Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Lời nói đầu của dịch giả

10 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 8513)
01. Lời nói đầu của dịch giả

GIÁO HUẤN DAKINI

Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn dấu
Phát lộ bởi: NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA

LỜI NÓI ĐẦU CỦA DỊCH GIẢ

Giáo huấn Dakini là một tuyển tập những lời khai thị từ một số “kho tàng giáo lý” được phát hiện hay còn được gọi là terma. Bao gồm những giáo huấn khẩu truyền về thực hành Giáo Pháp của Guru Rinpoche (Liên Hoa Sanh) đã ban khi Ngài ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ 9. Những khai thị này được ghi chép bởi vị đệ tử chính của Ngài, Dakini Yeshe Tsoygal, công chúa xứ Kharchen. Theo Cuộc Đời Một Trăm Vị Terton[1] của Ngài Jamgon Kongtrul đệ nhất, Yeshe Tsoygal là một dakini và là hóa thân của Phật Mẫu Lô Xá Na (Lochana), phối ngẫu của Đức Phật Ratnasambhava (Phật Bảo Sanh) cũng làVajra Yogini xuất hiện trong thân tướng của một người nữ. Bà đã phụng sự Đức Guru Rinpoche khi Ngài ở Tây Tạng và sau đó thực hành kiên trì khác thường, cuối cùng thành tựu ngang bằng với Thầy mình. Lòng bi của Bà vô song và ân phước của Bà bất tận.

Yeshe Tsoygal đã viết lại giáo huấn khẩu truyền này bằng một mã bí mật gọi là “Chữ viết Dakini” và chôn dấu như một kho tàng terma quý báu để các vị terton khai quật vào nhiều thế kỷ sau. Chính Đức Guru Rinpoche đã tiên tri nơi chốn, danh tánh, thời gian của những vị terton đến khai mật tạng. Những giáo huấn mà các vị terton tiếp nhận trong thực tế hay trong linh kiến đều thích hợp cho những người sống trong thời các Ngài và trong những thế hệ sau này. Hầu hết mỗi chương trong quyển sách này đều nhắc nhở là những giáo huấn này được ban vì lợi ích cho những hành giả trong thế hệ tương lai nên có lời ghi rằng: “Nguyện cho những người đã được định trước và xứng đáng trong tương lai gặp được giáo huấn này!”

Giáo huấn Dakini đặt nền tảng trên terma được phát hiện bởi vị khai mật tạng Nyang Ral Nyima Oser vào thế kỷ thứ 12. Bản viết tay mà tôi sử dụng được lưu trữ ở thư viện Hoàng Gia Đan Mạch, nhiều thập niên trước một nhà thám hiểm đã đem về bản viết tay này từ Tu viện Mông Cổ. Vào năm 1976 khi Ngài Dilgo Khyentse viếng thăm thư viện, Ngài yêu cầu được xem tất cả những bản văn viết tay gốc và quyết định sao chụp lại sáu chương của quyển sách mà thời đó Ấn Độ chưa có. Trong số sáu chương này là một sưu tập của một số terma gọi là Jomo Shulen của Nyang Ral “Câu hỏi và trả lời của Lady Yeshe Tsoygal”. Sau này tập sách được Nhà in Sherab Drimey ở Tân Đề Li Ấn Độ của Đức Dilgo Khyentse in lại theo nguyên bản. Sau này khi tôi giới thiệu quyển sách với Thượng Tọa Tulku Urgyen Rinpoche, Ngài đọc và biểu lộ niềm hoan hỷ lớn lao, động viên tôi chuẩn bị cho bản dịch này. Ngài cũng chỉ ra một sưu tập terma tương tự khác của Nyang Ral gọi là Nyang-gyi Martri “Những Giáo huấn Trực Chỉ Của Nyang.” Ngài Jamgon Kongtrul cho rằng quyển sách này quan trọng tương đương với chương 60 của bộ Rinchen Terdzo. So sánh hai bản viết tay này, tôi thấy cả hai đều chứa đựng những khai thị vô giá của Đức Liên Hoa Sanh, tuy vậy đôi khi có những chỗ giống và những chỗ khác nhau. Cho thấy rõ ràng là từ hai nguồn khác nhau, khi Ngài Jamgon Kongtrul soạn quyển Rinchen Terdzo thì chưa có bộ Jomo Shulen.

Ngài Nyang Ral Nyinma sống cách đây tám trăm năm, nên người đời sau mỗi lần sao chép tay đều có một vài thiếu sót và sai về lỗi chính tả. Tuy nhiên hai bản này không có những lỗi giống nhau. Do vậy, tôi dựa trên bản sưu tập terma thứ ba vào thế kỷ 14 của Tổ Sangye Lingpa. Những phần của sưu tập này hầu như giống nhau trong cách hành văn với terma của Ngài Nyang Ral Nyinma Oser. Lý do cho sự giống nhau này là cả hai vị tổ trong kiếp trước đã cùng hiện diện khi Đức Liên Hoa Sanh ban giáo huấn. Ngài Nyang Ral Nyinma Oser là tái sanh của Vua Trisong Deutsen, và Ngài Sanye Lingpa là tái sanh của Murub Tseypo, con trai thứ hai Vua Trisong Deutsen. Những tài liệu trong ba bộ sưu tập này đủ để soạn thành bốn quyển dịch sang tiếng Anh, nên tôi tuyển chọn những giáo huấn nào thích hợp nhất với thời đại ngày nay.

Những chú dẫn sau đây về lược sử tóm tắt cuộc đời Ngài Nyang Ral Nyinma Oser (1124-1192) được trích dẫn từ quyển Cuộc Đời Của Một Trăm Vị Terton.

Đức Guru Rinpoche tiên tri rằng Ngài Nyang Ral là người đầu tiên của năm vị vua terton. Ngài là một tái sanh của Trisong Deutsen, vị vua đầu tiên cầu thỉnh Guru Rinpoche đến Tây Tạng còn được biết là Tsangpa Lhai Metok (Hoa thiêng của Trời Phạm Thiên).

Ngài sinh ở vùng Lhodrak vào năm con rồng gỗ[2] , con trai của lama mũ đỏ Nyangton Chokyi Khorlo.

Vào năm lên tám tuổi Ngài linh kiến thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Quán Tự Tại và Guru Rinpoche. Kinh nghiệm của Ngài rực sáng mạnh mẽ trong suốt một tháng. 

Một buổi chiều Ngài thấy Đức Liên Hoa Sanh cưỡi một con ngựa trắng được bốn dakini nâng, Ngài tiếp nhận quán đảnh nhờ uống nước cam lồ trong bình của Guru Rinpoche. Vào lúc nhận quán đảnh Ngài có kinh nghiệm bầu trời bùng mở, mặt đất và núi đồi rung chuyển và Ngài bắt đầu hành động theo nhiều cách kỳ lạ khiến nhiều người nghĩ rằng Ngài điên.

Sau đó cha Ngài ban quán đảnh Bổn Tôn Hayagriva, và sau khi thực hành nhập thất Ngài thấy Bổn Tôn và dao phurba phát ra tiếng ngựa hí và Ngài để lại dấu bàn chân, bàn tay trên mặt đá cứng.

Theo đúng tiên tri của các dakini, Ngài đến Mawo Choqi Draktsa, nhờ trí tuệ các Dakini ở đây Ngài được ban pháp danh Nyima Oser (ánh sáng mặt trời). Từ đó Ngài nổi tiếng với pháp danh này.

Guru Rinpoche xuất hiện đến Ngài trong thân người và trao cho Ngài bản danh sách những terma phải phát hiện. Vì vậy, Ngài phát hiện nhiều bộ giáo huấn terma, trong số đó quyển được biết đếùn nhiều nhất là Kagye Desheg Dupa, một giáo huấn tập trung vào tám nghi quỹ Heruka và quyển Sanlingma (tiểu sử Đức Liên Hoa Sanh).

Sau đó Ngài lập gia đình với Jobum, một hóa thân của Yeshe Tsoygal và có hai con trai, Drogon Namkha O và Namkha pal, cả hai đều trở thành trưởng dòng. 

Trong suốt cuộc đời, Ngài duy trì thực hành nhập thất và giảng dạy người khác ngang nhau. Hoạt động của Ngài lan rộng đến khắp các cõi thế gian và có tác động to lớn về sự tương tục của Giáo Pháp.

Trong năm con chuột gỗ, Ngài viên tịch vào tuổi 69, kèm theo nhiều dấu hiệu kỳ diệu.

Tôi, Jamgon Kongtrul, đích thân thu thập tất cả những trao truyền cho giáo huấn terma của Nyang Ral, cho khắc bản gỗ để in chín quyển của bộ Kagye Desheg Dupa và thực hành theo nghi quỹ này nhiều lần. Theo cách này tôi có thể dâng hiến sự phục vụ tầm thường của tôi cho giáo huấn này.

Một số tài liệu sau đây mô tả việc Ngài Nyinma Oser tiếp nhận terma thực tế của Giáo huấn Dakini như thế nào, trích từ tiểu sử của Ngài gọi là tấm gương trong sáng, thấy trong quyển hai của bộ Kagye Dushe Dupa.

Sau này, khi tôi nhập thất thực hành nghi quỹ Guru tại động Pha lê của Padma Gong. Vào một buổi chiều, một thiếu nữ màu trắng xuất hiện tự xưng là Yeshe Tsoygal. Bà mặc áo dài màu xanh với một tấm tạp dề ở trước và một áo bằng lụa trắng. Bà hỏi:

“Này hành giả, ngươi muốn cầu gì?”

“Con không mong cầu gì ngoài Giáo Pháp!” Tôi trả lời.

“Vậy Ta sẽ ban cho con”. Bà nói và đưa cho tôi một hộp với những bản kinh chép tay, những lời tiên tri của các Dakini và 108 câu vấn đáp.

Sau đó Bà nói. “Con trai, hãy cùng Ta đến nghĩa địa Sitavana! Ngài Achaya Padma và tám vị Trì Minh Vương (Vidyadhara) cũng như rất nhiều hành giả xứng đáng khác đang dự một Pháp hội vĩ đại. Chúng ta, những Dakini cùng nhau đang tổ chức một đại tiệc.

Chúng tôi đến nơi và thấy một nghĩa địa vĩ đại. Thật là một nơi khủng khiếp ghê sợ mà người không xứng đáng không thể đến được. Ngay trung tâm là một hành giả có da màu nâu sáng ngồi trên một ngai lớn làm bằng đá quý. Ngài nói. “có phải Tsangpa Lhai Metok, con trai ta đó không? Lang thang trong luân hồi có làm con mệt mỏi chưa?” Ngài bảo tôi ngồi trên một đống xương người, tôi liền ngồi xuống.

Phía trước Ngài là một đại mandala với vô số trang hoàng bằng những lưới tia sáng. Ở tám hướng chung quanh tôi thấy tám vị Vidyadhara của Ấn ĐộTây Tạng ngồi với vẻ mặt hoan hỷ. Tôi thấy lòng tràn ngập niềm vui.

Kế tiếp người thiếu nữ hỏi tôi, “Con trai, con muốn thưởng thức hội tiệc hay chuyển pháp luân?” đáp lời, tôi nói “Mong Ngài chuyển pháp luân cho con.” Lập tức, tôi được ban cho bước chuẩn bị để nhập vào dòng đại mandala này, sau khi tôi đi vào tám hướng của mandala, ở đó mỗi vị tổ ban quán đảnh sâu rộng và giao cho tôi trách nhiệm về dòng phái.

Vị yogi ngồi giữa, người ta nói Ngài là Đức Padmasambhava, còn gọi là Padmakara, ban cho tôi đại quán đảnh của Tập Hội Các Đấng Thiện Thệ Hiền Minh Và Phẫn Nộ, Ngài cũng ban sách và dạy tôi giai điệu để tụng niệm.

Sau đó, tất cả các Vidyadhara cùng lúc ban quán đảnh kiến thứcduy trì, quán đảnh để thiền địnhthực hành, quán đảnh về giải nghĩa và giảng dạy, quán đảnh thuần phục chúng sanh qua những hoạt động, quán đảnh hoàn toàn làm chủ thành tựu của một vị vua vajra, và quán đảnh Đại Viên Mãn (Dzogchen) để biểu hiện giác tánh

Tiếp nhận tất cả những quán đảnh này từ các Ngài, tôi được ban một vỏ ốc tù và trắng và được lệnh về nhà, chính ngay lúc tôi nghe thế, toàn bộ cảnh tượng của nghĩa địa và mọi vị tổ biến mất như hơi nước trên gương. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đã trở lại lều thiền định của mình.”

Terma thứ hai tôi sử dụng để so sánhsửa lỗi chính tả, bổ túc những thiếu sót khi soạn quyển Giáo huấn Dakini là terma được Ngài Sangye Lingpa phát hiện (1340-1396). Ngài sinh tại Konpo, một tỉnh phía đông nam Tây Tạng vào năm con Rồng sắt, cùng năm sinh với Đức Karmapa đệ tứ, Rolpey Dorje. Ngài Sangye Lingpa được xem là một hóa thân của Yeshe Rolpa Tsal, con trai thứ hai của Vua Trisong Deutsen. Vào năm 1364 Ngài phát hiện giáo huấn của Lama Gongdue và đó là phát hiện terma quan trọng nhất của Ngài. Sangye Lingpa cũng được tính là một trong năm vị vua terton. Gần đây, hai vị tổ vĩ đại đã tái sanhTây Tạng là Ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Terchen Chokgyur Lingpa được biết như năm vị vua terton.

Sau cùng, quyển Giáo huấn Dakini kết thúc bằng một chương của terton Guru Dorje Lingpa bao gồm những lời cuối cùng của Đức Liên Hoa Sanh. Dorje Lingpa (1346-1405) là một trong năm vị khai mật tạngTây Tạng nổi tiếng như năm vị vua terton.

Tôi xin cảm ơn mọi người đã góp phần soạn thảo quyển sách này, nhất là His Holiness Dilgo Khyentse và Thượng tọa Tulku Urgyen Rinpoche về những giáo huấnban phước. Marcia Binder Schmidt đã rà soát lại bản dịch và giám sát hoạt động ở tất cả giai đoạn, Mim Coulstock về xuất bản, và Phinjo Sherpa đã giúp đỡ về câu chữ suốt quá trình.

Quyển sách này chứa đựng một số tinh túy những giáo huấn khẩu truyền của Đức Padmakara về thực hành Giáo Pháp phổ thông và về việc làm thế nào để tu hành một cách thực tiễn. Tôi vui thích khi thấy giáo huấn quý báu này bây giờ được dịch sang Anh ngữ. Dù bản dịch của chúng tôi có thể chưa hoàn thiện về mặt uyên báctừ ngữ văn hoa, tôi tin rằng mối kết nối giữa ân phước của Guru Rinpoche và sự rộng mở, tính ngay thật của người đọc sẽ bù đắp cho những khiếm khuyết. Người nào đọc hay nghe quyển Giáo huấn Dakini này sẽ thân cận với chính Đức Guru Rinpoche cũng giống như giáo huấn này đã làm xúc động tôi, cầu mong giáo huấn này cũng gây xúc động trong tâm và là nguồn cảm hứng bất tận cho mọi người.

ERIK PEMA KUNSAN
Động Asura 1989

a brief biography

Yeshe Tsogyal (ye shes mtsho rgyal). The different versions of her biography give varying details about her place of birth, the names of her parents and so forth. In his Ocean of Wondrous Sayings to Delight the Learned Ones, Guru Tashi Tobgyal states that her father's name was Namkha Yeshe of the Kharchen clan and that she was born in Drongmochey of Drak. At first she was one of King Trisong Deutsen's queens but later was given to Padmasambhava to be his spiritual consort. During the empowerment of Assemblage of Sugatas, her initiation flower fell on the mandala of Kilaya. Through this practice she became able to tame evil spirits and revive the dead. She was the chief compiler of all the inconceivable teachings given by the great master Padmasambhava. Having remained in Tibet for two hundred years, she departed for the celestial realm of the Glorious Copper Colored Mountain, without leaving a corpse behind. In The Precious Garland of Lapis Lazuli, Jamgon Kongtrul says, "Yeshe Tsogyal was a direct incarnation of Dhatvishvari Vajra Yogini in the form of a woman. She served Padmasambhava perfectly in that life, engaged in sadhana practice with incredible perseverance and attained a level equal to Padmasambhava himself, the 'continuity adorned with inexhaustible body, speech, mind, qualities, and activities.' Her kindness to the land of Tibet surpasses the imagination and her compassionate activity that is no different from Padmasambhava's continues unceasingly." Yeshe Tsogyal means 'Victorious Ocean of Wisdom.'
-- from the glossary in The Lotus-Born

Yeshe Tsogyal was one of five dakini emanations of Vajra Yogini and, in essence, also a manifestation of Guru Rinpoche himself. She appeared to assist Guru Rinpoche in spreading the Vajrayana, especially the terma teachings, in the Snowy Land of Tibet. Yeshe Tsogyal is also considered an emanation of Arya Tara, Vajra Varahi, Prajnaparamita and Samantabhadri -- all enlightened buddhas. 

-- Tulku Urgyen Rinpoche excerpt from Dakini Teachings

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10316)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11176)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 11004)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11235)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11299)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14302)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12511)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26391)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11731)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29309)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11687)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10806)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11125)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10993)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10810)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11350)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10801)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12277)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11314)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10093)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11421)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13442)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11299)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11508)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12724)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13814)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13226)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12838)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12195)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30182)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38192)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24953)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10992)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11774)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10700)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11247)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11567)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12937)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12140)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11359)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10250)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11831)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11229)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10918)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13103)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10216)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10901)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10965)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14560)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10712)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 22008)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12098)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11465)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30221)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19626)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20610)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12597)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12584)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21227)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13284)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14499)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30473)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28059)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28405)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 21000)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28728)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27273)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22009)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26270)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21679)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23466)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26435)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23273)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19877)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22989)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21200)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20020)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15450)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39304)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25712)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14151)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26129)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22532)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29185)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22595)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22931)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13228)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23216)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13207)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 29012)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14280)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26294)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33284)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35616)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8676)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13356)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30690)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22175)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant