ tử của ngài là Đạo Hoằng và Đàm Lan truyền bá pháp môn Tịnh Độ”.

Lại nữa, có ngài Đạo Uông cũng một mình đến Thành Đô, Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng sao có ghi: “Thuở nhỏ, ngài xuất gia với ngài Huệ Viễn, nghiên cứu tổng quát kinh luật, nhưng rất giỏi về kinh Niết-bàn, ăn rau suốt mấy mươi năm. Sau đó, ngài về Thành Đô, trú ở chùa Kỳ-hoàn và khởi tuyên đại pháp. Thái Thỉ nguyên niên (465TL), thời Lưu Tống, ngài thị tịch”. Thời Hậu Tề, ngài Pháp Lâm cũng đến nước Thục, tinh tấn chuyên tu tịnh nghiệp.

Lại nữa, có ngài Đạo Ôn đệ tử của ngài Huệ Viễn cùng với kết chúng Liên xã như Chu Tục Chi, Lôi Thứ Tông v.v… nối tiếp nhau dời đến thủ đô Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô). Ngài Đạo Ôn, Lương cao tăng truyện quyển 7 ghi: “Ngài là người Triêu Na, An Định (huyện Bình Thuần, tỉnh Cam Túc), vào Lô sơn, thụ học với ngài Huệ Viễn, sau đến Trường An, thân cận ngài La-thập. Trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453TL), thời Tống, ngài dừng chân ở chùa Đàn Khê, Tương Dương, đến đầu niên hiệu Hiếu Kiến (454TL) được sắc lệnh trụ trì chùa Trung Hưng ở Kiến Khang. Niên hiệu Thái Thỉ thứ 2 (466TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi”.

Lại nữa, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2 (421TL), thời Tống, Dương Đô (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô) là nơi ngài Phật-đà-bạt-đà-la và ngài Bảo Vân dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Trang đệ tử của ngài Huệ Viễn cũng đến cư trú ở đây. Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài Pháp Trang là người Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), mười tuổi xuất gia, là đệ tử của ngài Huệ Viễn. Về già, ngài đến Quan Trung và thụ học với ngài Tăng Duệ. Đầu niên hiệu Nguyên Gia, ngài rời Dương Đô đến trú ở chùa Đạo Tràng, tụng các kinh như Pháp hoa, Niết-bàn v.v…Đầu niên hiệu Đại Minh (457TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi”.

Lại nữa, người du hóa đến Giang Chiết cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển thứ 5 ghi: “Ngài Huệ Độ xuất gia lúc nhỏ, rồi vào Lô sơn. Đầu niên hiệu Nghĩa Hy, thời Tấn, ngài đến chùa Gia Tường, Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Về sau, bị bịnh, ngài hướng tâm về An Dưỡng, chí thành cầu khẩn Quán Thế Âm, nên lúc lâm chung cảm ứng được điều lành”.

Ngài Đạo Kính đệ tử của ngài Huệ Viễn vào núi Nhược Tà (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), chấn hưng Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.

Ngài Đàm Dực đến núi Tần Vọng (Hàng Châu, Chiết Giang) kiến lập tinh xá. Như chương 3 đã nói.

Lại nữa, tương truyền ngài Đạo Tổ về sau cũng vào nước Ngô (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), theo Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: “Ban đầu, ngài Đạo Tổ xuất gia với ngài Pháp Tề, người Nhục-chi, sau đó cùng với các ngài Tăng Thiên, Đạo Lưu v.v… đồng chí hướng, cùng vào Lô sơn thụ giới, là những người được ngài Huệ Viễn kỳ vọng, nhưng hai ngài Tăng ThiênĐạo Lưu đều mới hai mươi tám tuổi đã qua đời. Đạo Tổ bèn đem di cảo, chư kinh mục lục của Đạo Lưu tu chính biên tập lại, sau đó ngài trở về chùa Đài, nước Ngô. Nguyên Hy nguyên niên, thời Đông Tấn (419TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi”. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 7 ghi: “Ngài Đạo Tổ đã soạn mục lục có 4 quyển: 1. Ngụy thế mục lục; 2. Ngô thế mục lục; 3. Tấn thế mục lục; 4. Hà Tây mục lục, tất cả đều được lưu hành rộng rãi ở thế gian”.

Ngoài ra, những người không thuộc môn nhân của ngài Huệ Viễn, phát nguyện cầu sinh tịnh độ Tây phương cũng không ít. Lương cao tăng truyện quyển 7 và Danh tăng truyện sao có ghi: Tăng Thuyên là người Hải Dương, Liêu Tây (huyện Hưng, tỉnh Phụng Thiên). Thiếu thời, ngài du học ở nước Yên, nước Tề, sau vào núi Hổ Khưu (huyện Ngô, tỉnh Giang Tô), đúc tượng Phật A-di-đà. Về sau, ngài ở chùa Phương Hiển, Dư Hàng (huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang), thường nguyện sinh An Dưỡng, sao chép vài nghìn bản kinh A-di-đà.

Lương cao tăng truyện quyển 12 thuật lại sự tích của ngài Đàm Hoằng: “Ngài là người Hoàng Long (tỉnh Kiết Lâm), chuyên nghiên cứu giới luật. Giữa niên hiệu Vĩnh Sơ, thời Tống, ngài từ phía nam đi đến Phiên Ngung (tỉnh Quảng Đông), về già, ngài đến chùa Tiên sơn, Giao Chỉ (châu Đông Kinh, An Nam), tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh nguyện sinh nước An Dưỡng. Niên hiệu Hiếu Kiến thứ 2 (455TL), ngài gom củi trong núi chất lại, châm lửa tự thiêu thân”. Đây có thể là khởi nguyên của việc truyền bá tín ngưỡng tịnh độ tại Giao Chỉ. Về sau, có nước Lâm Ấp (phía nam An Nam), cống hiến tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng du thạch, có lẽ không phải không liên quan với đến việc này.

Lại nữa, Lương cao tăng truyện quyển 11 và Danh tăng truyện sao ghi: “Ngài Huệ Thông (còn gọi là Trí Thông) trú ở chùa Thái Hậu, Trường An, học thiền với ngài Huệ Thiệu, thường qui tâm về An Dưỡng, khi lâm chung cảm ứng được ánh sáng của Phật đến tiếp dẫn”.

Ngoài ra, Đàm Giám truyện trong Lương cao tăng truyện quyển 7 có ghi: “Bấy giờ, có ngài Đạo Hải ở Giang Lăng, ngài Huệ Khám ở Bắc Châu, ngài Huệ Cung ở Đông Châu, ngài Đàm Hoằng ở Hoài Nam (huyện Thọ, tỉnh An Huy), ngài Đạo Quảng, ngài Hoằng Nông ở núi Đông Viên (huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam), ngài Đạo Quang v.v…đều nguyện sinh An Dưỡng, lâm chung có hiện điềm lành”. Danh tăng truyện sao có ghi: Các ngài Pháp Ý, Tăng Hoằng, Tăng Sướng v.v… Pháp uyển châu lâm quyển 15 dẫn Minh tường ký ghi: “Thời Tống có cư sĩ Cát Tế Chi, tì-kheo-ni Huệ Mộc, Ngụy Thế Tử, Hà Đàm Viễn v.v… là những người nguyện vãng sinh và họ đều có được cảm ứng”.

Tiết 2: Tín ngưỡng Tịnh Độ trong thời Tề, Lương

Thời Lương, Tề có không ít người cầu vãng sinh tịnh độ, đặc biệt phổ biến nhất là người giảng giải và tụng đọc kinh Vô Lượng Thọ v.v… dần dần mở rộng thành phong trào nghiên cứu giáo lý Tịnh Độ. Xem trong Tăng truyện v.v…, chúng ta thấy vào thời Lương, Tề, có những người nguyện sinh tịnh độ như ngài các Huệ Tấn, Tăng Hạnh, Siêu Biện, Pháp Minh, Pháp Lâm, Tăng Nhu, Pháp Độ, Bảo Lượng v.v…

Trong đó, theo Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài Huệ Tấn là người Ngô Hưng (huyện Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang), ngài trú ở chùa Cao Tòa, Kiến Khang (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), thường tụng kinh Pháp hoa và sao chép một trăm bộ kinh Pháp hoa, hồi hướng Tịnh Độ, nguyện sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 3 (485TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi.

Ngài Tăng Hạnh, theo Danh tăng sao truyện ghi: Ngài là người Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), đệ tử của ngài Huệ Cơ, sau ngài đến trú ở chùa Thành Sơn, huyện Ngu (huyện Ngu Thành, tỉnh Hà Nam), tuyên dương giáo pháp, thường niệm Tây phương, mong được sinh An Dưỡng. Niên hiệu Vĩnh Minh thứ 11 (493TL), ngài thị tịch, hưởng dương 59 tuổi.

Ngài Siêu Biện, theo Tăng sao truyện và Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: Ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang, chuyên tụng kinh Pháp hoalễ sám Di-đà.

Ngài Pháp Minh ở chùa Linh Cơ, thường tụng kinh Pháp hoakinh Vô Lượng Thọ. Lại có ngài Pháp Lâm, Lương cao tăng truyện quyển 12 ghi: “Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, ở chùa Bùi, quận Thục (huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), chuyên nghiên cứu giới luật, theo ngài Tăng Ẩn đến Thiểm Tây, sau trở về quận Thục trú ở chùa Linh Kiến, thường có tâm qui hướng Tây phương, tụng kinh Vô Lượng ThọQuán kinh. Niên hiệu Kiến Vũ thứ 2 (495TL), thời Tề, ngài thị tịch.

Ngài Tăng Nhu, theo Lương cao tăng truyện quyển 8 ghi: Ngài là người Đan Dương (trấn Đan Dương, huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy), thường tụng các kinh, thăng tòa thuyết pháp. Sau đó, ngài đến Sơn Âm, yết kiến ngài Huệ Cơ. Về sau, ngài trú ở chùa Định Lâm Thượng, Kiến Khang được hai vị vua Văn Huệ, Văn Tuyên kính trọng, nổi tiếng một thời. Mỗi ngày khi mặt trời lặn, ngài thường ngồi ngay thẳng chắp tay, cầu sinh An Dưỡng. Diên Hưng nguyên niên (494TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Ngài Pháp Độ là người ở Hoàng Long, từng du học đất Bắc. Cuối thời Tống, ngài đến Kiến Khang trú ở chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn (huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), cũng được vua Văn Tuyên v.v…kính trọng. Ngài thường nguyện sinh Tây phương, thường giảng kinh Vô Lượng Thọ. Niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ 2 (500TL), thời Tề, ngài thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi.

Trong đây, chùa Lâu Hà, Nhiếp Sơn, căn cứ vào Nhiếp Sơn Lâu Hà tự bi minh (được Kim Lăng Phạn sát chí quyển 4 ghi lại) do Thị trung thượng thư lệnh Trần Giang, hiệu Tổng Trì soạn, có ghi: Niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống, ở Tề Châu có ẩn sĩ Minh Tăng Thiệu vào núi này dựng một căn nhà tranh để tu hành, về sau có người bạn đạo tên Pháp Độ đến, ở trong nhà này giảng kinh Vô Lượng Thọ, nửa đêm cảm ứng thấy được ánh sáng, vào niên hiệu Vĩnh Minh, thời Tề, sửa nhà thành chùa. Sau khi Tăng Thiệu qua đời, con của ông là Trọng Chương dựng khám thất ở vách đá núi phía tây và cùng Pháp Độ tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ đang ngồi, cao ba trượng một thước năm tấc, tính chung với tòa là bốn trượng và hai tượng bồ-tát, cao ba trượng ba tấc. Bấy giờ, các vị vua như Văn Huệ, Văn Tuyên, Thỉ An đều trợ giúp công trình này.

Quan Thái Tể Giang Hạ Vương tên Hoắc Cơ, thời Tống, thứ sử Ung Châu tên Điền Hạ v.v… thời Tề cũng cúng dường tài vật, đục mài tảng đá lớn tạo tượng hóa thân Phật Thích-ca. Niên hiệu Thiên Giám thứ 10 (511TL), thời Hậu Lương, Lâm Xuyên Tịnh Huệ Vương lại đính thêm ngọc để trang sức, đây được gọi là Nhiếp Sơn thiên Phật nham. Nhưng trong văn bia Minh Trưng Quân ở chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn của Đường Cao Tông ngự chế (được Kim thạch tụy biên quyển 59 ghi lại), chúng ta thấy ghi chép có khác: “Mười tôn tượng do ngài Pháp Độ mới tạc có khám thờ. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), Lâm Xuyên Vương tạo một tượng Phật Vô Lượng Thọ, từ đất đến đỉnh đầu cao năm trượng. Lại Lương cao tăng truyện, quyển 8 có ghi: Ban đầu, ngài Bảo Lượng ở chùa Trung Hưng, Kiến Khang, sau dời đến chùa Linh Vị, thường giảng các kinh: Niết-bàn, Thắng Man, Duy-ma, Pháp hoa. Niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), thời Lương, theo lệnh của Võ Đế, ngài gom chép lại thuyết của các nhà, biên thành Niết-bàn kinh tập giải gồm 71 quyển, và giảng kinh Vô Lượng Thọ gần mười lần. Do đây có thể biết, đương thời việc giải giảng, tán thán kinh Vô Lượng Thọ dần dần lưu hành đến phương nam, nhưng sự trứ tác sách vở có liên quan về tịnh độ còn chưa được thịnh hành.

Ngài Pháp Vân là môn nhân của ngài Bảo Lượng, trú ở chùa Quang Trạch, Kim Lăng (Kiến Khang), thường giảng luận Thành thậtkinh Pháp hoa v.v… Ngài và hai ngài Tăng Mâu, Trí Tạng là ba vị đại sư nổi tiếng vào thời Lương. Tuy chưa truyền pháp cầu sinh tịnh độ nhưng phần giải thích phẩm Tín giải trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 5, có viết về vị Trưởng giả, theo tôi suy đoán có lẽ vị Trưởng giả này là chỉ cho Phật A-di-đà. Cũng trong Pháp hoa kinh nghĩa ký quyển 8, phần giải thích phẩm Thọ lượng có câu: “Hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân khác, lấy thân mình phối hợp với Phật Thích-ca, thân khác phối hợp với Phật Di-đà”, cho rằng Phật A-di-đà (tức Phật Vô Lượng Thọ) là bản thân của Phật Thích-ca, có thể nói đây là chủ trương có ý vị sâu sắc. Lại nữa có thể căn cứ vào Thỉnh Quán Thế Âm kinh sớ của Trí Khải ghi lại: Ngài An Lẫm (một trong bảy nhà ở Giang Bắc), ở chùa Kỳ-xà cho rằng Thích-ca là tích thân của ứng thân, Di-đà là bản thân của chân thân; ứng thân không thể tiêu phục độc hại, chân thân mới có thể tiêu phục được. Lấy Di-đà và Thích-ca phối hợp với hai môn bản và tích, hiển nhiênkế thừa thuyết của ngài Pháp Vân. Lại nữa, xét về sự kiện, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), các ngài Pháp Duyệt v.v… đúc tượng Vô Lượng Thọ bằng đồng cao một trượng chín thước ở chùa Quang Trạch, có thể cho rằng đương thời chùa Quang Trạchtrung tâm phổ biến rộng về tín ngưỡng Tịnh Độ.

Lại nữa, theo Tì-kheo-ni truyện quyển 4 có ghi: Ni sư Đạo Quý ở chùa Đỉnh Sơn, thường tụng kinh Thắng Man, kinh Vô Lượng Thọ, suốt cả ngày đêm. Niên hiệu Thiên Giám thứ 15 (516TL), thời Lương, Đạo Quý thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi.

Tục cao tăng truyện quyển 16 ghi: Ngài Đạo Trân, đầu thời Lương, ngài ở Lô sơn, thường tu quán Di-đà. Ngài mộng thấy có người chèo thuyền trong biển lớn, người ấy nói đi về nước A-di-đà, ngài Đạo Trân muốn đi theo. Người chèo thuyền nói: “Chưa tu Tịnh Độ, bảo nên tắm rửa sạch sẽ và tụng kinh A-di-đà”. Khi tỉnh mộng, ngài Đạo Trân theo như lời dạy trong mộng mà thực hành, liền cảm được điều lành, như nguyện vãng sinh. Việc này được ghi trong A-di-đà kinh bất khả tư nghị thần lực truyện và A-di-đà kinh hậu kí được biên tập vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, thời Đường. Nhưng trong đó chỉ ghi là thiền sư Trân, lại nói giấc mộng của ngài thấy nhằm vào giữa niên hiệu Thiên Gia (501-565TL), thời Trần. Ở trong Thừa Hòa ngũ niên nhập Đường cầu pháp mục lục của Viên Nhân, liệt kê có một quyển Niệm Phật tam-muội chỉ qui của ngài Huệ Trân chùa Di Ái, Lô sơn, thời Tùy. Nếu ngài Huệ Trân này và thiền sư Trân đồng một người thì thiền sư Trân chẳng phải là ngài Đạo Trân đầu thời Lương, có lẽ thiền sư Trân là một vị khác sống giữa thời Trần và thời Tùy.

Tiết 3: Tạo lập tượng Phật A-di-đà

Từ cuối thời Tấn về sau, tín ngưỡng Tịnh Độ được lưu hành, đồng thời tượng Phật A-di-đà cũng liên tiếp được đúc tạc, sự tạo tượng ở phương bắc phần nhiều là tượng Phật bằng đá; trái lại ở phương nam thì chủ yếu là đúc tượng Phật bằng đồng. Theo Lương cao tăng truyện quyển 13 và Danh tăng truyện sao có ghi: Ngài Tăng Hồng ở chùa Ngõa Quan, Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô), vào cuối thời Tấn, dù thời này bị nghiêm cấm thu gom đồng rất chặt chẽ nhưng ngài vẫn quyên góp những người có duyên để đúc được một pho tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu, cho nên ngài bị bắt vào tù. Ngài liền tụng kinh Quán Thế Âm, nhất tâm hướng về tượng Phật, bỗng nhiên được linh cảm, thế là ngài thoát được nạn.

Lại nữa, ngài Tăng Lượng ở Giang Lăng muốn tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu, nhưng đồng không đủ, ngài bèn nhờ một trăm người mạnh khỏe và mười chiếc thuyền lớn đến miếu Ngô Tử Tế, suối Giới Đồng, Tương Châu lấy đồng về đúc tượng. Thế nhưng, tượng không được sáng, nên Tống Văn Đế phát tâm mạ lớp vàng mỏng để cho sáng và an trí tượng ở chùa Bành Thành. Trong niên hiệu Thái Thỉ, thời Tống (465-471TL), Minh Đế lại dời tượng đến chùa Tương Cung. Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12 có ghi: “Sa-môn Thích Tăng Lượng ở Kinh Châu tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao một trượng sáu”, chính là thuật lại nguyên do tạo tượng này.

Lại nữa, Tì-kheo-ni truyện quyển 2 của ngài Bảo Xướng, thời Lương có ghi: Ni sư Đạo Quỳnh ở Chùa Kiến Phúc, Kim Lăng, vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 15 (438TL), thời Tống, đã tạo tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng. Danh tăng truyện sao ghi: Ngài Đạo Tĩnh ở chùa An Lạc, thời Tống, đã tạo tượng Vô Lượng Thọ cao năm thước, bằng đồng. Ngài Huệ Kính ở chùa Kỳ-hoàn, tạo tượng Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu. Phật tổ thống kỷ quyển 28 có ghi: Ngài Đạo Viên thời Tống, đã tạo bảy pho tượng lớn cho các chùa, còn nấu đồng để đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ. Trong Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục có mục Tống Hiếu Vũ Đế tạo Vô Lượng Thọ kim tượng ký, Lâm Ấp quốc hiến Vô Lượng Thọthạch tượng ký. Lại nữa, Điêu khắc thiên trong Trung Quốc mỹ thuật sử của Đại Thôn Tây Nhai thì trong bài Minh khắc nơi pho tượng đá được điêu khắc vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 25 (448TL), thời Tống, có phụ ghi: “Vì cha mẹ, thân mình và con cái mà phát nguyện vãng sinh cõi nước Phật Vô Lượng Thọ”. “亮 là chữ mượn của chữ量, tức là tượng Vô Lượng Thọ”. Nhờ vậy, ta có thể biết tình trạng tượng Phật Vô Lượng Thọ được liên tiếp đúc tạo vào thời Lưu Tống.

Đến thời đại Tề, Lương, tương truyền sự tích về tạo tượng cũng không ít. Quảng hoằng minh tập quyển 16 ghi: Niên hiệu Vĩnh Minh thứ tư (486TL), thời Tề, phu nhân họ Trần thêu bài tán tôn tượng Phật Vô Lượng Thọ cho tì-kheo-ni Bảo Nguyện ở chùa Lạc Lâm. Lương cao tăng truyện quyển 13 có ghi: Ngài Pháp Duyệt ở chùa Chính Giác, Kiến Khang cùng với ngài Trí Tĩnh ở chùa Bạch Mã quyên góp những người hữu duyên, dự định đúc pho tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng tám. Vào thời Lương mới được cho phép đúc, niên hiệu Thiên Giám thứ 8 (509TL), ở chùa Tiểu Trang Nghiêm, Kiến Nghiệp chuyên lo việc đúc tượng. Vì không đủ đồng để đúc, nên dâng tấu xin đồng công đức, nên khi đúc thành tượng cao một trượng chín, đem an trí ở chùa Quang Trạch, là pho tượng bằng đồng lớn nhất ở phía đông Thông Lĩnh. Quang Trạch tự trượng cửu Vô Lượng Thọ kim tượng ký được ghi ở Pháp uyển tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12, có ghi nguyên nhân có pho tượng này. Lại nữa, trong Quảng hoằng minh tập quyển 16 có ghi: Di-đà Phật minh của Thẩm Ước, thời Lương. Trong Nam sử quyển 39 có ghi: Lưu Tiềm, thời Lương có soạn Ung châu kim tượng tự Vô Lượng Thọ Phật tượng bi. Thần dị điển trong Cổ kim đồ thư tập thành, quyển 90 ghi: Một bài Di-đà Phật tượng minh của Giản Văn Đế, thời Lương. Theo A-di-đà kinh sớ của Nguyên Chiếu, thời Tống có ghi: Trần Nhân Lăng, thời Lương, kiến lập bia kinh A-di-đà ở chùa Long Hưng, Tương Châu (Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Trong kinh này từ câu “Nhất tâm bất loạn” trở xuống tăng thêm hai mươi chữ “Chuyên trì danh hiệu nãi chí đa thiện căn phúc đức nhân duyên…”. Về sau Nguyên Chiếu mô phỏng khắc lại bia ấy, dựng ở chùa Sùng Phúc, Linh Chi, Tây Hồ (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang). Sau đó, Nhật Bản cũng mô phỏng khắc lại bia này, hiện còn ở trong thần xã Trúc Tiền Tôn Tượng, thì bia này được xếp vào một trong những quốc bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10402)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9674)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23594)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11834)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10729)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10066)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28675)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29397)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11381)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26312)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31010)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25318)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22794)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13044)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21923)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14131)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12428)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11236)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10687)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38050)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13663)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13449)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12336)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12581)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12049)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10719)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12789)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7387)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12610)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12034)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12863)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11937)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10690)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11355)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11648)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10855)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10786)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10364)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10477)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10701)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10624)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11904)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10687)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10797)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11376)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11088)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11621)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10510)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11249)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12294)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11157)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11417)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11499)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11289)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12994)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14163)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11002)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11859)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13153)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11571)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11408)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10926)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11274)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10808)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11053)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10874)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10240)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17102)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10995)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10861)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11384)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11073)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11373)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10350)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12759)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19238)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19673)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20309)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19738)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19019)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20444)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21065)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17913)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21794)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant