Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Xuân tu học

09 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15153)
Xuân tu học

XUÂN TU HỌC

Thích Hạnh Phú 

xuantuhoc-01 

 

Thời gian thấm thoát thoi đưa, đã gần bốn năm người viết xa thầy, xa huynh đệ để vào miền Nam tu học. Thế rồi, trong chuyến đi về miền Trung thăm thầy, thăm huynh đệ, tình cờ có vị Phật tử gặp người viết nói rằng: “Thưa thầy! Trong dịp Tết, con thấy các cơ quan đoàn thể thường treo băng rôn “Chúc Mừng Năm Mới”, còn ở các chùa thì treo “Mừng Xuân Di Lặc” hoặc “Mừng Xuân An Lạc”, con không hiểu lắm, xin thầy nói rõ cho con được biết. Nhân dịp xuân sắp về, người viết xin chia sẻ đôi nét về ý nghĩa câu “Mừng Xuân Di Lặc” hoặc “Mừng Xuân An Lạc”. Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích phần nào thêm kiến thức cho quý Phật tử trên bước đường tu học Phật giải thoát.

 

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mích Bồ-đề

Kháp tợ tầm thố giác.

Tạm dịch:

Phật pháp tại thế gian

Chẳng lìa thế gian giác

Lìa thế tìm bồ đề

Giống như tìm sừng thỏ.

 

thế gian, mùng một Tết thường được xem là ngày định đoạt của suốt cả một năm. Trong ngày này, mọi người thường dè dặt từng lời nói, từng hành động, dè dặt từng tên người đến thăm mình, dè dặt rất nhiều việc, v.v…, vì nhiều người nghĩ rằng trong một năm sắp đến được thành công hay thất bại trong cuộc sống đều quyết định bởi mùng một Tết. Như vậy mùng một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Chính vì thế, chư Tổ “tùy thuận chúng sanh”, lấy phương tiện làm chiếc thuyền từ để hướng dẫn chúng sanh từ bờ mê sang bến giác. Do đó, mùng một Tết được chọn là ngày vía đức Bồ Tát Di Lặc. Vì chúng ta thấy danh hiệu của Ngài là “NamLong Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật”, nên Phật tử chúng ta cũng tu học với mục đích chính là hi vọng tương lai mình thành Phật như Ngài.

Trong Phật giáo, có lẽ hình tượng Bồ-tát Di Lặc được nhiều người biết đến nhất. Mỗi khi bước chân đến chùa, hầu như chúng ta bắt gặp hình ảnh đầu tiên là tôn tượng của vị Bồ-tát Di Lặc được đặt trước khuôn viên chùa với hình dáng khá ấn tượng, dễ khắc sâu vào tâm trí người dù chỉ một lần nhìn thoáng qua. Thế nên, có câu ca tụng về nụ cười an nhiên tự tại và cái bụng lớn của Ngài:

Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Miệng cười thường xả, xả những việc khó xả ở thế gian”.

 

Có nhiều truyền thuyết nói về Ngài. Kinh Di Lặc Hạ Sanh ghi: Ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc Bà La Môn ở thôn Kiếp Ba Lợi thuộc xứ Nam Thiên Trúc (Ấn Độ cổ đại). Di Lặc trong tiếng Phạn là Maitryea, dịch nghĩa là Từ Thị, tức là người có tấm lòng từ bi. Tên chính của ngài là A-dật-đa (Ajita), chữ Hán dịch là Vô Năng Thắng (nghĩa là lòng từ của Ngài không ai vượt qua). Sở dĩ Bồ-tát Di Lặc có hiệu là Từ Thị bởi trong quá khứ, vì muốn giáo hóa chúng sinh nên lúc mới phát tâm tu hành, Ngài không ăn thịt, do nhân duyên ấy nên được gọi là Từ Thị. Chữ Từ là lòng từ, là chi đầu tiên trong Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Nhưng cũng có thuyết nói rằng Từ Thị là Ngài lấy theo họ của mẹ (giống như tôn giả Xá Lợi Phất cũng lấy theo họ mẹ). Ngài xuất gia dưới thời đức Thích Ca Mâu Niđức Phật thọ ký Ngài là vị Phật tương lai ở cõi Ta Bà. Hiện tại, Ngài là vị Đẳng giác Bồ-tát đang ở trên cõi trời Đâu Suất, chờ đợi đến khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc (pháp vận Thích Ca Mâu Ni Phật gồm 12.000 năm, hiện tại là ngàn năm thứ ba còn lại chín ngàn năm nữa), hết chín ngàn năm tại thế gian này sẽ không còn nghe danh từ Tam Bảo. Sau đó trải qua khoảng năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm thì Bồ-tát Di Lặc sẽ xuống cõi Ta Bà này thành Phật, là vị Phật thứ năm trong Hiền Kiếp. HT. Tịnh Không nói: trên cõi trời Đâu Suất có tuổi thọ là 4000 tuổi mà một ngày trên cõi trời Đâu Suất bằng bốn trăm năm dưới trần gian, một năm cũng có 360 ngày (4000 x 400 x 360 = 676.000.000 năm). Cũng có thuyết nói rằng con người khởi đầu là 84.000 tuổi cứ một trăm năm thì giảm một tuổi, giảm dần cho đến khi nào còn mười tuổi (gọi là thời kiếp giảm, hiện tại chúng ta đang ở trong kiếp giảm). Lúc đó, thế giới có nhiều nạn đao binh. Đao binh ấy không do người người giết nhau, mà lá cây ngọn cỏ biến thành gươm giáo bén, chặt cắt người chết. Hết nạn đao binh đến nạn dịch bệnh. Con người chết gần hết chỉ còn những người tu hành ẩn trên núi. Lúc đó, họ mới thấy do con người làm quá nhiều điều ác nên bị quả báo chết như vậy. Nhờ thế họ bắt đầu tỉnh thức, giác ngộ, nỗ lực tu mười điều thiện. Từ đó tuổi thọ cứ một trăm năm tăng một tuổi, tăng đến 84.000 tuổi (gọi là thời kiếp tăng). Bấy giờ, con người thuần lương thì Bồ-tát Di Lặc ra đời tu hành thành Phật dưới cội cây Long Hoa. Đây là Bồ-tát Di Lặc ở xứ Ấn Độ.

Hiện nay ở các chùa, chúng ta thường thấy được thờ cúng là tượng Bồ-tát Di Lặc của Trung Quốc. Tương truyền vào thời Nam Tống tại huyện Phụng Hóa (tỉnh Triết Giang ngày nay) xuất hiện một vị hòa thượng mặc áo phạch ngực, bụng phệ, miệng cười tươi, vai quảy cái bị to đi vào nhân gian gặp cái gì cũng xin bỏ vô bị. Người ta không biết tên họ của Ngài là gì, từ đâu đến. Do đó, họ đặt tên cho Ngài là Bố Đại Hòa thượng. Một hôm, có Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi:

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Bố Đại hòa thượng liền quăng cái túi vải xuống đất, không trả lời.

- Hỏi: Thế có còn con đường tiến lên không?

Bố Đại hòa thượng liền quảy cái bị trên vai rồi đi. Không nói lời nào.

Sau đó, Ngài về chùa Nhạc Lâm ngồi trên tảng đá nói bài kệ, rồi tịch.

Di Lặc chơn Di Lặc

Phân thân thiên bá ức

Thời thời thị thời nhân

Thời nhân tự bất thức.

Tạm dịch:

Di Lặc thật Di Lặc

Phân thân trăm, ngàn, ức

Luôn luôn chỉ người đời

Người đời tự chẳng biết.

 

 Vì thế, người đời sau mới biết Ngài là do Di Lặc Bồ-tát hóa thân và phỏng theo đó mà làm tượng để thờ Ngài.

 Phật giáo là một nền giáo dục thực tiễn, thiết thực. Vì thế, Phật giáo thông qua các hình tượng, danh hiệu nhằm giáo dục con người đạt đến chân – thiện – mĩ, sự an lạc giải thoát ngay trong hiện tại. Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Di Lặc vẫn không nằm ngoài mục đích như thế.

 “Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ. Miệng cười thường xả, xả những việc khó xả ở thế gian”.

 

 “Năng” là có thể, thuận theo. “Dung” là bao dung, chịu đựng. “Bụng lớn năng dung” nghĩa là cái bụng lớn có thể bao dung, chịu đựng, nhẫn nhục. Bao dung nhẫn nhục những gì mà người trong thiên hạ không nhẫn được. Đó là những thói hư tật xấu cũng như những điều hay lẽ phải của người thế gian. Bao dung những tham, sân, si, mạn cũng như những từ, bi, hỷ, xả. Trong cuộc sống đôi khi ta gặp phải những lời chửi mắng, gièm pha, phỉ báng, vu oan đến với mình, mình có nhẫn nại, bao dung, chịu đựng được hay không, xem như đó là những lời “nước đổ lá môn”. Người thế gian hay đem những điều đó để trong lòng, rồi sanh bực bội tức tối, từ đó đâm ra thù hận. Ngay như chính đức Phật, bậc giác ngộ viên mãn, Người hoàn toàn không có một điểm khuyết, như viên kim cương không bị trầy xước. Vậy mà lúc còn tại thế Ngài vẫn luôn bị bọn người ngoại đạo tìm đủ mọi thủ đoạn để hại Ngài, nhằm hạ thấp thanh danh của Ngài, huống hồ ta chỉ là một đệ tử nhỏ và là phàm phu nhiều tội nghiệp.

 Nụ cười của Bồ-tát Di Lặc xưa nay được rất nhiều Chư Tôn Đức cũng như các bậc thiện hữu tri thức viết, miêu tả, tốn không biết bao nhiêu giấy mực, ngôn từ mĩ miều để khen ngợi, tán dương nụ cười ấy. Nụ cười biểu hiện sự an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Nụ cười với niềm vui lớn lao đó biểu hiện từ trong tâm hoan hỷ mà ra, vì vậy khi nhìn vào ai cũng cảm nhận được và làm cho mình cùng hoan hỷ theo. Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc. Có an lạc thì cuộc sống mới có ý nghĩa và thật đáng sống. Hỷ tức là vui theo việc làm tốt của người, đạo Phật thường gọi là tùy hỷ công đức. Xả tức là bỏ, bỏ tất cả những điều phiền muộn do người tạo ra cho ta. Nếu chúng ta không thể xả được những điều gây nên sự phiền não, phiền muộn thì ta sẽ đau khổ triền miên. Đức tính hỷ xả chính là yếu tố cơ bản giúp chúng ta thăng tiến trên con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức của mình. Hỷ xả là chất liệu quý báu để mọi người có thể đùm bọc, thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ nhau, cùng hóa giải những oán kết của sự đố kỵ, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nếu trên con đường tu tập, chúng ta không có tâm hỷ xả thì khó tháo gỡ những vướng mắc, cố chấp dẫn đến khổ đau sinh tử. Chỉ khi trong chúng ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết buông bỏ những cố chấp, hẹp hòi, vị kỷ, xóa bớt hận thù, oan trái thì lúc ấy chúng ta mới cảm nhận được niềm an lạc hạnh phúc thực sự. Người viết có đọc một quyển sách nói rằng: “Cái khó thực hiện nhất của con người là nụ cười. Vì thế, nét đẹp nhất của con người cũng chính là nụ cười. Có bao giờ bạn đứng trước tấm gương, bạn tự cười với chính mình chưa? Hoặc là khi đang bị phiền muộn mà bạn cười sao cho những thứ phiền muộn theo nụ cười của bạn đổ ra sông ra biển. Lúc đó bạn sẽ cảm thấy tâm hồn thật thoái mái, dễ chịu, an lạc. Đó chính là nụ cười thật sự của bạn”.

HT. Tịnh Không cũng thường giảng: Một trong những tập khí lớn nhất của mỗi người chúng ta là lòng ganh tị, thấy ai giỏi hơn mình thì luôn tìm cách nói xấu, chê bai, gièm pha đủ điều. Đó là điểm thất bại sẽ làm mất công đức của chính ta. Ví dụ: có một người đi làm việc từ thiện. Chúng ta không có khả năng làm việc từ thiện như họ nhưng nếu chúng ta biết “tùy hỷ công đức”, vui theo việc làm thiện của họ thì chúng ta cũng có công đức ngang bằng với công đức của chính họ. Thậm chí công đức của ta lớn, nhiều hơn công đức của chính người đi làm việc thiện. Vì người đi làm việc thiện sẽ được nhiều người khen tặng, nên đôi khi họ khởi lên sự ngã mạn, chấp vào việc làm thiện, chấp vào danh thơm tiếng tốt. Do đó họ sẽ giảm công đức. Còn ta do không có khả năng làm việc thiện nên không có người khen tặng, tán dương, vì vậy công đức của ta được giữ nguyên, không bị mất. Ngược lại, người đời không hiểu biết việc này nên thường đem lòng đố kỵ, gièm pha chê bai người làm việc thiện. Vì lòng đố kỵ nên công đức của ta bị mất.

Trong ba nghiệp thân – khẩu – ý thì khẩu nghiệp là quan trọng. Chính vì thế, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật xếp nó lên đầu tiên “Khéo gìn khẩu nghiệp, không chê lỗi người. Khéo gìn thân nghiệp, không mất luật nghi. Khéo gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm”. Trong quyển sách Nhắc nhở tu hành của HT. Trí Tịnh, Ngài dạy: “...một lời nói nhưng làm người ta hoan hỷ, vui vẻ thì phước đức tăng thêm. Ngược lại, cũng một lời nói làm người buồn phiền, phiền não thì bị tổn phước đức...”.

HT. Tịnh Không nói: “Người tu Tịnh Độ chúng ta phải giống như Di Lặc Bồ-tát, bất luận ở đâu, bất luận gặp ai, đều chắp tay cười hì hì: “A DI ĐÀ PHẬT”. Người tu Tịnh Độ ấy chẳng cần phải phân biệt người khác nói năng lành hay chẳng lành, đều chẳng quan trọng. Họ nói lời lành, ta A DI ĐÀ PHẬT; họ nói lời chẳng lành, ta cũng A DI ĐÀ PHẬT. Hết thảy thị - phi, thiện - ác đến chỗ ta thảy đều hóa thành A DI ĐÀ PHẬT, đại từ đại bi!”. Đó là ý nghĩa của chữ “Hỷ”.

Xả” nghĩa là buông xả, không giữ những phiền não trong lòng. Người viết thường gặp nhiều người có lòng nhẫn nhục, nhưng không có tâm “xả”. Có một cô Phật tử kể cho người viết nghe câu chuyện như thế này: “Hôm qua, con bị người ta chửi con, dùng những từ thiếu văn hóa. Họ còn vu oan, phỉ báng cho con nữa, con tức lắm muốn chửi lại họ. Nhưng lại nghĩ mình mới đi tụng kinh ở chùa về nên con nhịn, chịu nhẫn nhục. Nhưng con tức lắm, tối đó con không thể nào ngủ được. Bây giờ con kể cho thầy nghe mà vẫn còn tức trong lòng”. Nghe cô Phật tử kể xong câu chuyện, người viết mới nói, “Mừng khen cho cô là lúc đó không tạo khẩu nghiệp, biết nhẫn nhục. Nhưng như thế vẫn chưa đúng, giỏi. Nếu cô xả được, không chấp vào những lời nói của người kia, không ghim vào lòng thì càng đáng khen hơn”.

Chính vì thế, có lẽ lời dạy quan trọng nhất từ hình tượng Di Lặc Bồ-tát là hạnh “buông xả”. Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi:

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Ngài liền quăng cái túi vải xuống đất, không trả lời gì hết.

- Hỏi: Thế có còn con đường tiến lên không?

Ngài liền quảy cái bị trên vai rồi đi. Không nói lời nào.

Hành động “quăng túi vải xuống đấtbiểu thị hạnh “buông xả”. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy rằng: “chánh pháp còn bỏ, huống hồ phi pháp”. Chúng sanh trôi nổi trong sanh tử luân hồi triền miên, bởi do hai thứ “ngã chấp” và “pháp chấp”, chấp vào cái thân này là của ta, cái nhà này là của ta, con cháu là của ta. Người thế gian thường tham chấp vào tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ, vì vậy tu hành nhiều kiếp vẫn không vượt qua ba cõi. Cổ đức thường nói: “Muôn thứ không đem theo được, chỉ có mỗi nghiệp theo thân”. Trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng, ko chân thật. Hết thảy pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng. Nên thường quán sát như vậy”. Tiền tài, địa vị, v.v… đều là những thứ không chân thật, có đó rồi mất đó. Thực vậy, chúng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng, khi nhắm mắt xuôi tay chúng ta cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Sáu mươi, bảy mươi năm trên thế gian thức khuya dậy sớm, tìm đủ mọi cách để kiếm đồng tiền, bát gạo, chưa kể vì kế sinh nhai mà nghĩ ra nhiều thủ đoạn, phương cách lừa gạt để rồi tạo không biết bao nhiêu là nghiệp. Đến khi sống trong cảnh tam ác đạo mới nhận ra tội lỗi thì đã quá muộn màng.

Do đó, HT. Thanh Từ nói rằng đại ý của Phật pháp chỉ có một chữ “buông xả” là được. Ngài nói: “Quý vị buông xả được một phần thì được một phần tự tại, an lạc, giải thoát”. Bởi thế, Cổ đức dạy: “bỏ tất cả được tất cả”. Có một vị Phật tử đến hỏi HT. Tịnh Không rằng: “Mỗi ngày niệm Phật tại Niệm Phật Đường, thậm chí mỗi ngày niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Người như vậy có thể vãng sanh không?”

Hoà thượng trả lời: “Tôi không thể nói người đó không vãng sanh. Tôi cũng không thể nói người đó có thể vãng sanh.”

Nguyên nhân là gì? Vì vãng sanh cần phải có hai điều kiện.

Điều kiện thứ nhất là lòng tin phải chân thật, tâm nguyện phải thiết tha, đó gọi là “chân tín, thiết nguyện”.

Điều kiện thứ hai là: “Buông xuống vạn duyên”.

Đầy đủ hai điều kiện này chắc chắn được vãng sanh! Thiếu một trong hai điều kiện này chưa chắc vãng sanh được. Hòa thượng nói thêm: cái khó buông xả nhất của người thế gian là tình cảm vợ chồng, con cháu, thứ đến là tiền bạc.

Người viết xin kể một câu chuyện, lúc sống vì không thể buông xuống nên chết phải bị đọa lạc, cũng để phần nào chứng minh lời nói của Hòa thượng. Người viết có quen một chú Phật tử. Chú này làm Trưởng Ban Hộ Niệm, chuyên lo việc hộ niệm người trước lúc lâm chung. Chú kể: “Có lần con đi Hộ niệm cho một bà cụ. Khi bà vừa mất, con cháu lo tranh giành nhà, đất, tiền, vàng, v.v… làm cho bà cụ này tuy đã tắt thở nhưng máu từ trong miệng chảy ra”. Mọi người nhìn thấy cảnh tượng như thế ai cũng sợ.

Đây là một câu chuyện khác. Người viết có quen một cô Phật tử, sinh sống tại Bình Dương. Một hôm, người chị ruột từ Bình Phước về thăm cô và con gái út của mình. Tối đó, hai chị em ngồi nói chuyện, người em nói: “Chị à! Em thấy chị cũng lớn tuổi rồi cũng hay đau bệnh. Thôi chị lo tu hành niệm Phật kẻo không kịp bây giờ”. Nghe vậy, người chị liền nói: “Chị biết tu hành là tốt. Nhưng bây giờ chị còn một nỗi lo lắng, không yên lòng. Đó là đứa con gái út đang học đại học năm nhất. Khi nó ra trường. chị xin cho nó vô làm ở ngân hàng, rồi sau đó chị sẽ xin vô chùa quét lá đa”. Nhưng thật không ngờ năm giờ sáng hôm sau, chị này thức dậy đi vệ sinh và bị đột quỵ chết ở ngoài nhà tắm. Cả nhà không ai hay biết gì, đến khoảng bảy giờ sáng mới phát hiện. Tuy chị chết rồi nhưng thần hồn vẫn luôn hiện về báo những điều này, điều kia cho con gái út.

Bởi thế, cổ đức nói:

“Dép dưới giường, lên giường vội biệt,

Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?

Mạng người hô hấp kinh thay,

Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau”.


Bởi thế, trong Ấn Quang Văn Sao, đại sư Ấn Quang có một phương pháp vô cùng khéo léo, Ngài dạy chúng ta hãy thường nghĩ tới cái Chết. Ngài nói người thật sự tu đạo nên dán chữ Chết trên trán, từng giờ từng phút nghĩ mình sắp chết. Chúng ta sắp chết rồi, còn có chuyện gì chưa buông xuống được? Không buông xuống cũng phải buông xuống. Danh vọng, tiếng tăm, lợi dưỡng, tài sắc, lời khen, ăn uống, ngủ nghỉ, có cũng tốt mà không có cũng không sao, tâm chúng ta còn vướng bận nữa không? Thật sự phải buông xuống vạn duyên, một lòng nghĩ tới A Di Đà Phật, tôi gần chết rồi, tôi sẽ đi theo A Di Đà Phật.

Còn HT. Tịnh Không thì nói: “Đêm nay tôi ngủ trên giường sẽ vãng sanh, tôi còn việc gì mà chưa buông xuống được. Tu hành, đặc biệtcông phu niệm Phật, thành tựu được hay không then chốt ở chỗ chúng ta có thể buông xuống được hay không? Chỉ cần chúng ta chịu buông xuống, không có một ai chẳng thành tựu, phàm những người không thành tựu đều là người chẳng buông xuống nổi.

Do đó, ngay từ bây giờ, Phật tử nhất định phải tập buông xuống hết những thị phi, nhân ngã, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thì tu hành mới mong có phần giải thoát. Trong kinh, đức Phật thường dạy các hàng đệ tử: “Tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ là năm gốc rễ của địa ngục”. Nếu phạm một trong năm thứ này thì đồng nghĩa với việc thành quả tu học cả đời chúng ta sẽ tan theo mây khói.

Ngày Tết cũng đã đến. Người thế gian thường vui theo cảnh vật của thế gian. Phật tử chúng ta về chùa thắp nhang lễ Phật vía đức Di Lặc Bồ-tát. Nhìn hình tượng của Ngài “với nụ cười hỷ xả, cái bụng lớn bao dung, nhẫn nhục”, chúng ta nguyện với lòng sẽ học tập theo công hạnh của Ngài để cuộc sống trong năm mới được hạnh phúc, an lạc, giải thoát.

Hiện nay, nhiều người thường nhầm lẫn giữa tượng Bồ-tát Di Lặc và tượng ông Địa. Theo HT. Tịnh Không: trên tay của tượng Bồ-tát Di Lặc chỉ cầm xâu chuỗi và cái túi vải (biểu thị lời khuyên mọi người tu hành niệm Phậtbố thí), ngoài ra không cầm bất cứ thứ gì. Còn ông Địa (vị cũng có cái bụng lớn, cũng nở nụ cười như Bồ tát Di Lặc) nhưng trên tay thì cầm thỏi vàng), đây là sự khác biệt giữa hai hình tượng. Cuối cùng, nhân dịp xuân về người viết xin tặng Phật tử bài thơ xem như một lời chúc.

 

 xuantuhoc-02

  Tượng Ông Địa tay cầm thỏi vàng  

xuantuhoc-03

Tượng Bồ tát Di Lặc tay cầm xâu chuỗi

 

Quý Tỵ năm mới xin đón chào

Già, trẻ, gái, trai vui thế sự

Phật tử vui- học chốn cửa Thiền

Được, mất, hơn, thua có xá gì

Thị phi, nhân ngã cũng bằng không

Bận chi lời nói tan mây khói

Tham chi ngũ dục thứ mộng huyễn

Lụy phiền lục trần thân tâm khổ

Học hạnh Từ Thị chân an lạc

Giao thừa thiêng liêng giờ đã đến

Lễ Phật đón xuân tâm xả - nhẫn

Ta Bà lữ khách tinh tấn tu

Cực lạc quê nhà sen vàng nở

Sanh tử từ nay xin giã từ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14008)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39431)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15181)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13726)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13789)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37099)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39838)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14493)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14179)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12537)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14684)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19112)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13686)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42377)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13700)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37005)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12547)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11643)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22383)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12383)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12430)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12867)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 12980)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17138)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 32973)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14654)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 10949)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12309)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11851)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11807)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13032)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 50975)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12262)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6493)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30214)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13019)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13183)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30448)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19182)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12366)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11671)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14601)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13087)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13061)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30441)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11893)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11722)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12567)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31659)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29209)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11696)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11647)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10320)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11422)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9527)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9507)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9819)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35147)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10040)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 9991)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 9944)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9528)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27579)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15337)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9738)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13549)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9738)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9556)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18136)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 11948)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9467)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9588)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8594)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8823)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8292)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11331)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31487)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12209)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13182)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8712)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9321)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11786)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9109)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 8978)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9520)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29143)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 8974)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 8997)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33019)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8330)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30393)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30996)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36758)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 31997)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9819)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26772)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8295)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19088)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12902)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9640)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant