Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Đề 6

30 Tháng Tư 201300:00(Xem: 8014)
Luận Đề 6
KHAI TỔ THIÊN THAI TÔNG
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

THIỀN VÀ CHỈ QUÁN

 PAUL L. SWANSON biên soạn
TỪ HOA NHẤT TUỆ TÂM biên dịch
thienquanvachiquan-bia2

LUẬN ĐỀ VI
THIÊN THAI TRÍ KHẢI, ĐÓA SEN,
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
(Paul L. Swanson)

PHẦN GIỚI THIỆU

 Hầu hết người học Phật đều biết rằng Thiên Thai Tông天台宗còn được gọi là Pháp Hoa Tông 法華宗 vì là phương pháp tổng hợp toàn bộ Phật học thâm viễn dựa trênnhất thừa (ekayana) của kinh Diệu Pháp Liên Hoa [1]. Thiên Thai Trí Khải, người thành lập hệ thống giáo lýthực hành của truyền thống Thiên Thai, nhìn đóa sen phô bày nhiều hình trạng khác nhau là biểu tượng của Phật phápchân lý. Trong đại tác phẩm “Pháp Hoa Huyền Nghĩa” 法華玄義 (T33, 681-814), đại sư đã từ đóa sen hòa hợp âm giai để tấu lên muôn vàn âm điệu khai mở ý nghĩa Phật phápthể tánh của thực tại là những vấn đề bất khả tư nghị, vượt ngoài ngôn từ. Một chủ đề chuyển đổi [qua muôn hình thái] tượng trưng “sự rạng rỡ vô tận” của một đóa sen như một biểu tượng, dường như chính là một bản kinh Pháp Hoa đầy ước hẹn, nhưng khó thể dùng ngôn từ để diễn đạt, vì có vô lượng nghĩa無量義. Khi Thiên Thai Trí Khải dùng hai chữ pháp hoa法華hoặc liên hoa 蓮華, thực khó biết có phải rằng đại sư đang muốn nói đến một bông sen, hoặc một biểu tượng của bông sen, hoặc giáo lý Pháp Hoa, hoặc tất cả những điều trên.

 Thiên Thai Trí Khải nói đến tánh đồng nhất của biểu tượng và cái làm biểu tượngĐại sư nói “đóa sen không chỉ là một biểu tượng mà là thể体của chính chân lý” (T33, 771c21), hoặc “tên gọi” là thể của chân lý. Mặt khác, biểu tượng đứng trong tương quan với cảnh vật làm biểu tượng không khác từ ngữ và cảnh vật như phương tiện giao lưu, không cân phân nhưng vững vàng, thích ứng và giúp ích cho việc thông hiểu [thực tại], vì biểu tượng có được sự lớn mạnh, thâm sâu, và là một [phương tiện] diễn tả chân lý rõ ràng hơn chữ và lời[2]. Đường song đôi giả tạm, mối tương giao giữa hoa senthực tại, hoặc giữa biểu tượng và cái được biểu tượng, hòa hợp nhau, hoặc xa hơn nữa, chính là sự khai phóng làm tuôn tràn hệ thống tư tưởng của Thiên Thai Trí Khải.

Điều nầy phản ảnh mối tương quan giữa những khái niệm sự 事và lý理, giác榷 và thực 实, tục 俗và chân眞, tích 迹và bản 本, giả hữu 假有và chân không真空của Thiên Thai Tông

Mặt khác, sự chia cắt giữa biểu tượng và cái được biểu tượng vào những yếu tố đối nghịch là sự biểu hiện giả tạm. Hai mặt nầy không tuyệt đối riêng rẽ mà là cùng trong một thực tại hòa đồng, như Giả và Không hội tụ, tức Trung [Đạo] qua khái niệm Tam Đế của Thiên Thai Trí Khải. Cũng như vậy, biểu tượng và cái được biểu tượng cùng chung một thực tại, biểu tượng biến hóa và tràn đầy ý nghĩa như thực tại mà nó phô bày.

 Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào cách thức Thiên Thai Trí Khải dùng hoa sen như một biểu tượng trong tác phẩm “Pháp Hoa Huyền Nghĩa”, sau đó thâm cứu về phương pháp lấy hoa sen làm dụ của đại sư.

 

THIÊN THAI TRÍ KHẢI

THUYẾT MINH VỀ HOA SEN

 

 Mặc dù hoa sen như một biểu tượng[3] dùng trong toàn bộ tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa, nhưng được trực tiếp luận nghĩa thì có hai phần. Phần thứ nhất là phần giới thiệu, phần thứ hai giải thích danh từ “liên hoa” trong tựa đề kinh, với bản dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập. Tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa được cấu trúc như một luận đề về tên bản kinh [Diệu Pháp Liên Hoa 妙法蓮華經] với nhiều đề mục nhắm thẳng vào việc giải thích hai chữ “Diệu” và “Pháp”. Trong phần giới thiệu, hai chữ diệu và pháp được giải thích ngắn gọn hơn trong phần giải thích về hai chữ liên hoa. Trước hết được định nghĩa là pháp quyền và thực 榷实法 (681a25). Sở dĩ phải dùng biểu tượng như vậy vì “diệu pháp thực khó hiểu, nhưng có thể tạm thời dùng biểu tượng để làm sáng tỏ” (681a 26). [Phương pháp] nầy giúp để hiểu một giáo pháp hoặc chân lý vượt ngoài cái hiểu thuộc khái niệm.

 Phần nói về hai chữ “liên hoa” giải thích sâu rộng hơn về việc lấy hoa sen dụ cho pháp như thế nào, nhưng trong phần giới thiệu lại chia làm sáu phần: ba phần đầu nói về Tích 迹, tức [14 phẩm] đầu của bản kinh; và ba phần sau nói về Bản本tức [14 phẩm] cuối của bản kinh. Ý nghĩa quan trọng của sự phân chia nầy đi suốt học thuyết của Thiên Thai Trí Khải, là sự giả lập chân lý làm hai phần tức thế đếchân đế, tích và bản, quyền và kinh v.v... nhưng thực sự chỉ là một thực tại đại hòa, một [bản] Phật và một [nhất thừa] Pháp. Với bản kinh Pháp Hoa cũng tạm phân chia làm hai phần; phần thứ nhất nói về [tích] Phật ứng thân, và phần thứ hai nói về [bản] Phật. Như vậy, Thiên Thai Trí Khải trình bày ba mặt hoa sen được dùng làm dụ cho Phật và pháp về phần “tích”; và ba mặt hoa sen dụ cho phần “bản”.

 Ba mặt thuộc Tích môn đưa ra sự tương quan giữa chân lý tương đốichân lý

tuyệt đối

 Thứ nhất, hoa sen dụ cho giả đế tức giáo pháp đưa đường vào chân đế, khi có hoa hạt theo liền. Kinh Pháp Hoa cho thấy Phật dùng nhiều phương tiện thiện xảo (upaya) để

dạy cho chúng sinh biết bản hoài của Phật.

 Thứ hai, hoa sen dụ cho sự hiển lộ thực nghĩa của giả đế hoặc pháp phương tiện, hạt dụ cho chân đế. Khi hoa nở liền thấy được hạt. Pháp phương tiện được dùng để chứng ngộ pháp tuyệt đối.

 Thứ ba, khi hoa tàn, hạt thành tựu, vượt qua tam thừa để hiển lộ Phật thừa

 Tam dụ thuộc Bản môn đưa ra sự tương quan giữa Tích môn và Bản môn, liên hệ đến [14 phẩm] cuối của kinh Pháp Hoa.

 Thứ nhất, hoa chứa đựng hạt sánh với Tích môn chứa đựng Bản môn, và được Bản môn chứa đựng.

 Thứ hai, khai mở Tích hiển lộ Bản.

 Thứ ba, khi cánh tàn, hạt thành tựu có nghĩa rằng Tích bị loại bỏ khi Bản lộ diện, hành giả không còn bị trói buộc vào Tích.

 Sáu phần nói trên được bố cục rất tinh xảo, dù rằng không phải dễ hiểu. Đại sư nói chi tiết và dùng thí dụ cụ thể trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa (771c17-774c25).

 Trước hết, Thiên Thai Trí Khải xác định điều đại sư muốn nói khi dùng hoa sen làm dụ. Hoa sen được mượn để sánh với diệu pháp là cái khó nghĩ bàn, vượt ngoài khái niệm và ngôn từ[4]. Vì vậy, hoa sen được dùng để trình bày vấn đề một cách cụ thể, giúp hành giả vào được thực nghĩa của diệu pháp, đặc biệt đóng cả hai vai trò của giả đế và chân đế.

 Thiên Thai Trí Khải đi xa hơn khi cho thấy rằng hoa sen không chỉ là một biểu tượng mà còn là thể tánh của chính thực tại, hoặc là “tên gọi” của thể tánh đó. Biểu tượng không ở ngoài cái làm biểu tượng, nhưng cùng chung một thực thể như nhất. Đại sư lại nói thêm rằng hoa sen không phải chỉ là một cập dụ 伋喻 mà là chính giáoPháp Hoa (771c24-25). Giáo lý bất diệt của Pháp Hoa phô bày trong một đóa sen toàn hảo hơn bất cứ hiện tượng cụ thể nào khác.

 Sau đó Thiên Thai Trí Khải nói đến những giải thích đương thời về biểu tượng hoa sen như giải thích của sư Pháp Vân, cũng như trưng dẫn những kinh luận dùng hoa sen làm dụ (như Saddharma-pundarika Sutra Upadesa và Samnipata Sutra), tuy nhiên, chúng ta sẽ không đi vào chi tiết ở đây.

 Cuối cùng đại sư đưa ra những giải thích chính xác về hoa sen như phương thức luận về thập như thị 十如是, nhân duyên 因緣, tứ thánh đế 四聖諦, nhị đế 二諦, tam đế 三 諦 (Không đế 空諦, Giả đế 假諦, Trung đế 中諦), nhất đế 一諦, và vô đế 無諦 ... thường 

thấy trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa (773a 24-26). Sáu đề mục nói trong phần giới thiệu sẽ được nhắc lại và giải thích sâu hơn. Tuy vậy, đây cũng chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ chú giải về biểu tượng hoa sen. Đề tài đưa ra thực vô cùng tận, nếu muốn khảo sát đầy đủ thì phải đi qua tất cả những phần đã nói trên (nhân duyên...), đó là bản văn mà Thiên Thai Trí Khải đã trình bày những chi tiết rất cụ thể về ý nghĩa lấy hoa sen làm dụ.

 Một vài thí dụ cũng đủ chứng minh[5]. Trong phần nói về thập như thị, hoa sen biểu thị cho Phật tánh, trong đó, đài gương không hư hoại dù ngấm trong bùn đen. Chúng sinh cũng không khác, tất cả đều có Phật tánh dù rằng trang trải thân trong vũng lầy của luân hồi (773b16-18). Đây là dụ cho năng lực chứng đắc Bồ đề, dù rằng thai tạng trong vỏ cứng bị chôn lấp dưới lớp bùn đen nhưng mầm mống xuất sinh vẫn [âm thầm] thành tựu. Chúng sinh cũng không khác, dù rằng bị vây hãm bởi muôn ngàn ác nghiệp và ảo tượng [tự mình tô vẽ], nhưng hạt giống Bồ đề vẫn không mất (773b25-28). Đây là sự biểu hiện của nhân Bồ đề: như hoa sen vươn lên từ đất bùn, theo gió lay dưới ánh mặt trời, và ngày ngày đơm hoa chờ mở cánh. Chúng sinh hướng về giải thoát cũng như vậy, hằng vun bồi hạnh Bồ tát, viên mãn con đường hành trì, quy về Bồ đề (773c8-13). Cùng một chiều hướng, hoa sen được mô tả theo vòng xích của mười hai duyên khởi. Thí dụ, hoa sen thấm ướt tượng trưng cho các vòng xích ái, thủ, và hữu... Tứ đế, Nhị đế, Tam đế, và Nhất đế cũng như vậy.

 Phần nói trên vẫn nằm trong cái diệu thứ nhất của mười cái diệu là cảnh diệu 境妙. Thiên Thai Trí Khải từ hoa sen lần lượt đưa ra chín cái diệu còn lại[6]. Thí dụ, về hành diệu, cành sen là từ bi, lá sentrí tuệ, nhụy hoa là tịnh, hoa nở là giải thoát (774a 26-29). Thứ lớp trưởng thành của một đóa sen tượng trưng cho thứ bậc chứng đắc Bồ đề. Mầm xanh nẩy ra từ lớp vỏ cứng tượng trưng cho trụ vị 住位. Vượt thoát bùn lầy lên trên mặt nước tượng trưng cho tứ thiền 四禪, vì thiền [duyệt] ví như nước, có thể tẩy rửa lớp bụi ái dục. Từ mặt nước vươn lên tượng trưng cho thập tín 十信 v.v... Cũng vậy, “từ gốc rễ lại đâm chồi sinh hoa, từ một sinh hai cho đến vô số hoa, tượng trưng cho quyến thuộc của chư Phật” (774b5-8).

 Tuy vậy, tất cả những thí dụ trên vẫn còn nằm trong Tích môn. Thiên Thai Trí Khải dừng phần giải thích của đại sư ở đây để quay sang biểu tượng của hoa sen đối với Bản môn. “Ví như một cái đầm là nơi hoa sen sinh thành. Đến lúc biến hoại hoa rơi xuống nước bùn, từ đó vô số mầm chồi lại tiếp tục sinh trưởng. Cũng như vậy, sau vài tháng hoa hoa nối tiếp nhau đơm bông kết đài che kín mặt nước hồ, hóa ra một đầm sen rộng lớn. Chư Phật cũng giống như vậy. Bản [vị] Phật đã thành tựu, không còn vun bồi nhân để đắc quả giải thoát. Vì chúng sinh, chư Phật dùng phương tiện thiện xảo, ứng sinh thân nơi cõi sinh tử nầy, thị hiện hành trạng từ thuở sơ phát đại tâm cho đến lúc tận cùng [chứng quả Bồ đề]. Trải qua vô số lần sinh diệt, từ bản địa 本地 ứng hóa thân làm

người phàm, [thị hiện] tu tập ngũ hạnh. Hạt sen đen lại đơm cành trổ lá, tượng trưng cho tứ thánh hạnh聖行. Bào tử với bốn phần dần dần tăng trưởng, tượng trưng cho thiên hạnh 天行. Lá đơm xanh tượng trưng cho phạm hạnh 梵行. Bào tử trong đất bùn tượng trưng cho bệnh hạnh 病行. Mầm non tượng trưng cho anh nhi hạnh嬰兒行. Trong đường hướng như trên, ba cõi được lợi ích không cùng tận. Hội nhập vào vũ trụ, chư Phật không ngừng phân thân, dùng tích môn lúc ẩn lúc hiển để làm lợi ích chúng sinh” (774c12-25).

 Hẳn nhiên có những chú giải của Thiên Thai Trí Khải dễ lãnh hội nhưng cũng có những chú giải khác của đại sư thực khó nắm bắt được; người đọc thường có ấn tượng về khả năng liên tưởng phong phú của đại sư thay vì chỉ muốn làm đầy đủ bố cục đưa ra [mà chú giải quá chi tiết]. Tuy nhiên, việc dùng hoa sen dụ cho diệu pháp thì thực sự vô tận và là điểm nổi bật.

 Sự trình bày của Thiên Thai Trí Khải chấm dứt ở đây nhưng [ví như cây trổ thêm nhánh mới], sự phân chia thì vẫn tiếp tục với thời gian. Hoa sen là một biểu tượng của Diệu Pháp Liên Hoa, là bản kinh bất khả tư nghị, không bao giờ cùng tận. Đó là nơi chúng ta thành hình, là nơi thể tánh hằng hữu phô bày thực tánh của chân lý trong một đường lối mà chúng ta là những kẻ phàm phu có thể hiểu được. Đây thực là một biểu tượng tuyệt vời nhất. Như Thiên Thai Đại Sư từng nói: “Nếu không là hoa sen thì vật gì khác có thể biểu hiện được [thực tánh của] các pháp (sarvadharma)?” (774c23-24). 

 

BIỂU TƯỢNGHOA SEN

 

 Chúng ta đã nhiều lần dùng chữ “biểu tượng” mà chưa đưa ra một định nghĩa. Phần còn lại của bài nầy chúng ta sẽ khảo sát một số định nghĩa và suy luận về phương pháp dùng biểu tượng, và áp dụng những lối nhìn nầy vào cách thức dùng biểu tượng hoa sen của Thiên Thai Trí Khải.

 Trước hết, Raymond Firth, trong quyển Symbols Public and Private nói đến những phương pháp đa dạng của khái niệm về biểu tượng, và đưa ra một khái niệm tổng quát rằng “biểu tượng là một trực thuyết về những giá trị trừu tượng”(1973, p.54). Heisig cũng nói cùng một điểm khi xác định tính chất của phương pháp dùng biểu tượng như “một vật, thường là vật cụ thể, đặc thù, tượng trưng cho một cái gì mơ hồ và tổng quát, trở thành tiêu điểm đối với ý tưởngcảm giác tương quan, hoặc chỉ thẳng vào một chuỗi thói quen liên hệ” (1987, p.204). Thực nguy hiểm nếu chúng ta đi quá xa khi cố gắng đơn giản hóa một ý niệm phức tạp[7], chúng ta có thể nói chắc chắn rằng hoa sen là một vật cụ thể tượng trưng cho pháp vi diệu hơn [vật ấy]. Tuy nhiên, một biểu tượng là một cái gì [có ý nghĩa] hơn là sự mô tả một cách cụ thể về một cái gì trừu tượng. Biểu 

tượng không chỉ vào vật mà nó biểu thị, nó cũng không chỉ “tượng trưng” cho một cái gì khác nó, như một dấu hiệu. Một biểu tượng có cái Victor Turner gọi là “mang vô số ý nghĩa”, có nghĩa rằng một biểu tượng gói gắm bên trong nó vô số nghĩa lýgiá trị (Tuner 1967, 19-41).

 Với Thiên Thai Trí Khải, cái chứa đựng nghĩa lý trong hoa sen thì vô biênvô tận như pháp vi diệuhoa sen biểu thị. Cách diễn đạt tâm đắc nhất mà tôi cảm thấy rằng có thể nói lên được phương pháp lấy hoa sen làm dụ của Thiên Thai Trí Khải là các chữ “vô cùng minh bạch” của Bernard Lonergan (đọc Lonergan, 1975). Nhóm chữ nầy lập tức khiến người đọc nghĩ đến giáo pháp “vô lượng nghĩa”無量義của kinh Pháp Hoa, và thêm phần xác định cho câu nói của Thiên Thai Đại Sư rằng hoa sen như một biểu tượng vô biên đối với khả năng diễn đạtmô tả vô biên pháp. Trong phần giới thiệu những tiểu luận chọn lọc về kinh Pháp Hoa của International Conference tại Nhật Bản[8], bản kinh Pháp Hoa vẫn còn là một hứa hẹn nhưng chưa thực sự được thuyết giảng. Lý donghĩa kinh thì vô lượng nên một lối thuyết giáo qua ngôn từ không thể nói cùng tận tánh vô biên của nghĩa kinh. Cái “vô cùng minh bạch” của đóa sen như một biểu tượng cũng giống như nội dung kinh Pháp Hoavô lượng nghĩa đối với người có mắt. Sự tương quan giữa hoa và hạt, lõi hoa trắng ngấm trong bùn đen nhưng vẫn tinh vẹn, từ hạt, sinh trưởng qua nhiều giai đoạn cho đến khi đơm bông... dòng diễn tiến như đang phô bày tánh vô biên của diệu pháp.

 Eliade khi trình bày về những biểu tượng của tôn giáo cũng xác định nhiều điểm không khác những điều tôi đã thấy được trong phương pháp dùng hoa sen làm dụ của Thiên Thai Trí Khải. Trong tác phẩm “The Two and the One” ông nói về vai trò của biểu tượng tôn giáo như sau:

“Biểu tượng có khả năng biểu thị thể dạng chân thực hoặc một trạng thái không hiển hiện trên mặt trực nghiệm của thế gian... Mang theo nhiều ý nghĩa, có khả năng diễn đạt đồng thời tánh hợp nhất của thực tại không thể trực nghiệm một cách rõ ràng là những đặc tính của những biểu tượng tôn giáo... Biểu tượng có khả năng làm hiển lộ một phối cảnh, trong đó, những chân lý khác biệt có thể vừa vặn trong nhau, hoặc ngay cả hội nhập vào một “hệ thống”. Nói cách khác, một biểu tượng tôn giáo khiến con người khám phá được tánh đại đồng của thế giới, và cùng lúc nhận ra vận mệnh của chính mình gắn liền với thế giới... Có thể rằng cái dụng quan trọng nhất của biểu tượng tôn giáo chính là khả năng diễn đạt những vị thế [dường như] mâu thuẩn hoặc những mực thước của thực tại tối hậu là cái không thể diễn đạt qua một cách nào khác hơn... Sau cùng, chúng ta cần phải nhấn mạnh trên giá trị thiết thực của biểu tượng tôn giáo để nói lên sự kiện rằng một biểu tượng luôn luôn nói lên một chân lý hoặc một vị trí liên quan đến con người... Cho thấy rằng người có thể hiểu được một biểu tượng không những chỉ “khai mở được chính mình” trước thế giới khách quan, nhưng cùng lúc có thể bước ra từ chỗ đứng đơn độc của chính mình mà hội nhập vào thể tánh đại hòa của vũ trụ... Xin được tri ân mỗi biểu tượng, mỗi kinh nghiệm tỉnh thức đã chuyển hóa vào 

từng hoạt dụng của tâm linh.” (1995, pp. 201-208)  

 Vai trò của hoa sen trong việc làm hiển lộ diệu pháp thì không thể dùng kinh nghiệm trong đời sống thường ngày của chúng talập tức thấy ngay được, khả năng

diễn đạt nghĩa lý vô cùng tận, đưa ra tánh đồng nhất của giả đế và chân đế, giá trị thiết thực giúp để hiểu là cái chỉ thẳng vào thực tại làm nền tảng cho kinh nghiệm thực chứng của con người, đưa đường cho con người nắm bắt được chiều kích thâm sâu của vũ trụ. Đó là những đặc điểm trong việc dùng hoa sen làm dụ của Thiên Thai Trí Khải.

 Tóm lại, có ba khía cạnh đáng lưu ý trong phương pháp dùng hoa làm biểu tượng của đại sư:

[1]. biểu tượngcông dụng đưa ra nhiều nghĩa lývô cùng minh bạch khiến hoa sen có thể diễn đạt pháp vi diệu vô tận.

[2]. vai trò của hoa senbiểu tượng cụ thể đối với pháp trừu tượng, như một phương tiện giúp những người căn tánh chậm lụt có thể hiểu và tiếp nhận chân lý một cách trực tiếp.

[3]. tánh đồng nhất của biểu tượng và cái được biểu tượng khiến hoa và pháp đi vào nhau như một thực tại hội nhập.

 Qua những phương hướng nầy, lối dùng hoa sen để chú giải [diệu pháp] của Thiên Thai Trí Khải tô đậm ý nghĩa và sự quan trọng của biểu tượng đối với nhiều lý thuyết hiện nay. Ý nghĩa của những lý thuyết nầy với cái hiểu sâu hơn trở lại giải thích Phật học Thiên Thai Tông, mở rộng danh từ “biểu tượng” ứng hợp với những gì Thiên Thai Trí Khải đã cố công xiển dương trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, trở thành chủ đề đưa đến những thâm cứu về sau. 

 

Tham khảo

Cirlot, J.E.

1962 A Dictionary of Symbols. New York: Philosophy Library, Inc.

Eliade, Mircea

1961 Images and Symbols. Studies in Religious Symbolism. New York: Harvill Press.

1965 The Two and the One. New York: Harper & Row.

Firth, Raymond

1973 Symbols Public and Private. Ithaca. New York: Cornell University Press.

Heisig, James W.

1987 Symbolism. The Encyclopedia of Religion 14. New York: MacMillan and Free Press, pp. 198-208.

Lonergan, Bernard J. F.

1957 Insight: A Study of Human Understanding. Philosophical Library. New York: Longmans.

Shioiri, Ryodo

1983 Tendai Chigi no hokke-kyokan, Tokyo, Shunjusha, pp. 245-278.

Sperber, Dan

1974 Rethinking Symbolism. Cambridge: Cambridge University Press.

Swanson, Paul L

1989 Foundations of T'ien T'ai Philosophy: The Flowering of the Two Truths Theory in Chinese Buddhism. Berkeley: Asian Humanities Press.

Tanabe, George J. Jr. and Willa Jane, Tanabe, ed.

1989 The Lotus Sutra in Japanese Culture, Honolulu University of Hawaii Press.

Tuner, Victor

1967 The Forest of Symbols: Aspects of Ndembu Ritual. Ithaca: Cornell University Press. 

1974 Dramas, Fields, and Metaphor. Symbolic Action in Human Society. Ithaca: Cornell University Press.



[1] Có điều đáng lưu ý rằng Thiên Thai Tông không chỉ hoàn toàn dựa vào kinh Pháp Hoa để gọi là “Duy Pháp Hoa Tông”. Thiên Thai Trí Khải còn dùng những bản kinh khác như Đại Bát Niết Bàn, Đại Bát Nhã, Đại Trí Độ Luận, Duy Ma Cật v.v...

[2] Một nghiên cứu sôi động tranh cãi về cái học được từ những dấu hiệu (có ý rằng dấu hiệu có cùng sự diễn đạt như văn tự), đọc Sperber 1974. Ông viết rằng: “Kiến thức thuộc biểu tượng không phải là học về những loạt ý nghĩa được hiểu, cũng chẳng phải về thế giới, nhưng về những vấn đềtính cách bách khoa. Kiến thức nầy không phải là cái học về văn tự và sự vật, nhưng về cách nhớ văn tự và sự vật.” (p. 108)

[3] Thực sự, Thiên Thai Trí Khải dùng hai tên gọi để mô tả vai trò của hoa sen là tỉ 比 và dụ 喩. Hai tên gọi nầy về văn pháp thì có nghĩa khác nhau, nhưng đại sư thường dùng qua lại, có khi dùng như một cặp. Trong bài nầy tôi sẽ dùng chữ “symbol” để dịch cặp chữ nầy.

[4] Đọc Paul Swanson, Foundations of T'ien T'ai Philosophy, 1989 [Nền tảng Phật học Thiên Thai Tông – Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch 2010]

[5] Thêm chi tiết, đọc Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33, 773b-c [Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch 2008]

[6] Chín cái Diệu kia là Diệu trí, Diệu hành, Diệu vị, Diệu tam pháp, Diệu cảm ứng, Diệu thần thông, Diệu thuyết pháp, Diệu quyến thuộc, và Diệu lợi ích.

[7] Cả hai Firth và Heisig hẳn nhiên đã đào sâu vấn đề và giới độc giả vẫn được giới thiệu đến những tác phẩm của họ.

[8] Đọc George J. Tanabe Jr. và Willa Jane Tanabe, ed., The Lotus Sutra in Japanese Culture, Honolulu: University of Hawaii Press, p. 1-2.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14423)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14137)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39689)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15300)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13867)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37309)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40035)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12645)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13787)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42597)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13816)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37218)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11743)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22525)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12501)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12561)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13026)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13100)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17252)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33200)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14820)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11947)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51238)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6604)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30395)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13305)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30662)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19333)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12471)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11836)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14753)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13177)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30656)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12018)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11815)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12710)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29395)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11776)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11730)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11543)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9642)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9961)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35383)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10135)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10084)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9638)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27786)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15467)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13656)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9825)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9683)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18300)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12036)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9554)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9676)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8685)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8901)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8394)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11465)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31696)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12325)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9429)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9211)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9067)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29329)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9061)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9076)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33211)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8416)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30576)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31199)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37091)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32231)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9907)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27068)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8435)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19216)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant