Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 8260)
1. Bồ Đề Đạt Ma Và Giá Trị Siêu Việt Của Nền Thiền Học Việt Nam
thiensututuonggiacngo

Bồ Đề Đạt MaGiá Trị Siêu Việt
Của Nền Thiền Học Việt Nam

 Khi đề cập đến Thiền Tông người ta hay liên tưởng đến Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) người đã mang sứ mệnh cao cả truyền trao cho con người. Cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma tựa như ánh sáng rực rỡ quét sạch bóng đêm phủ xuống cuộc đời chớp nhoáng như điện xẹt và phong thái lạ lùng quái đản đó đưa tên tuổi của người đi vào huyền thoại. Cho đến bây giờ hình ảnh và âm vang vô tận của những lời thuyết pháp vẫn còn chấn động cả thiền môn, rung chuyển trong tận cùng tâm thức, hình bóng của người đã ngả dài trong suốt lịch sử nhân loại, vươn lên tìm một sinh lộ cho sự trở về uyên nguyên giác ngộ, không nhất thiếtgiới hạnphương vị nào cho sự trở về ấy.

 Chính những huyền thoại đã tạo nên con người vốn quái đản của Bồ Đề Đạt Ma lại càng quái đản và lạ lùng hơn, những huyền thoại đó đưa Bồ Đề Đạt Ma trở thành một kẻ phi thường nhất trong tất cả những kẻ phi thường. Những huyền thoại này như chiếc dép cỏ mà Bồ Đề Đạt Ma từng hùng dũng xách nó vượt suối băng ngàn phi hành trên ngọn thông lãnh, sự ngạo nghễ và những trận cười đinh tai, nhức óc rung chuyển cả núi đồi chập chùng, những âm vang đó vẫn còn phảng phất vang vọng đâu đây trong mỗi con người, trong mỗi thời đại theo sự chuyển vần của thời gian, không gian vô tận.

 Hình ảnh của Bồ Đề Đạt Ma có phải là một nhân vật lịch sử hay một nhân vật huyền thoại do đời sau ngụy tạo và dựng lên? Có hai nhóm rõ rệt trong việc truy tìm, nghiên cứu tư liệu về cuộc đời của nhân vật hoang đường này. Nhóm thứ nhất, những nhà học giả như P.Pelliot, Conze v.v… đưa ra nhiều tư liệu nghi ngờ về lịch sử Bồ Đề Đạt Ma, họ cho đó là cách gây uy tín cho việc hình thành phát triển của Thiền Tông – bằng cách ngụy tạo ra dòng tổ bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

 Nhóm thứ hai học giả Prabodh Chandra Bagchi, Hồ Thích v.v… lại cho rằng Bồ Đề Đạt Ma có mặt ở Trung Hoa khoảng 420 hay 486. Theo tài liệu viết vào khoảng 547 in trong Tripitaka do giáo sư Takakusu xuất bản có nói gặp một vị sư tên Bodhidharma trong một ngôi chùa ở Loyang.

 Tất cả những dữ kiện về lịch sử không hẳn là một chứng cớ để chúng ta có thể tin tưởng được, hãy trả tất cả những nghi vấn về lịch sử cho những nhà khảo cổ. Với chúng ta điều quan trọng sự hiện hữu của Bồ Đề Đạt Ma dù huyền thoại hay không huyền thoại có giúp được gì trong hành trình đi đến giác ngộ hay không? Và cuộc đời của Bồ Đề Đạt Ma đã ảnh hưởng như thế nào trong tư tưởng của nhân loại?Những câu hỏi chúng ta đã đặt ra cũng chỉ là câu hỏi để trả lời và cũng để hỏi với chính ta.

 Có những lúc ngôn ngữ không thể diễn tả trọn vẹn được ý tưởng thâm sâucon người cần phải nói. Tự nó vốn đã tuyệt lộ khi chính nó đã không lý giải được cho nó, ngôn ngữ vẫn có đường cùng của nó, nên đó chỉ là một phương tiện chuyên chở cái bóng dáng mờ mờ của tư tưởng và nhiều khi đã tạo nên những rắc rốingộ nhận đáng tiếc. Và trên hết nó đã không chuyên chở được sự thâm sâu, toàn triệt trong tận cùng của tâm thức.Chỉ có sự cảm nhận trong vô ngôn cửa miệng đóng mốc mới hiển lộ nên. Sự yên lặng của con người không có nghĩa là không có ngôn từ để diễn tả mà phải hiểu rằng chính ngôn từ đã không lý giải được sự cảm nhận sâu xa ấy.

 Trên phương diện bình thườngngôn ngữ đã phải dừng lại, huống gì trên phương diện vượt thoát bùng vỡ của giác ngộ hay lập nguyện dấn thân ngôn ngữ càng bế tắc.Hễ mở miệng ra là bị kẹt và hễ mở miệng ra là rơi vào đối đãi, chấp trước ngay, vì thế các vị Thiền Sư đã từng dạy “Để miệng, đóng mốc” Và đó chỉ là quá trình để chuẩn bị nhìn ngắm về đối tượng ở góc cạnh phê phán. Con người vốn đã không chủ động được tâm thức của mình, bị sai sử và tác động do những phân hóa, đố kỵ và động cơ chính là không sáng suốt, nên hầu hết những quan niệm đều đồng nghĩa với sự sai sử, vì thế những phê phán nhận định dễ trở thành sản phẩm phi lý của trí thức ô nhiễm.

 Và không khéo nó sẽ trở thành công cụ đày đọa, dày xéo chính kẻ đã và đang xử dụng nó như một quyền năngcon người đang phải đối diện, ghê tởm, lắc đầu.

 Vì vậy những luận cứ về một con người và nhất là một con người giác ngộ phải chăng ngôn ngữ đã phải cúi đầu?

 Huyền thoại về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là huyền thoại và sự ca ngợi về Bồ Đề Đạt Ma cũng chỉ là ca ngợi, tất cả những điều ấy không đủ để dệt nên một con người tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma.

 Một con người được mệnh xưng là kẻ phi thường trong lịch sử cổ kim của nhân loại, một kẻ đã đi trong cô đơn mang cả một tâm hồn nghệ sỹ và đã tung những chưởng lực mà cả triều đình Lương Võ Đế khiếp vía bay hồn, không tài nào hiểu được và cảm nhận lấy một chữ thâm hậu đó.

 - Lương Võ Đế hỏi: Từ ngày tôi làm vua đến nay lập nhiều chùa, in kinh, độ tăng rất nhiều không thể kể hết, như vậy có được công đức không?

 - Bồ Đề Đạt Ma đáp: Không có công đức gì cả.

 - Vua hỏi: Tại sao không?

 - Công đức ấy chỉ được tiểu quả ở cõi nhơn thiên mà thôi, vì còn thuộc nhơn hữu lậu, tuy có mà không thực.

 - Làm thế nào mới gọi là chân công đức?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Trí thanh tịnh, thể vốn vắng lặng nhiệm mầu, công đức như vậy không thể lấy thế pháp mà cầu được.

 Vua hỏi: Thánh Đế đệ nhất nghĩa là gì?

 Bồ Đề Đạt Ma: Trống rỗng, không gì gọi là Thánh (Quách nhiên vô thánh).

 Vua hỏi: Vậy chứ ai đang đối diện trước mặt trẫm đây?

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời:

 - Không biết (Bất thức)

 Lương Võ Đế đã không vứt bỏ những gì do chính mình tạo, nên đã không trực nhận được những gì Bồ Đề Đạt Ma đáp, lời nói ấy quả như một chưởng lực siêu phàm làm cho Lương Võ Đế chới với không biết phải bám vào đâu. Và nếu Võ Đế cảm nhận đi chăng nữa thì sự cảm nhận đó vẫn chưa là dấu hiệu của một cảm thông tương quan, có thể nói đó chỉ là một thoại ngữ và họ Lương cần phải tốn cả tâm huyết mới hoàn thành được. Nó tựa như dòng sông trong xanh sâu thăm thẳm công năng của nó có thể cuốn phăng đi tất cả cặn bã của cuộc đời và ngược lại làm cho kẻ đứng ngắm hoảng kinh, dòng tâm của Ngài sâu hun hút không một lối đi vào nếu, không bằng vào cửa ngõ đi là vào cõi chết để biến dạng thành một con người hoàn toàn vượt thoát ra khỏi tử sinh, và Lương Võ Đế là một con người đã không muốn chết theo nghĩa đó, như vậy dĩ nhiên họ Võ đã không tìm thấy sinh lộ cho tiến trình giác ngộ ấy nơi Ngài.

 Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời bỏ triều đình, Ngài đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách, trầm hùng chín năm nhìn vách đá yên lặng không nói một lời. Sự yên lặng ấy như là sự khinh bỉ cuộc đời đã không một ai có thể hiểu nổi con người của Bồ Đề Đạt Ma, và sự yên lặng ấy cũng là cách trắc nghiệm sự đi vào của kẻ khác bằng cách chấp nhận sự yên lặng của yên lặng và chờ đợi sự yên lặng để bùng vỡ. Và yên lặng ấy đã bùng vỡ khi Huệ Khả tìm đến trong một đêm mưa tuyết phủ đầy cả mặt đất, Huệ Khả đứng đó với tâm nguyện chờ đợi cánh cửa yên lặng chợt mở thì sẽ xông vào quỳ xuống đảnh lễ và dâng lên cả một sự cầu mong.

 Có lẽ lúc đó Bồ Đề Đạt Ma thừa hiểu đã đến lúc không yên lặng.Tuy nhiên Ngài lại thích kéo dài sự yên lặng ấy càng lâu thì càng có công năng và biết đâu sẽ tuyệt diệu hơn.Và rồi Ngài đã đạt được như ý.

 - Nhà ngươi mong cầu gì mà đứng mãi trong tuyết như thế?

 Huệ Khả bạch: “Con đến để mong cầu giáo pháp vô thượng xin Ngài dũ lòng từ bi ban bố cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Giáo lý vô thượng của Phật khó có thể thành tựu ngay, phải trải qua một thời gian dài cần khổ, nhẫn những việc khó nhẫn, làm những việc khó làm. Tâm trí người thấp kém, lòng khinh mạn thì làm sao thành Phật được, chỉ luống công nhọc sức mà thôi.”

 Huệ Khả một lòng cầu đạo, quên cả thân mạng của mình nên dùng dao chặt đứt cánh tay để tỏ lòng thành.

 “Tâm con chưa an xin thầy an cho.”

 Bồ Đề Đạt Ma nói: “Đem tâm ngươi ra đây ta an cho.”

 Huệ Khả bạch sau một phút lưỡng lự:

 “Con tìm mãi nhiều năm mà không thấy.”

 Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”

I. THEN CHỐT QUAN TRỌNG CỦA THIỀN 

 Yếu chỉ của Thiền được qui tụ trong 4 câu:

 Giáo ngoại biệt truyền
 Bất lập văn tự
 Trực chỉ nhân tâm
 Kiến tánh thành Phật

Tạm dịch:

 Truyền riêng ngoài giáo
 Chẳng lập văn tự
 Chỉ thẳng tâm người
 Thấy tánh thành Phật

 Tất cả sự quyết định cho sự nghiệp giải thoát đều bắt nguồn từ Tâm, Tâm có thể là một chủ lực mạnh nhất trong việc đưa chính con người ấy đạt được an lạc, và cũng chính Tâm biến thành công cụ đạp đổ con người rơi xuống vũng sâu của tử sinh. Những thiền sư đã xử dụng phương pháp “Dĩ tâm truyền tâm” đẩy thẳng ánh sáng giác ngộ đi qua kẻ đối diện. Dĩ nhiên miếng đất tâm của người đối diện ấy đã được cày bừa kỹ lưỡng và trải qua mọi nhân tố để cho hạt giống được nẩy mầm một khi ánh sáng mặt trời sưởi ấm nó. Nó không nằm trong kiến giải, so đo tính toán được nữa.

 Bởi lẽ những kiến giải chỉ là cách đo lường và tách xa giác ngộ hơn. Tâm ấy tựa như một luồng điện đi qua và ánh sáng bùng vỡ ngay, nó không còn nằm trong trạng thái chờ đợi để ấn nút xuống, nút ấy phải được mở sẵn chỉ chờ luồng điện đi qua là mọi tối tăm nơi tâm vén mở – hiển bày cả càn khôn và cả một vũ trụ tinh nguyên mà mấy mươi năm trời hành giả đã phải lận đận, bương chải và tìm phương vượt thoát.

 Bất lập văn tự: Không có nghĩa là vất bỏ văn tự nếu áp dụng phương cáchvăn tải đạo” thì không dính mắc nào trong chính ngôn từ đó. Con người luôn thích lý luận và căn cứ nơi ngôn từ để phán quyết. Điều đó không hẳn và thực sự đã trói buộc rơi vào làm kiếp con mọt đọc sách. Phải xoay những tư liệu ấy quán chiếu thẳng vào thể tánh mới thấy được đàng sau những ngôn từ đó hiển lộ những gì mà cổ đức đã trao truyền lại.

 Văn tự vẫn là văn tự và không giúp được gì thật sự nếu con người không vứt nó vào hố thẳm, phải tiêu hóa ngay khi đã đọc một cách tuyệt diệu.Nó chỉ là tiến trình của kẻ khác và cũng chỉ là cánh cửa để người đọc biết dấu tìm vào.Và trên hết đó cũng chỉ là của kẻ khác. Hành trình đi tới để vào căn nhà uyên nguyên nhất định không còn mở sách ra để tìm cách đi vào. Bởi lẽ phải vứt bỏ tất cả ngay cả cái cần phải vứt đi cũng chưa chắc đi vào được, một ý niệm còn hưng khởi theo chiều hướng tôi, sẽ, đang, chuẩn bị vứt còn ngự trị, thì còn, sẽ, phải trôi lăn. Những gì được kể như vắng lặng, tròn đầy trong đó vẫn còn một chút vi tế thì hành giả phải bật tung ra khỏi đỉnh cao và rơi vào hố thẳm ngay.

 Buông xả tất cả ngay cái buông xả đó, và buông xả không có nghĩa là không nắm bắt vì buông xả được hình thành cũng do tương quan đối đãi với nắm bắt mà lập, nên buông xả cũng có nghĩa là nắm bắt nên mới buông mà càng không có nghĩa là xả hết. Thiền không khéo trở nên phức tạpmâu thuẫn chính nó. Tuy nhiên Thiền đã đạp tung và vượt lên trên tất cả những gì phức tạp nhất và mâu thuẫn cùng cực nhất. Nó cởi tung tất cả những triền phược trói buộccon người tạo nên. Thiền là một cái gì tươi mát không một ngôn từ nào có thể diễn tả được cái yếu nghĩa của nó như đói thì ăn cơm, khát thì uống nước. Thiền là phải hành hoạt, uyển chuyển, linh động tươi mát ngay trong cuộc sống thường nhật – Trong tất cả mọi động tác như: gánh nước, bửa củi, ăn uống làm việc v.v… đều phải hạ thủ công phu kiểm chứng nội tâm trong từng niệm niệm tương tục. Không phải lúc ngồi bất động trên giường thiền rơi vào trạng thái chết cứng lặng thinh (theo nghĩa gỗ đá) mà có thể đạt được yếu chỉ của Thiền. Cần phải dụng công trong mọi chiều hướng.Không một ai có thể cho chúng ta một ít khái niệm về Thiền và nếu có cho đó cũng chỉ là diệu dụng tùy nghi chứ không hẳn là Thiền.Thiền là vậy đó được bao phủ trong mâu thuẫn nhưng, không một mâu thuẫn nào có thể trói buộc được Thiền – và chính mâu thuẫn cũng có thể là Thiền.

 Chủ trương của Thiền chỉ thẳng không quanh co, trực nhận ngay.Một khi thấy được bản lai diện mục mới có thể thành Phật.

II. AI LÀ VỊ TỔ SƯ THIỀN TÔNG VIỆT NAM?

 Thiền vốn không phân biệt, thấp cao, cung kính hay không, theo trạng huống thường tình – ngay cả vị Tổ Sư tuyệt diệu như Bồ Đề Đạt Ma mà các vị Thiền Sư thường gọi “Bích Nhãn Hồ” nghĩa là “Tên Rợ mắt xanh” dù dưới bất cứ một danh xưng có vẻ phạm thượng đi nữa thì Bồ Đề Đạt Ma cũng là ngài không vì thế mà tổn thương hay hoen ố được. Và đó cũng chính là sự độc đáo của những Thiền Sư biểu lộ cả một sự kính thành, quy ngưỡng nhất.Hình tượng của Bồ Đề Đạt Ma trông rất dữ tợn, mắt luôn trợn trắng, mày quặm và râu phủ cả mặt.Nhưng không một ai lại không thích chiêm ngưỡng quy phục sự dữ tợn đó.Phải chăng bóng dáng ấy đã ẩn chứa bên trong cả một chân trời huyền nhiệm.

 Riêng Việt Nam theo Thuyền Uyển Tập Anh ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là vị Tổ Sư đầu tiên mang thiền đến Việt Nam. Ngài đến vào năm 580 đời Hậu Lý Nam Đế trú ở chùa Pháp Vân. Ngài vốn là người Nam Thiên Trúc đến Trung Hoa vào năm 574, gặp nạn Võ Đế nhà Bắc Chu tàn phá Phật Giáo đến Hà Nam ngài gặp Tam Tổ Tăng Xán và được truyền Tâm ấn dạy ngài đi về phương nam hóa đạo Ngài là dòng thiền thứ nhất của Việt Nam và là sơ tổ. Dù vậy những ngôi chùa ở Việt Nam thường tôn kính hình ảnh của Tổ Sư Thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma?Phải chăng Bồ Đề Đạt Ma tuyệt diệu hơn ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi?Và phải chăng người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, lễ nghi của người Tàu? Lý do này có lẽ tương đối đúng hơn vì thế ngay cả những ngôi chùa và ngay cả những kinh văn trì tụng cũng là chữ Tàu. Vì vậy đạo Phật khó hiểu lại càng khó hiểu hơn.Chưa có một cuộc cách mạng toàn triệt nào để thay đổi lại sự lệ thuộc một cách vô lý này, dù điều này đáng được thực hiện một cách triệt để.Đạo Phật Việt Nam vốn là một tôn giáo lớn tiêu biểu cho đặc thù văn hóa dân tộc, nhưng đâu đó vẫn còn phảng phất một chút gì của ngoại lai. Đối với chúng ta vị Tổ Sư nào cũng đáng kính cả dù đó là Tổ Sư của Trung Hoa hay Việt Nam. Tuy nhiên trên phương diện duy trì bản chất độc đáo của một dân tộc điều ấy phải được phát huy truyền thừa tiêu biểu cái mà gọi là Dân Tộc. Hầu hết chúng ta phó mặc theo kiểu “xưa bày nay bắt chước”. Làm thế nào tất cả những ngôi chùa trở thành một tiền đồn phát huy và bảo tồn Văn Hóa? Những tăng sĩ trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa như vậy chúng ta mới có thể tự hào sự có mặt Đạo PhậtViệt Nam là một biểu trưng sáng ngời nhất trong lĩnh vực Văn Hóa Nghệ Thuật. Dù rằng Thiền được kể như một nghệ thuật tuyệt diệu nhất trong việc thấy tánh thành Phật (kiến tánh) một nghệ thuật đánh phá nội tâmhoán chuyển từ mê sang ngộ mà không gây một khủng hoảng trầm trọng nào. Hành giả hướng tâm của mình đi theo dòng nước không bao giờ có ý định phong tỏa ngăn chận dòng nước vì như thế nước sẽ vỡ tung bờ, chỉ theo đó biết nước sẽ đến đâu những ngõ ngách nào nước ở ngoài chảy vào v.v… đòi hỏi hành giả nếu không có một nghệ thuật cao khó có thể duy trì được sự tĩnh lặng trong chính cái luân lưu mà không vọng động. Một nghệ thuật tinh vi và chỉ có những nhà nghệ thuật phi thường mới có thể tìm thấy. Một đóa hoa đẹp không có nghĩa là đóa hoa ấy đẹp với bóng dáng ở ngoài, sự hoàn hảo của cái đẹp phải kể đến hương vị ngọt ngào tỏa ra từ đóa hoa ấy.Phải có một cái nhìn thoát ra khỏi nhãn quan thường tình thì vẻ đẹp mới hiển lộ một cách toàn diện vượt thoát, một nghệ thuật điêu luyện phải kể như phi nghệ thuật mà là nghệ thuật, vượt trên tất cả những gì gọi là nghệ thuật.

 Ngoài dòng Thiền của Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn một dòng thiền đến Việt Nam nữa, đó là Thiền Phái Vô Ngôn Thông, khoảng thế kỷ thứ 9, ngài đến Việt Nam vào năm 820 trú ở chùa kiến sơ, Bắc Ninh đắc pháp với ngài Bách Trượng Thiền Sư bên Tàu. Sở dĩ gọi Ngài là Vô Ngôn Thông vì ngài vốn ít nói dù rằng thông hiểu tất cả mọi lý sự.Sự yên lặng là một dấu hiệu cảm thông trong tất cả mọi tương quan trong cuộc đời.Yên lặng không có nghĩa là không biết mà phải hiểu rằng không việc gì là không rõ.Mặc nhiên trong trạng thái tuyệt diệu của sự vắng lặng và yên lặng chỉ là động tác xuất phát từ “sự yên lặng nơi tâm thức.Thiền Sư Vô Ngôn Thông được người đời tôn xưng với danh hiệu như thế hẳn chắc Ngài phải là nhân vật có một phong thái khó hiểu. Mà thật có gì để phải hiểu khi chính con người đã không có được một phút giây nào dừng lại để cho sự yên lặng ngự trị trong tâm. Đó là cách khuyên nhủ người đời bằng sự yên lặng sống động nhất. Nhiều lúc cả trăm ngàn câu trả lời tuy nhiên nhiều lúc gây ngộ nhận cho kẻ hỏi và sự trả lời này không bằng một nụ cười tươi mát, chừng đó cũng đủ cho kẻ đối diện thức tỉnh, càng đặt vấn đề thì càng rơi vào khủng hoảng khúc mắc. Không một sự trả lời nào của kẻ khác làm cho ta thỏa mãn, nếu chúng ta không tự hỏi và trả lời cho chính mình.

III. THIỀN CÔNG ÁN

 Công án là lối hạ thủ độc đáo mà thiền sư đã dồn Thiền sinh rơi vào thế bí nơi chân tường phải đánh phá, tác động, gõ một cách liên tục vào nội tâm mới mong bùng vỡ lên được, những lúc căng thẳng đầu óc như vỡ tung ra từng mảnh mới tìm thấy được chút ánh sáng len lỏi vào.

 Công án đầu tiên là mẫu đối thoại giữa Bồ Đề Đạt MaLương Võ Đế “Rỗng suốt không có thánh gì hết” đã trở thành một công án độc đáo nhất trong lịch sử Thiền Tông. Tuy nhiên mãi đến nhà Tống công án mới trở nên thịnh hành thường dụng trong tất cả những tra vấn về Thiền và trở thành cửa ngỏ then chốt đi vào Thiền. Trong Thiền Quan Sách Tấn của Chu Hoằng và Ngữ Lục của Đại Huệ đời Tống có ghi lại nhiều công án.

 Khi một Thiền Sư muốn trắc nghiệm kẻ đối diện bằng những câu hỏi hắc búa, quái lạ nhiều khi trái ngược mâu thuẫn, nghịch lý nhưng tất cả những khúc mắc ấy mới trở thành diệu dụng của Thiền. Những nghịch cảnh theo quan niệm của con người thì đó là nghịch cảnh, nhưng với công năng của Thiền là phá tan và san bằng tất cả những gì chận đứng lại. Chúng ta đọc Phó đại sỹ để thấy cái phi lý và cũng là có lý của Thiền.

 Tay không nắm cán mai
 Đi bộ lưng trâu ngồi
 Theo cầu qua bến nước
 Cầu trôi nước chẳng trôi

 Những gì phi lý nhất lại là có lý nhất, cũng có thể những gì có lý lại là phi lý trong Thiền thuật ngữ nầy, tràn ngập như nước đã đầy ly nhưng vẫn cứ rót tràn mãi ra mới thôi. “Lông rùa rừng thỏ”“Hoa không đỏ liễu không xanh” Thiền công án không phải là một lâu đài kỳ bí khiến cho kẻ đứng ngắm khởi lên một sự nghi ngờ, hoang mang. Với Thiền không có hoang mang mà là đi thẳng không quanh co uốn nắn. Nếu như vậy sẽ bị đạp tung ra khỏi cửa thiền và bị phất trần đánh tới tấp. Chưa kịp mở miệng mà rơi vào trạng thái so đo thì bị ngay tiếng hét đinh tai nhức óc của Lâm Tế Nghĩa Huyền gây chấn động cả thần kinh hệ rồi. Lối xảo thuật diệu dụng này nhằm để phát huy và phục hồi nguyên ủy mà hành giả vốn đã lẩn quẩn trong sự mê ngộ – ngộ là ngộ tức khắc không chần chờ so đo tính kỹ và hễ không ngộ là không chứ không có kiểu mở miệng để rơi vào ngõ bí không lối thoát. Thiền là một thực thể linh động trong mọi chiều hướng ngập tràn và làm hưng thịnh những gì vọng động. Và chính những linh động thực tiễn ấy mới hé mở cho sự giác ngộ bùng lên, linh động một cách nhịp nhàng ăn khớp với tâm thức giác ngộ của Thiền Sư hòa đồng và tác động vào chính dòng tâm thức của Thiền Sinh. Và chỉ có sự khơi mở đúng lúc thì ngọn đuốc mới rực lên ánh sáng và bóng đêm bị quét sạch ngay tức khắc, không còn cơ may hưng khởi được nữa một khi ánh sáng này ngự.

 Thiền Sư Đức Sơn đã từng xử dụng cây trượng mỗi khi hỏi đồ chúng:

 “Nói được ba chục hèo”

 “Nói không được ba chục hèo”

 Chân lý vốn đã không nằm trong thế đối đãi của nhị nguyên lý hễ còn nói được và không được thì phải lãnh đủ ba chục hèo.Thiền Sư Đức Sơn chỉ đưa ra cách nói được và nói không được nghĩa là phải mở miệng chứ ngài đâu bảo nếu yên lặng hành động cũng ba chục hèo đâu?

 Và cũng một lần Nam Tuyền nắm lấy con mèo dơ lên cao bảo: “Nói được thì mèo sống, nói không được ta giết chết con mèo” Tăng chúng không ai đáp được và Nam Tuyền giết chết con mèo.

 Khi Triệu Châu trở về Nam Tuyền thuật lại sự việc Châu bèn cởi chiếc giầy cỏ đội lên đầu rồi ung dung ra đi. Nam Tuyền nói: “Tiếc thay không có Triệu Châu ở nhà để cứu mạng con mèo”.Hành động của Triệu Châu chỉ có Nam Tuyền mới cảm thông được. Và chỉ có Triệu Châu mới có thể cứu được con mèo lúc ấy.

 Thiền phải kể đến tiếng hét của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Lâm Tế xử dụng nó như một ngón tuyệt kỷ, kẻ nào bị phải đinh tai nhức óc ngay. Những tuyệt kỷ này đã từng gây chấn động trong Thiền Môn cho đến bây giờ tiếng hét ấy vẫn còn đeo đuổi.

IV. NHỮNG THIỀN SƯ DẤN THÂN ĐI VÀO CUỘC ĐỜI

 Thiền lưu truyền và cất giữ trong nhân gian một cách lâu đời và bền bỉ nhất khi thiền đã tách rời khỏi những hình thức khuynh hướng quyền thế.Thiền phải là một sự phổ cập đa dạng trong mọi lãnh vực và là nguyên tố cơ bản trong mọi tầng lớp. Thiền Việt Nam dung hòatìm thấy sự giác ngộ ngay trong cuộc đời. Ngoài cuộc đời này ra sẽ không có giác ngộ, quên mình để phụng sự cho kẻ khác đó là lý tưởng dấn thân của Phật Giáo. Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã lưu lại những vị Thiền Sư đi vào cuộc đời như Thiền Sư Định Không (729-808) La Quý An (851-936) Khuông Việt (931-1011) Pháp Thuận (915-991) và Vạn Hạnh (mất 1025) nổi bật Thiền Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (dòng Vô Ngôn Thông) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm vị Tăng Thống đầu tiên của Việt Nam. Và điểm nổi bật nhất là Thiền Sư Vạn Hạnh với sự nghiệp xây dựng nhà Lý mà cho đến bây giờ công nghiệp ấy hãy còn bàng bạc trong nhân gian.

 Một hành động dấn thân khác nữa đó là Thiền Sư Trần Nhân Tông dòng Vô Ngôn Thông ngài đổi thành danh hiệu khác đó là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Là một vị thượng hoàng nhưng ông từ bỏ tất cả để làm một sơn tăng tu theo hạnh đầu đà. Ông đã chuẩn bị đi tu bằng cách tập sự xuất gia nhiều năm khi còn là một ông vua. Ngài một mình chống tích trượng đi du hóa khắp nơi khuyên dân chúng bỏ ác làm lành, tạo tình liên bang với Chiêm Thành ông đã gả con gái Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để duy trì nền hòa bình giữa hai dân tộc.

 Hình ảnh của một Thiền Sư khác là “Chí Thành Thiền Sư, con của Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành sinh năm 1861 tại Quảng Nam”.Ông tham gia phong trào văn thân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông vào tu ở chùa Giác Viên Chợ Lớn, ba năm tròn lo việc công quả: gánh nước, bửa củi, giã gạo. Sau đó ông nhập thất và tịnh khẩu trong ba năm. Năm 1892, ông đi cứu trợ bão lụt tại Gò Công và năm 1895 ông lại đi cứu trợ bão lụt ở Châu Đốc. Một mình ông độc suất cứu vớt được hơn 500 người đem về chùa nuôi cho đến khi nước rút. Ông thu thập tẫm liệm, mai táng không biết bao nhiêu là thi hài không thừa nhận. Ông lại còn bị mật thám Pháp bắt giam gần một năm trời vì những hoạt động xã hội trong “Tương Lai Thiền Học” của Nhất Hạnh trang 31.

 Chính những hạnh nguyện dấn thân nầy mà thiền len lõi trong quần chúng, có những lúc không nhất thiết vị Thiền Sư phải đăng đàn thuyết pháp mà ngay hành động của quý Ngài trở thành bài pháp không lời và chỉ có những bài pháp sống động này mới tồn tại lâu bền và hiệu quả thâm sâu nhất. Đi vào cuộc đời để rồi xoa dịuchuyển hóa những thống khổ đang bao phủ con người, Đạo Phật vốn đã không tách rời ra khỏi những đau khổ mà hình thành và càng không có nghĩa đạt được giải thoát ra ngoài cuộc đời nầy ra. Dấn thân nhưng không bị cuộc đời vùi lấp hay làm hoen ố được.Phải duy trì liên tục lý tưởng phụng sự kẻ khác trong cương vị xuất thế của mình. Các Thiền Sư đã trở về ung dung thanh thoát sau khi đã hoàn thành đại nguyện độ sanh.

V. CHẤN CHỈNH LẠI NỀN THIỀN HỌC VIỆT NAM

 Từ thế kỷ thứ 14 trở đi nền Thiền Học Việt Nam bị Mật TôngTịnh Độ lấn áp. Hai buổi công phu ở chùa đều ảnh hưởng Mật và Tịnh. Dù rằng Thiền được bao phủ và tác động lên trên tất cả Mật và Tịnh bởi lẽ hành giả phải ngưng tất cả những vọng động để tìm sự thanh thoát nơi tâm hồn, không để tâm tư dong ruổi theo trần thế, kiểm soát nội tâm bằng ánh sáng giác ngộ. Chiếu soi liên tục trong mọi tình huống. Nếu niệm Phật trăm ngàn câu mà tâm không niệm có ích gì đâu trên lối về giác ngộ, chỉ đạt được chút phước báo ở tiểu quả nhơn thiên. Vẫn còn phải dụng công trên đường tìm về giải thoát.

 Thiền chỉ còn trong sự bàng bạc bao phủ không còn là then chốt trong hai thời công phu ở chùa nữa. Hầu hết các tự việnchúng ta đều xuất phát từ Thiền “Lâm Tế” nhưng điều này đã không được phát huy đúng mức, nên có sự pha trộn giữa Tịnh hoặc Mật. Tịnh độ tông chỉ là sự biến dạng của Thiền nên sự dung hòa khó mà tìm thấy. Với đa số quần chúng hẳn nhiên không như vậy Tịnh và Thiền là hai chứ không phải là một.

 Đạo Phật được truyền vào Việt Nam phần lớn là Thiền Tông, nó đã bám rễ và ảnh hưởng sâu đậm trong quần chúng bằng sự tỉnh thức, kiên nhẫnhy vọng. Nếu tất cả những hành động đều được ngự trị bởi thức tỉnh, sáng suốt hẳn nhiên chúng ta đã không gây khổ đau cho mình và kẻ khác. Con người không có được sự tỉnh thức con người đó trở thành một nguy cơ cho chính họ và cả loài người. Họ có thể xử dụng quyền thế, ưu điểm để lừa dối, và đưa con người đi vào cõi chết không một chút tiếc thương.

 Trong sự khổ đau cùng cực nhất của Dân Tộc hiện tại phải chăng đều xuất phát từ những kẻ không có được một phút giây tỉnh thức nào?Và đã không có được một ý nghĩ về kết quả mà chính họ đang tạo nên. Chỉ khi nào ý thức về con người đang chơi vơi trên hố thẳm may ra họ mới tìm thấy được giá trị của sự tỉnh thức.

 Cần phải phát huy duy trì nền Thiền Học Việt Nam trong mọi chiều hướng mới có thể vơi đi những phiền trược cho con người. Thiền là yếu tố cơ bản nhất trong việc đi thẳng đến giải thoát.Sự giải thoát không nằm trong tương lai mà nó có ngay trong hiện tại nầy. Một khi con người thực sự tĩnh lặng bình an, và kết quả này luôn ngự trị tác động liên tục thì may ra con đường đi đến giải thoát mới hiển lộ. Còn nếu sóng sau dồn sóng trước thì uổng phí cả một đời, sự giải thoát được quyết định ngay trong hiện tại và đó là nền móng xây dựng sự an lành, và một nụ cười bất diệt. Ngoài lãnh vực nầy ra, thiền còn là yếu tố cơ bản trong tất cả những lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, chính trị, dấn thân v.v…

Những hành hoạt thường dụng nếu có sự tỉnh thức, quán chiếu thì không việc gì mà chẳng thành, không gì làm hoen ố được. Lập chí như núi cao, nguyện lực thâm hậu, dụng công trong vi tế thì sá gì những trì trệ ứ đọng. Tâm tư trùm kín cả vũ trụ không một mảy may nào động tới được, vứt bỏ tất cả những gì đối đãi, tham trước. Chỉ còn lại một hạnh nguyện cao cả đi vào cuộc đời để chuyển hóa mọi thống khổ của con người vơi đi, để linh động mang dòng nước thanh lương tưới mát lửa phiền của chúng sanh, để hát những khúc ca chứng đạo truyền giảng cho hữu tình, và để vươn lên chọc thủng màn đen bao phủ cuộc đời.

 Một khi hạnh nguyện hoàn xong phải buông xả tất cả, thong dong tự tại trở về từ nơi khởi điểm. Để không còn thấy điểm xuất phát và nơi đến, thì cuộc đời vẫn là cuộc đời, khổ đau cũng chỉ là khổ đau, hạnh phúc Niết Bàn như cơn lốc, như gió thoảng mây bay. Tất cả chỉ còn lại lối về trước mặt không còn mờ mờ hoang lộ và đàng sau không còn gò núi chập chùng muôn lối.

 Thênh thang trên đoạn đường không dài cũng không ngắn từng bước đi là cả một cung đàn tuyệt diệu, hoa vẫn nở trên đường, lối đi chuyển về đâu !

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14423)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39691)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15302)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13870)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40040)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14629)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12645)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19203)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13787)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42600)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13819)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37221)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12658)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11744)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22528)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12503)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12565)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13035)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13101)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17253)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33206)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14824)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51243)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6605)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30397)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30663)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19339)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12471)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11838)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14754)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13185)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30659)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12021)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11819)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12711)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31880)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29399)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11777)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9642)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9964)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10136)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27788)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15469)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9827)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18304)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12039)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9561)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8697)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8405)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11469)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31715)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9214)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9067)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29335)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9062)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9084)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33216)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8418)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30583)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31204)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37094)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32235)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9909)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27075)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8437)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19219)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant