Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 09: Luận điểm về Tịnh độ của Thiên Thai Trí KhảiThường hành tam-muội

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10577)
Chương 09: Luận điểm về Tịnh độ của Thiên Thai Trí Khải và Thường hành tam-muội

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG IX: LUẬN ĐIỂM VỀ TỊNH ĐỘ CỦA THIÊN THAI TRÍ KHẢITHƯỜNG HÀNH TAM-MUỘI

Tiết 1: Sự tích và trứ tác của Trí Khải

Ngài Trí Khải, người huyện Hoa Dung, Kinh Châu (huyện Hoa Dung, tỉnh Hồ Nam). Ngài sinh vào niên hiệu Đại Đồng thứ tư (538TL), thời Lương. Năm 18 tuổi, ngài xuất gia với ngài Pháp Tự, chùa Quả Nguyện ở Tương Châu (huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam). Thiên Gia nguyên niên, thời Trần (560TL), ngài lên núi Đại Tô, Quang Châu (huyện Thương Thành, tỉnh Hà Nam), yết kiến ngài Huệ Tư, nhập đạo tràng Phổ Hiền, ngộ nhập được Pháp Hoa tam-muội. Về sau, ngài đến Kim Lăng giảng kinh Pháp hoa và luận Đại trí độ.

Niên hiệu Thái Kiến thứ 7 (575TL), ngài vào núi Thiên Thai (Thai Châu, tỉnh Chiết Giang), xây dựng chùa Tu Thiền. Đến niên hiệu Chí Đức thứ 3 (585TL), ngài vâng mệnh đến Kim Lăng, giảng luận Đại trí độ và các kinh Nhân vương bát-nhã v.v…rồi ngài đến các vùng Lô sơn v.v… Niên hiệu Khai Hoàng thứ 13 (593TL), thời Tùy, ở chùa Ngọc Tuyền, huyện Đương Dương (huyện Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc), ngài giảng Pháp hoa huyền nghĩa, năm sau ngài nói Ma-ha chỉ quán , sau đó ngài trở về núi Thiên Thai. Tháng 11, niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (597TL), ngài thị tịch được an táng ở phía đông núi Thạch Thành, hưởng thọ 60 tuổi. Ngài là sơ tổ của tông Thiên ThaiTrung Quốc, người bấy giờ gọi ngài là Trí Giả đại sư hoặc Thiên Thai đại sư. Học phong của ngài lấy kinh Pháp hoa làm tông, lập giáo tướng ngũ thời, bát giáo, rộng nói yếu nghĩa khai quyền hiển thật. Ngài y cứ vào Trung luận v.v… mà đề xướng thuyết nhất tâm tam quán. Ngài không chỉ cổ xúy yếu chỉ quán tâm, mà còn tin sâu Di-đà, tu pháp Bát-chu thường hành tam-muội.

Trí Giả đại sư biệt truyện ghi: Khi sắp lâm chung, nằm nghiêng bên phải, xoay mặt về phía Tây, chuyên tâm xưng niệm Di-đà, Bát-nhã, Quán Âm. Sau cùng, xướng hai bộ kinh Pháp hoaVô Lượng Thọ, nghe kinh Vô Lượng Thọ xong, ngài tán rằng: “Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm tịnh độ, ao hoa, cây báu dễ đến mà lại không có người đến. Tướng địa ngục hiện, nếu người hối cải thì còn có thể vãng sinh, huống là người tu trì giới, định, tuệ? Vì thế công sức hành đạo thật sự không luống uổng. Phạm âm thanh tướng thật không dối gạt người”. Lại nói rằng: “Các thầy bạn của tôi theo hầu Quán Âm đều đến nghinh đón tôi”. Điều này có thể biết lòng tin tịnh độ sâu sắc cầu sinh Tây phương của ngài .

Ngài trứ tác rất nhiều sách, và đều do đệ tử ngài là Quán Đảnh ghi chép lại như: Pháp hoa kinh huyền nghĩa 20 quyển, Pháp hoa văn cú 20 quyển, Ma-ha chỉ quán 20 quyển, Kim quang minh kinh huyền nghĩa 2 quyển, Kim quang minh kinh văn cú 6 quyển, Duy-ma kinh huyền sớ 6 quyển, Duy-ma kinh lược sớ 10 quyển, Bồ-tát giới nghĩa sớ 2 quyển, Tứ giáo nghĩa 12 quyển v.v… Ngoài ra, các bộ 1 quyển như: Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, A-di-đà kinh nghĩa sớ, Tịnh Độ thập nghi luận, Ngũ phương tiện niệm Phật môn v.v… tương truyền đều do ngài soạn thuật, nhưng các sách này, chúng tôi thiết nghĩ đều do người đời sau làm giả rồi mượn tên của ngài.

Trong đây, Quán kinh sớ, theo Thai châu lục của ngài Tối Trừng ghi thì Quán kinh sớ do đại sư Trí Giả trứ tác. Lại nữa, ngài Pháp Thông thời Đường viết bộ Thích quán Vô Lượng Thọ Phật kinh ký 1 quyển, ngài Tri Lễ thời Tống viết bộ Diệu tông sao 6 quyển. Cả hai bộ này đều giải thích văn nghĩa của Quán kinh sớ. Tông cảnh lục của ngài Diên Thọ thời Tống, Cực Lạc cửu phẩm vãng sinh nghĩa của Lương NguyênNhật Bản v.v… cũng có dẫn dụng. Điều này có thể thấy từ xưa đến nay Quán kinh sớ rất được thịnh hành. Thế nhưng, trong Vãng sinh yếu tập ký quyển 8 của ngài Lương Trung nghi Vãng sinh yếu tập chưa dẫn dụng sách này và chỉ trích văn cú trong đó tương tợ như Quán kinh sớ của Tịnh Ảnh Huệ Viễn nhưng không có giải thích. Giữa niên hiệu Trinh Hưởng, Đại Dã Sơn Nhật Nghiêu đưa ra bảy vấn nạn, chỉ ra đó là ngụy tác của người đời sau. Vào niên hiệu Hưởng Bảo, Minh Lũng Sơn Nhật Đế lại nêu ra bảy điểm nghi ngờnhận định Quán kinh sớ chẳng phải do ngài Trí Giả trứ tác. Tác giả cũng từng nghiên cứu thông suốt văn nghĩa của sách này, xác nhận đó chính là tác phẩm của người đời sau làm giả rồi mượn tên của ngài Điều này đã được trình bày rõ trong cuốn Nghiên cứu về giáo lý Tịnh Độ, nay chỉ nói sơ lược.

Lại nữa, về A-di-đà kinh nghĩa sớ, ban đầu thấy trong Thai châu lục của ngài Tối Trừng có ghi là A-di-đà kinh nghĩa sớ do đại sư Trí Giả trứ tác, về sau trong A-di-đà kinh nghĩa sớ của ngài Trí Viên thời Tống có ghi: “Bấy giờ, có Di-đà kinh sớ từ nước Nhật truyền đến, nói thuyết của ngài Trí Giả là không đúng, vì văn từ quê mùa, nghĩa lý sơ sài, thiết nghĩ là do người Nhật làm giả rồi mượn tên của ngài”. Sơn gia giáo điển chí trong Phật tổ thống kỷ quyển 25 có ghi: Sách này tuy đã từng được nhập tạng, nhưng các ngài Cô Sơn, Tịnh Giác cho rằng là văn vay mượn, chỉ có pháp sư Thần Chiếu đã từng dùng sớ này để giảng kinh ở viện Thiên Thai Pháp Luân. Sách hiện còn chỉ là sách lược giải kinh bản mà thôi, e rằng sách ấy chẳng phải do ngài Trí Khải trứ tác. Nhưng Thai châu lục đã có ghi tên sách, điều đó có thể biết sách này được lưu hành vào thời Đường, chẳng phải sách do của người Nhật làm giả rồi mượn tên của ngài.

Lại nữa, về Tịnh độ thập nghi luận còn gọi là A-di-đà quyết thập nghi, trong Niệm Phật tam-muội bảo vương luận của ngài Phi Tích thời Đường và Thích quán kinh ký của ngài Pháp Thông đều dẫn dụng văn trong Tịnh độ thập nghi luận, trong Thai châu lục của ngài Tối Trừng cũng có nêu tên luận này (không có tên tác giả). Nhưng trong sách này không chỉ dẫn dụng Tân thích tạp tập luận và Tây Vức ký của ngài Huyền Trang, mà xem ra văn nghĩa của Tịnh độ thập nghi luận thì cũng thấy rõ luận này chẳng phải chân tác của ngài Trí Giả. Điều này đã được trình bày rõ trong cuốn Nghiên cứu về giáo lý Tịnh Độ.

Về Ngũ phương tiện niệm Phật môn, theo Nhập Đường cầu pháp mục lục của ngài Viên Nhân có ghi là sách này do ngài Trí Khải trứ tác và trong Phật tổ thống kỷ quyển 25 cũng có nêu là sách này do ngài Trí Khải soạn thuật. Nhưng sách này dẫn dụng kinh Đại bảo tích do ngài Bồ-đề-lưu-chí dịch vào thời Đường, lập luận trong sách này cũng không hợp với học thuyết của ngài Trí Khải, có thể thấy sách này cũng chẳng phải do chính ngài soạn. Đây là tác phẩm giả mượn tên của ngài có liên quan đến tịnh độ mà thôi, chính là vì ngài Trí Giả cầu sinh Tây phương, ý muốn mượn danh tiếng của ngài để phù trợ sự hoằng truyền tịnh độ.

Tiết 2: Phân loại tịnh độ và phán định tịnh độ Di-đà

Ngài Trí Khải cũng có phân loại tịnh độ, Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 v.v…đem chỗ cư trú của phàm thánh trong mười pháp giới phân làm 4 loại: Phàm thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độThường tịch quang độ.

- Phàm thánh đồng cư độ còn gọi là cõi Nhiễm tịnh, cũng tức cõi nằm trong giới nội, có hai loại là phàm cư và thánh cư. Cõi phàm cư thì có sự sai khác giữa chúng sinh thiện, chúng sinh ác, chỗ của trời người và bốn ác thú cư trú. Cõi thánh cư thì có sự phân biệt Thật thánh và Quyền thánh; nhị thừa và bồ-tát địa tiền sinh ở cõi giới nội thì gọi là Thật thánh; bồ-tát địa thượngNhư Lai vì để giáo hóa người có duyên mà ứng sinh vào giới nội thì gọi là Quyền thánh. Người ở cõi đồng cư có tịnh độuế độ, như thế giới Ta-bà đầy dẫy sự nhơ nhớp nên gọi là uế độ; thế giới Tây phương An Dưỡng trang nghiêm thanh tịnh, không có bốn đường ác nên được gọi là tịnh độ.

- Phương tiện hữu dư độcõi giới ngoại, tức là chỗ nhị thừa và bồ-tát chứng phương tiện đạo cư trú. Các bậc thánh nhân này đã tu phương tiện đạo của hai pháp quán Không và Giả, dứt trừ thông hoặc, xả bỏ thân phân đoạn, sinh ở giới ngoại cho nên gọi là phương tiện. Nếu chưa đoạn được biệt hoặc vô minh thì còn chịu biến dịch sinh tử cho nên gọi chỗ các ngài cư trú là cõi hữu dư. Kinh Pháp hoa có ghi: “Ta ở cõi khác làm Phật, còn có tên khác, người này tuy nghĩ rằng Ta đã diệt độ nhưng Ta ở cõi kia cầu trí tuệ Phật”. Lại nữa, luận Đại trí độ có ghi: “Hàng nhị thừa nhập diệt, tuy không sinh trong ba cõi nhưng ở giới ngoạitịnh độ, họ ở đó thụ thân pháp tính”, đây chính là chỉ cho cõi này.

- Thật báo vô chướng ngại độ còn gọi là Quả báo độ, tức là thế giới Liên Hoa Tạng chỗ bồ-tát pháp thân cư trú. Bồ-tát này quán nhất thật đế, phát chân vô lậu, đắc quả báo chân thật, nhưng vẫn chưa hoàn toàn hết vô minh, thấm nhuần nghiệp vô lậu, thụ báo thân pháp tính, cho nên gọi là Thật báo. Cõi này sắc tâm vô ngại, một thế giới nhiếp tất cả thế giới, tất cả thế giới cũng đều nhiếp tất cả thế giới, trùng trùng vô tận như các hạt châu của mạng lưới Nhân-đà-la, cho nên gọi là cõi Vô chướng ngại. Kinh Nhân vương bát-nhã có ghi: “Tam hiền, thập thánh trụ quả báo”. Luận Đại trí độ có ghi: “Pháp tính thân Phật thuyết pháp cho pháp thân bồ-tát nghe, cõi đó không có danh từ Thanh văn, Bích-chi-phật”. Thế giới Nhân-đà-la võng được nói trong kinh Hoa nghiêmthế giới Hoa Vương được nói trong luận Nhiếp đại thừa, cũng đều chỉ cho cõi này.

- Thường tịch quang độ còn gọi là Pháp tính độ tức là Diệu giác cực trí sở chiếu lý pháp giới như như, gọi đó là cõi. Bởi vì chân như Phật tính chẳng phải thân cũng chẳng phải độ, nay tạm thời dựa vào bên trí tính thì gọi là thân, dựa vào bên pháp tính thì gọi là độ. Lại nữa Thường nghĩa là pháp thân, Tịch nghĩa là giải thoát, Quang nghĩa là bát-nhã. Điều này có thể thấy là dựa vào tam đức mật tạng của Như Lai mà nói. Kinh Nhân vương bát-nhã có nói: “Chỉ có Phật ở tịnh độ”; kinh Duy-ma nói: “Tâm tịnh thì Phật độ tịnh”; kinh Phổ Hiền quán nói: “Thích-ca Mâu-ni còn được gọi là Tì-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, chỗ của Phật cư trú gọi là Thường tịch quang; tất cả cũng đều chỉ cho cõi này.

Đây là ngài Trí Khải nói rộng về bốn cõi, ba cõi đầu là do tự nghiệp của chúng sinh cảm ứng, còn Thường tịch quang độ chỉ có Đức Phật mới được. Hai độ Phàm thánh đồng cư và Phương tiện hữu dư là chỗ Ứng thân Phật hóa hiện nên gọi là Ứng độ. Thật báo độ là chỗ báo thân Phật hóa hiện nên gọi là Ứng độ, cũng gọi là Báo độ. Thường tịch quang độ là chỗ pháp thân Phật cư trú nên gọi Chân tịnh độ, chẳng phải Ứng độ, cũng chẳng phải Báo độ.

Luận điểm về tịnh độ của ngài Trí Khải, cơ bản không khác với thuyết của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn. Ngài Trí Khải phân biệt bốn độ, chúng sinh, Phật đều có cõi của họ, hoàn toàn đồng với thuyết của ngài Huệ Viễn đã nói. Bốn độ này đem so với các độ trong thuyết của ngài Huệ Viễn thì Phàm thánh đồng cư độ tương đương với Sự tịnh độ; Phương tiện hữu dư độ tương đương với Tướng tịnh độ; hai độThật báo và Tịch quang tương đương với Chân tịnh độ. Ngài Trí Khải lấy Phàm thánh đồng cư độ thông với hai cõi Tịnh và Uế; cõi Uế chỉ rộng ra là chỗ cư trú của chúng sinh trong sáu đường, khác xa với Sự tịnh độ của ngài Huệ Viễn theo sự tướng trang nghiêm tráng lệ mà lập ra. Nhưng trong Sự tịnh độ, ngài Huệ Viễn cho rằng chư thiên ở cõi Sắc, cõi Dục nhờ thiện căn hữu lậu mà sinh Uế độ, cho nên có thể nói trong Sự tịnh độ cũng bao hàm cả Uế độ. Lại nữa, nhờ thiện căn xuất thế mà được sinh về tịnh độ Di-đà, đây chính là cõi mà ngài Trí Khải đã nói là tịnh độ đồng cư, cho nên tông chỉ của hai thuyết có chung quan điểm. Phương tiện hữu dư độ chỉ cho chỗ cư trú của hàng A-la-hán v.v… phù hợp với cõi do thiện căn của hàng nhị thừa tự lợi mà được ở trong Tướng tịnh độ. Trong Tướng tịnh độ, ngài Huệ Viễn lập riêng cõi do thiện căn của các bồ-tát hóa tha mà được, phù hợp trượng thất của Duy-ma, còn ngài Trí Khải thì cho rằng đây chính là cõi nhất thời biến hiện nên lược bỏ. Thật báo độ tương đương hợp với Ly vọng độ, Tịch quang độ tương đương với Thuần tịnh độ trong Chân tịnh độ của ngài Huệ Viễn. Ngài Trí Khải giáo hóa ở Giang Nam, ngài Huệ Viễn cũng tham gia giảng thuyết ở đây, hai ngài phải chăng có qua lại với nhau, tuy không biết rõ nhưng ngài Trí Khải kém ngài Huệ Viễn 15 tuổi, vả lại thuyết của ngài Trí Khải phần nhiều là do môn nhân của ngài ghi chép lại, thuyết bốn độ này có lẽ là dựa vào thuyết của ngài Huệ Viễn, sửa đổi nhiều ít mà thành chăng!

Liên quan đến thân, độ của Phật Di-đà, ngài Trí Khải cho rằng Phật A-di-đà là ứng thân, cõi của Phật là Phàm thánh đồng cư độ. Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 có ghi: “Cõi của Phật Vô Lượng Thọ tuy có quả báo thù thắng khó thể tỉ dụ nhưng cũng có nhiễm tịnh, phàm thánh đồng cư. Vì sao? Vì cõi này tuy không có bốn thú mà có trời người. Lại nữa, Quán kinh nói: “Người phạm trọng tội, nếu lúc mạng chung thành tâm sám hối, nhất tâm niệm Phật thì chuyển đổi được nghiệp chướng, liền được vãng sinh”. Vì thế, tuy hạng phàm phu đầy dẫy phiền não, cấu nhiễm nhưng nhờ trong tâm giữ chắc nguyện lực nên cũng được cư trú, phàm phu đầy dãy phiền não này cũng được sinh về tịnh độ, nên gọi cõi ấy là Phàm thánh đồng cư độ. Lại nữa, Pháp hoa văn cú quyển 9, Kim quang minh kinh văn cú quyển 2 v.v… luận về thọ lượng ba thân của Phật, pháp thân vô lượng phi lượng, báo thân kim cang trở về trước là hữu lượng, báo thân kim cang trở về sau là vô lượng, ứng thân tùy duyênhữu lượng, ứng dụng không dứt là vô lượng. Lại nữa, Phật Di-đà tuy gọi là Vô Lượng Thọ nhưng kinh Quán Âm thụ ký ghi: “Sau khi Đức Phật ấy nhập diệt, Quán Âm bổ xứ thành Phật”. Thọ mạng của Phật thật ra có lượng, cho nên Đức Phật kia là ứng thân. Đây cũng hoàn toàn đồng với thuyết của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn.

Tiết 3: Thuyết Thường hành tam-muội

Ngài Trí Khải đối với sinh nhân của tịnh độ Di-đà dường như không có sự giảng giải nào khác, nhưng theo Quán kinh thì lấy ba phước, mười sáu pháp quán làm nghiệp vãng sinh, cũng không khó tưởng tượng. Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ có ghi: “Kinh này dùng quán tâm làm tông, dùng thật tướng làm thể. Người muốn vãng sinh Cực Lạc cần phải tu mười sáu pháp diệu quán; muốn thấy Di-đà Thế Tôn phải thực hành ba loại tịnh nghiệp”. Sách này tuy chẳng phải của ngài Trí Khải soạn, nhưng ý nó bao trùm luôn cả ý trên.

Lại nữa, Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 ghi: “Tịnh độ phàm phu thật sinh là cõi không có bốn thú, chỉ vì còn kiến hoặc, tư hoặc tưới tẩm thiện hữu lậu nên sinh vào trời người”. Gọi Tịnh độ Di-đà này không có bốn ác thú, phàm phu sinh chỉ vì kiến hoặc, tư hoặc tưới tẩm thiện hữu lậu nên được sinh làm trời người trong cõi ấy. Chủ yếu là theo nghĩa của nhuận sinh hoặc mà nói.

Ngài Trí Khải ở trong Ma-ha chỉ quán còn dùng phương pháp chỉ quán tiến tu, nói bốn pháp tam-muội. Trong đó, y theo kinh Bát-chu tam-muội, gọi xướng niệm Di-đà là Thường hành tam-muội. Tuy chưa trực tiếp nói đây là nhân của hạnh tịnh độ, nhưng có thể biết người đắc tam-muội này cũng có thể vãng sinh. Ma-ha chỉ quán quyển 2 nói pháp Thường hành tam-muội: Người tu tam-muội này, trước phải trang nghiêm đạo tràng, chuẩn bị các đồ cúng dường, tắm rửa thân thể đúng pháp, thay đổi y phục, chuyên tâm hành đạo, lấy chín mươi ngày làm một kỳ hạn, tức là trong chín mươi ngày thân thường bước đi không ngừng nghỉ; miệng thường xướng danh hiệu Phật A-di-đà không ngừng nghỉ, hoặc vừa xướng vừa niệm, hoặc trước niệm sau xướng, hoặc trước xướng sau niệm, niệm xướng nối tiếp nhau không nghỉ. Trong từng bước từng bước, từng tiếng từng tiếng, từng niệm từng niệm chỉ giữ danh hiệu Phật A-di-đà. Ý luôn nghĩ đến Phật A-di-đà đang ngồi thuyết pháp cho bồ-tát nghe nơi gác báu, trong ao sen ở cõi Tây phương. Lại nữa, niệm ba mươi hai tướng của Đức Phật kia, theo chiều nghịch từ tướng bánh xe nghìn căm dưới chân, quán niệm lần cho đến vô kiến đỉnh tướng ở đỉnh đầu. Cũng có thể theo chiều thuận từ vô kiến đỉnh tướng ở đỉnh đầu đến tướng bánh xe nghìn căm dưới chân, cứ quán niệm ba mươi hai tướng của Đức Phật lặp đi lặp lại theo hai chiều thuận nghịch như vậy. Lại nữa, có thể ngay lúc ấy chăm chú quán tức Không, tức Giả, tức Trung.

Bởi vì pháp Bát-chu tam-muội thấy Phật, trước đây ngài Huệ ViễnLô sơn đã chọn pháp này để áp dụng, các thành viên của Bạch Liên xã đều thực tu pháp này, pháp này chủ yếu lưu hành ở phương Nam, ngài Trí Khải e rằng cũng chịu ảnh hưởng của ngài Huệ ViễnLô sơn, nên lấy pháp Bát-chu tam-muội thấy Phật làm một trong bốn loại tam-muội chăng! Sau này các ngài Thiện Đạo, Huệ Nhật, Thừa Viễn, Pháp Chiếu cũng đều tu pháp này, nên pháp này trở thành một dòng lớn trong giáo lý của tông Tịnh ĐộTrung Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9796)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9960)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9935)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20514)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10353)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9955)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10349)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9934)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34423)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8717)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9279)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11099)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8521)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9803)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9183)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20457)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19200)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8759)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8870)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12114)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9603)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23006)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9004)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9265)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9975)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9904)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10626)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12490)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9339)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9201)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9324)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10459)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22006)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22252)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16610)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9541)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10200)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8399)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8629)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12275)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9136)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9613)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8622)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9454)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8625)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8360)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8478)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10192)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23639)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9576)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9400)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9007)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8344)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8532)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7885)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7983)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8808)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8937)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10066)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8631)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30415)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30090)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24180)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9638)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9519)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9508)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7860)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9074)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28225)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23723)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12247)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8888)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14243)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9659)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9347)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9646)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30905)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27124)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32722)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10576)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58688)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10658)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9401)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9567)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13946)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10769)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28166)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23281)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant