Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Thiền Sư Hương Hải

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 9448)
9. Thiền Sư Hương Hải
thiensututuonggiacngo

Thiền Sư HƯƠNG HẢI

 

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


I. NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI CỦA HƯƠNG HẢI

Theo sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Hương Hải người làng Án Độ huyện Chân Phúc tỉnh Nghệ An sinh năm 1627, vốn là người thông minh xuất chúng, lịch lãm về nho học, đỗ Hương Cống (cử nhân) năm 18 tuổi, được chọn vào phủ Chúa Nguyễn. Sau đó cử nhận Tri Phủ huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Vào năm 25 tuổi ông rất hâm mộ đạo Phật, đã từng đàm luận với các vị Thiền Sư Trung Hoa đang hành đạo tại Quảng Trị.


Ba năm sau (1655) ông từ quan đi xuất gia với ngài Viên Cảnh thiền sư, ngài đặt cho pháp danhHuyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải, ngày nay chúng ta thường gọi ngài là Hương Hải. Sau đó ngài ra vân du ở đảo Tiêm Bút La, cảnh trí nơi đây thích hợp cho việc tu trì nên ngài lập am để chuyên tu. Đạo hạnh của ngài cao thâm, quan dân thảy đều ngưỡng mộ. Có lần quan trấn thủ Thuần Quận Công thỉnh ngài về đất liền tụng kinh cầu an cho phu nhân, và cả gia đình quy y theo. Và quan Tổng thái giám Hoa Lệ Hầu cung thỉnh ngài về đất liền lập đàn sám hối, cầu cho hết bịnh mà quan Tổng đã mắc phải. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1752) nghe tiếng bèn cử người ra cung đón, khi ngài về đến nội địa đích thân chúa Nguyễn ra đón tiếp, hỏi thăm, ủy lạo, rồi sau đó lập Thiền Tĩnh Viện ở trên núi Qui Cảnh để ngài ở. Các quan trong triều và đủ mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh đến quy y học đạo rất đông. Thiền Tĩnh Viện trở thành trung tâm truyền bá, phát triển, nổi tiếng ở đàng Trong.
Trong số những người đến tham học có quan Thị Nội Giám Gia Quận Công vốn là người đàng Ngoài, quan nội giám thường gặp gỡ Hương Hải để nghe thuyết pháp, có người dèm pha vu cáo ông cùng Thiền Sư đang âm mưu trốn về Bắc. Chúa Nguyễn hay tin đem việc tra xét nhưng không có bằng cớ để buộc tội. Chúa Nguyễn bèn truyền cho ngài phải vào ở Quảng Nam. Vì sự đối đãi kèm theo nghi kỵ nên Hương Hải quyết chí ra Bắc thật. Năm 1682 Thiền Sư cùng với 50 đồ đề vượt biển ra Bắc đến trấn Nghệ An, thuyền ghé bến ngài đến trình diện ở đồn Trần Lao do Yên Quận Công Trịnh Gia trông coi. Sau đó ông mới tâu về triều Chúa Trịnh cho người đón tất cả về kinh hỏi han mọi việc. Sau đó chúa sai quan Trấn Thủ Sơn Nam lấy đất lập chùa mời ngài trụ trì ở đó.
Những tháng năm bập bềnh sóng gió đã trôi qua, ngài bèn dùng thời gian còn lại trong việc tu tậpnghiên cứu sáng tác, dịch thuật hơn 30 tác phẩm để lại cho đời. Trong số những tác phẩm bị thất lạc chúng ta chưa tìm ra đầy đủ.


Hương Hải Thiền Sư vốn đã uyên thâm về Nho học trước khi đi xuất gia, hầu hết lúc bấy giờ theo đường công danh cử nghiệp bút nghiên phải thông nho mới mong đỗ đạt. Hương Hải quan niệm sự dung hòa giữa Nho giáoPhật giáo có thể bổ túc cho nhau trên phương diện trị an.


“Lên tận nguồn Nho trông bát ngát
Vào sâu biển Pháp thấy mênh mông”
(Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm)


Qua hai câu thơ trên, Hương Hải quả có cái nhìn muốn kết hợp hai tôn giáo lúc bấy giờ, đàng nào cũng có cái mênh mông bát ngát của nó, chúng ta chỉ là kẻ đứng ngắm sự rộng lớn nầy, không thể dùng con mắt mà đo lường được. Trong những tháng ngày an lành tu học, không còn bị hạch hỏi lôi thôi nữa ngài cảm tác bài thơ với sự biết ơn nơi đang ở:


“Sư tử quật trung sư tử
Chiên đàn lâm lý chiên đàn
Nhất thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn sự vô ưu nhật nguyệt tường”
Dịch:
Sư tử nằm hang sư tử
Cây trầm mọc trong rừng trầm
Một thân nhờ có càn khôn rộng
Ngày dài tháng rộng đã an tâm.


Đi đâu dù có được tiếp đãi ân cần, quyền cao trọng vọng, thì thỉnh thoảng vẫn nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ làng xóm, nơi đã chôn nhau cắt rún, lớn lên bên khóm trúc, hàng cau, làm sao quên được, sợ rằng nhiều kẻ không hiểu được cái khổ tâm khi phải ra đi, ngài làm mấy câu thơ để chia xẻ với nỗi cô quạnh tha phương của mình:


Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức
Thuận hành nghịch hành thiên mạc trắc
Mãn sơn nhân xướng Chá cô từ * (* điệu hát)
Thác nhận Hồ gia thập bát phách.
Dịch:
“Là thị là phi ai có biết
Rằng xuôi rằng ngược lẽ trời hay
Chá cô khúc ấy ca đầy núi
Tưởng nhạc người Hồ mười tám giây.”


Vào năm 1700 thiền sư Hương Hải rời chùa Trấn Thủ Sơn Nam, về chùa Nguyệt Đường tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nơi đây đông đảo người về quy y học hỏi. Vua Lê Dụ Tôn có lần đón ngài về kinh thuyết pháp và lập đàn cầu tự, vua rất tôn kính quý mến, thường hỏi ngài về phương pháp tu hành.
Năm 1714, chúa Trịnh Căn có vào chùa Nguyệt Đường tham bái, cảm xúc chúa ngự viết bài thơ:


Danh Nam trừng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhà có công vô lượng
Thế thuận vây lên thế hữu tình
Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.


Năm Ất Mùi 1715, sáng ngày 13 tháng 5, sau khi tắm xong thiền sư khoác y, đeo tràng hạt, đội mũ trang nghiêm ngồi kiết già tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Đệ tử đắc pháp của ngài rất đông, có vị được phong chức Tăng Thống.

II. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA HƯƠNG HẢI

Tìm đến tư tưởng Hương Hải, một trong những cây đuốc sáng rực trong Thiền Tông ở thế kỷ 17, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu sắc qua lời văn trong sáng, dễ hiểu, Hương Hải không thích lý luận nhiều, nên văn thơ của ngài hầu hết đều mang cốt cách một người dản dị, muốn mọi người ai cũng có thể đọc hiểu và nương theo đó để tu hành, ngài rất ít dùng đến thuật ngữ bí ẩn của Thiền, phần nhiều làm cho kẻ thưởng thức cảm thấy bớt căng thẳngđi vào tư tưởng một cách từ từ, tiệm ngộ chứ không đốn ngộ như những Thiền Sưchúng ta hay bắt gặp. Dĩ nhiên Thiền vẫn có những công năng như nhau trong việc nhắm đến trực giác, dù bằng phương cách nào đều do sự xử dụng của từng thiền sư, có ai dám bảo Thiền của Thần Tú thua Huệ Năng? Bởi vì Thần TúThần Tú, Huệ NăngHuệ Năng, có khác nhau tùy vào lối dụng công của từng vị. Tư tưởng Thiền của Hương Hải phản ảnh được sự tương quan giữa chúng sanh và Phật, mê với ngộ v.v… Bằng vào những liên hệ nầy Hương Hải hé mở cho chúng ta thấy đâu là điều nên thực hiện để đạt được giải thoát, và phương pháp để thành tựu. Trước hết theo Hương Hải phải hoán chuyển cái Tâm vọng của mỗi người để đạt đến Chơn Tâmbí quyết để thành tựu trong việc Giác Ngộ là “Vô Tâm” theo Hương Hải. Tương quan giữa Phật và chúng sanh Thiền Sư diễn tả như sau: “Khi mặt trời lên chiếu sáng thiên hạ, thì hư không, không vì đó mà sáng, khi mặt trời lặn bóng tối bao trùm khắp thiên hạ thì hư không không vì đó mà tối. Sự sáng và sự tối tranh cướp lẫn nhau, còn hư không vẫn lặng lẽ tự nó là nó. Tâm Phậtchúng sanh cũng vậy. Nếu quan niệm Phật là thanh tịnh quang minh, quan niệm chúng sanhdơ bẩn mờ tối, thì có tu qua nhiều kiếp như số cát sông Hằng cũng không đạt được giác ngộ.” Sự sáng và tối hoàn toàn tùy thuộc vào không gian, thời gian, nhưng nếu theo Chơn Tâm tròn đầy thì không phải lúc không có mặt trời là tối; vì lẽ cái biết là tối đó do đâu mà có, nếu cái tối có mà không có cái biết được tối không? Như vậy tối và sáng duyên nhau nhưng cái biết thường còn không mất, nếu có mất thì sao khi sáng lại biết là sáng? Đức Phật đã từng hiển lộ điều này trong kinh Thủ Lăng Nghiêm khi chỉ chơn tâm cho ngài A Nan. Sự hiện diện của Đức Phật như chúng ta đã biết nhằm một mục đích duy nhất mở bày cho chúng sanh đi vào tri kiến giác ngộ. Trước đó chúng ta không hề nhận ra được chân lý này, nhưng trong mỗi con người đều có khả năng thành Phật tiềm ẩn, vì trần lao phiền não che khuất nên không vén mở được cái bổn lai diện mục của mình. Đức Phật có thể làm được điều này mà tôi, ngoài ra ngài không có quyền năng đưa một ai đi đến giải thoát mà chính kẻ ấy không tự mình đi qua quá trình giác ngộ, Phật cũng từ con người bình thường như những chúng sanh khác, ngài hơn chúng ta là biết xử dụng trí tuệ để từ đó đi đến giải thoát. Nếu tất cả chúng ta đều xử dụng đến trí tuệ của mình thì chắc hẳn sẽ được giải thoát như ngài. Huyền Giác trong chứng đạo ca cũng đã cho chúng ta một quan niệm về điều nầy.


“Thoắc giác rồi Như Lai thiền
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên
Trong mộng lao xao bày sáu nẽo
Tỉnh ra bằn bặt chẳng ba nghìn”

Mê, Ngộ theo Hương Hải cũng vì đối đãi với nhau mà có, duyên với nhau mà lập, nên không thật, nếu tìm cầu chân mà bỏ vọng ắt lạc vào ngàn trùng, vọng che khuất nên Ngộ không mở bày, một khi chân hiển lộ thì vọng tự nó tiêu diệt vì có vọng nên mới có chân. Ngài nói: “Mê và Ngộ dựa vào nhau, Chân và Vọng vì đối đãi với nhau mà có. Nếu tìm Chân bỏ Vọng thì không khác gì người sợ bóng theo hình mà cứ chạy ở ngoài nắng. Nếu biết rõ vọng là chân thì cũng như đi vào nơi rợp tự khắc bóng biến mất.”


Mê và Ngộ cũng tựa như kẻ bộ hành đi trong đêm tối vốn sợ ma, dù không biết ma là gì cả, nhưng khi đi có cảm tưởng đằng sau có ai đi theo, hễ bước nhanh thì nghe tiếng đi nhanh, đi chậm thì nghe tiếng đi cũng chậm, đến khi quýnh lên vụt chạy, nghe tiếng ấy chạy theo, cứ như thế mà cắm đầu cắm cổ chạy mãi đến nơi có đèn sáng, cố lấy bình tĩnh quay đầu nhìn lại thì không trông thấy ai cả. Mê và Ngộ cũng tương tự như thế khi chưa tìm ra được lý lẽ của nó thì thấy có hai thái cực, nhưng thật ra hai là một, mà một là hai, nếu ngộ thì không còn thấy có hai mà tự nó tiêu hủy, hỗ trợ lẫn nhau, còn nếu mê thì muôn kiếp vẫn phải trôi lăn trong vòng sống chết, mịt mù tăm tối.


Ngoài ra Hương Hải còn cho chúng ta thấy rất nhiều về khía cạnh của những tương quan như: thiện ác, tâm cảnh, nhằm cho ta có một ít khái niệm thực tế trong ấy. Tất cả những điều này không ngoài mục đích tạo lại sự quân bình mà cái tâm của ta vốn đã dong ruổi quá nhiều theo trần thế, hay bóp méo sự thật cũng như tạo nên những xung đột một cách phi lý ở nội tại, chấp nhầm những gì mà ta có thể quan niệm đo lường, sờ mó được, hầu như ta duyên theo đó để khởi nên những phân biệt. Bản chất Giác Ngộ là phải vượt ra ngoài những đối đãi, cần phải trở về khám phá trong tận cùng tâm thức, đừng dong ruổi theo ngoại vật, phong tỏa lục căn bằng cách tiếp xúc với trần cảnh nhưng đừng bao giờ bị đắm nhiễm trong ấy.


“Thấy theo sắc mà hết
Nghe theo tiếng mà bay
Trở về là thượng sách
Hôm qua và sáng nay.”
(Nhãn quan tùy sắc tận
Nhĩ thức trục tranh tiêu
Hoàn nguyên đương biệt chỉ
Tạc nhật dữ kim tiêu.)


Ở khía cạnh khác về Tâm và Cảnh, hầu hết chúng ta cứ luôn nắm bắt theo trần cảnh nên bỏ mất cái chân tâm thường hằng của mình, vì trần cảnh vốn sinh diệt không thật, nếu theo đó chỉ làm cho ta đau khổ. Điều quan trọng, buông bỏ thế giới bên ngoài để soi sáng chiếu rọi vào Chơn Tâm, nhưng không có nghĩa bỏ cảnh để về tâm, bởi lẽ cảnh đều do tâm mà hiện, bỏ cảnh tìm tâm là lắp thêm một cái đầu trên một cái đầu, cứ việc làm hiển lộ cái Chân Tâm thì tự nhiên cảnh cũng trở thành chân, đừng có quan niệm là tách rời nó ra hai thể, thì cứ luống công chạy ngược xuôi để tìm chân, mà thực ra ngay chân có vọng, trong vọng có chân. Để tóm tắt tư tưởng của Hương Hải trong những tương quan ở trên điều cần nhất là không trốn chạy hiện hữu. Thiền Sư viết:


“Thân vọng tới gương soi bóng
Bóng với thân vọng giống nhau
Chỉ muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng thân vốn có thực đâu ?
Thân kia với bóng đồng nhất
Một không một có được nào ?
Kẻ muốn giữ một bỏ một
Cách xa sự thật biết bao !
Người nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ mãi sanh tử phiền não
Phiền não vì tâm mà có
Vô tâm phiền não ở đâu ?
Hễ đừng phân biệt chấp tướng
Đương nhiên chứng được đạo mầu”


Theo Hương Hải, một khi tâm an tịnh đó là Thiền chứ không cần phải tìm cầu đâu xa “Trong đời sống hàng ngày không gì không phải đạo, hễ an tâm thì đó là Thiền”. (Nhật dụng vô phi đạo, Tâm an tức nhị Thiền)

III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA HƯƠNG HẢI

Cuộc đời của Hương Hải đã để lại sự nghiệp trước tác, chú giải, phiên dịch khá nhiều hơn 30 tác phẩm, hầu hết những tác phẩm nầy chưa tìm lại được.
- Giải Pháp Hoa Kinh
- Giải Kim Cương kinh lý nghĩa
- Giải Sa Di giới luật
- Giải Phật Tổ tam kinh
- Giải A Di Đà kinh
- Giải Vô Lượng Thọ kinh
- Giải Địa Tạng kinh
- Giải Tâm kinh đại điển
- Giải tâm kinh ngủ chỉ
- Giải Chân Tâm trực thuyết
- Giải Pháp Bảo Đàn Kinh
- Quán Vô Lượng thọ kinh quốc ngữ
- Phổ khuyến tu hành
- Bảng điều nhất thiên
- Cơ duyên vấn đáp tinh giải
- Sự lý dung thông, thơ.
Để có ý niệm về thơ nôm của ngài, chúng ta đọc một đoạn trong Sự Lý Dung Thông:


“Những thánh hiền nguồn nhân biển quả
Xưa tu hành trí đã rộng cao
Trong nơi ba cõi ra vào
Mười phương tri thức ai vào khá nghi
Nguyện in thanh hải tịnh trì
Thềm lan bóng trúc hề chi viên ngần
Phên dày nước chảy khôn ngăn
Mây mỏi ngoài trần há động non cao
Sự nài bao hang sâu tiếng dội
Đèn hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Đường lên diệu lộ cao thăng
Giải hành hai chữ há rằng làm sai
Tạng Như Lai làu làu thanh tịnh
Nắm hương lòng hằng kính hằng tin
Đòi phen giải thoát tự nhiên
Dụng chân như trí, gương thiền ráng thâu
Lộc dương theo dấu hay đâu
Nê ngưu vào biển rộng sâu khôn tìm
Bao nhiêu chim bay về lạc tổ
Mây che ngoài ngỡ ổ hang xưa
……………
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi tri túc thời nên
Năm mươi năm phẩm dưới trên
Luyện Tam muội hỏa chí bền kim cương
Nhân thiên mấy đấng phong quang
Tam hiền thập thánh một đàng cao siêu
Cày mây cuốc nguyệt đã nhiều
Chứng vô thượng sĩ danh tiêu mới nồng.”


Ngoài ra còn có những bài thơ do thầy Thích Trí Hiếu sưu tầm và được đăng tải trong tập san Đuốc Tuệ (số 7 ra ngày 21.1.1936) hai bài thơ của Hương Hải, một bài vịnh cảnh xuân và bài khác tặng quan Trấn Thủ Sơn Tây. Hai bài nầy không thấy chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.


1. “Tam dương khai thái chuyển hồng quân
Cửu thập thiều quang sắc sắc tan
Dạ tỉnh thanh phong chiêu ngọc lộ
Nhật tình thụy khí ái từ vân
Sơn cao lâm thụ hy kỳ mỹ
Bình địa niên hoa phức úc huân
Xứ xứ nghên trường ca vạn thọ
Nhân nhân hòa mục vĩnh thiên xuân”
Và bài thứ 2 đó là:


“Hướng minh quy mệnh sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ đường
Tài dụng kinh luân kim đức hạnh
Âm thi lễ nghĩa quý văn chương
Ngoại trừ đạo tặc bình dân ái
Nội dường chinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn Nam Giao danh tứ hải
Khuông phù quốc chính lạc quần phương.”
Trong khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài thơ nầy:


1. (Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
Song triêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền trung cổ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.)


Dịch:
“Dạo qua thành thị nghĩ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
Trăng dòm cửa mở giường kê sát
Gió thổi thông cười khánh ngủ yên
Lâu đài rực rỡ màu đẹp đẽ
Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền
Ba giáo nguyên lai cùng một thể
Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.”


2. (Thượng sĩ thường du bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê Trình thị minh cao thức
Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm
Vạn tượng sum la cao di hiển
Nhất biểu tạo hóa mật nan tầm
Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.)


Dịch:
“Thượng sĩ thường chơi cảnh tùng lâm
Phong trần không vướng hội thiền tâm
Liêm khê Trình Hiệu người thông suốt
Tô Tử Hàn Văn hiểu diệu âm
Muôn ngàn cảnh vật bày dễ thấy
Tạo hóa một bầu khó truy tầm
Nguồn nho thăm thẳm lên càng rộng
Bể thích trùng trùng xuống lại thâm.”


Qua những ý niệm về thơ của Hương Hải đã biểu lộ phong cách một con người giải thoát. Đồng thời thơ bằng chữ nôm của Hương Hải đã đóng góp thật nhiều cho nền Văn Học nước nhà, nhất là lãnh vực chữ nôm ở thế kỷ thứ 17.

IV. NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA HƯƠNG HẢI

Những bài thơ hay nhất của Hương Hải là lúc vua Lê Dụ Tôn đến tham vấn. Hương Hải không thuyết pháp dài dòng mà chỉ đọc mấy bài thơ, chứa đựng cả tư tưởng thâm sâu mà ngài đã khai quật được từ nội tâm của mình. Hiển lộ nên sự thâm đắc chứng nghiệm tâm linh mà ngài đã phải tốn công để đạt được.
Vua Lê Dụ Tôn hỏi sư rằng: “Trẫm nghe Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ”
Sư tâu: “Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ nầy:


Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.


Dịch:
“Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.”


Có lẽ đây là một trong những phương phápHương Hải đã nương vào đó để tựu thành giác ngộ. Kiểm soát nội tâm trong từng phút giây là then chốt quan trọng để có thể mở được cánh cửa tâm linh. Dòng tâm thức vốn phức tạploạn động, hưng khởi theo bản năng dính mắc, nô lệ vào trần cảnh. Khi nhãn quan bắt gặp đối tượng, tâm sẽ theo đó khởi lên những vọng động sai biệt. Chính vì duyên theo trần cảnh nên phải trôi lăn trong vòng sống chết vô tận. Nếu xoay tất cả những công năng ở bên ngoài, trở lại quán chiếu vào tận cùng thể tánh, quật khai nguyên lý giác ngộ trong chính mình, thì may ra thành tựu được sự nghiệp chứng đắc.


Kiểm soát những vọng niệm bằng cách, tỉnh thức trong từng niệm hưng khởi và biết một cách minh mẫn niệm ấy có phù hợp trong hành trình đạt được thức giác hay không? Ý thức một cách thường nghiệm, biết được ngõ ngách xuất hiện của nó, hướng nó đi vào nẽo có thể bùng lên ánh sáng thực ngộ. Đừng bao giờ khởi lên ý niệm tiêu diệt hay ngăn chận, như thế gây nên trạng thái nội chiến, cần nhất là phải xoay chiều, hoán chuyển từ mê sang giác ngộ, hoán chuyển từ vọng sang tịnh, và trong vọng có tịnh và cũng có thể vọng chính là tịnh, hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ chứng nghiệm, thẩm định một cách siêu thể.


Đừng bao giờ nương vào những quan niệm do trí thức xúi dục, dù đó là điều nghe có vẻ phù hợp với trạng huống, nhưng nếu không khéo quan sát cặn kẽ dễ bị lầm lẫn, bởi vì tri thức được hưng khởi còn nằm trong phong tỏa của vô minh. Như giấc mộng huy hoàng đâu đó còn lại nuối tiếc rỗng không, đừng tìm cầu bên ngoài dù đó là ý niệm thiện, nhưng ngoài tâm vốn không có Phật, Phật được hình thành từ trong những khám phá tra vấn ở nội tại.


Bồ Tát Quan Thế Âm thành tựu được giải thoát, cũng nhờ xoay chuyển cái nghe ở bên ngoài, để nghe chính sự hưng động nơi tự tâm, nhờ quán sát nội tâm, soi thấu ngũ uẩnchứng nhập giải thoát. Chưa một ai có thể đạt được giác ngộ mà không đi qua chặng đường quật khởi nội tâm, mọi hỗ trợ nơi trần cảnh không hẳn là yếu tố quan trọng, nếu không lấy cái tâm làm gốc. Hẳn chắc một ngày nào đó bộ mặt nghìn đời xuất hiện, khi đã đi hết con đường khám phá tận cùng ở nội tâm.


Vua Lê Dụ Tôn lại hỏi; “Thế nào là ý của Phật.”
Sư liền đáp:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”


Điều đắc ý nhất của Hương Hải là “vô tâm” – không có nghĩa là thờ ơ, không chú ý. Nhưng ngược lại đây có những công năng siêu việt hơn, không để bất cứ những tư duy, tương quan nào có thể dính mắc, không bị những sai sử của sai biệt, không khởi lên những khuynh hướng đối lập, nhị nguyên. Như một sự rỗng suốt thanh thoát ở trong tâm, chưa một lần khởi lên những phân biệt, tâm, cảnh, chủ thể, khách thể. Đến đi trong cuộc đời, tiếp xúc với trần thế, nhưng không bao giờ đắm nhiễm, ung dung tự tại, làm tất cả nhưng tất cả không làm hề hấn được cái tâm không nầy.


Hình ảnh của con nhạn bay ngang qua dòng nước là một hình ảnh đẹp và nên thơ nhất, nó chứa đựng cả một tư duy nhưng nếu, không nằm ở cung bậc tương ứng thì khó mà bắt gặp cái tuyệt diệu của nó. Nếu không một lần nhìn thật lâu vào dòng nước, những thăm hỏi tra vấn với sự lạnh lùng, thờ ơ, giá buốt và mặc nhiên chấp nhận ở dòng nước, thì khó mà tìm ra được đáp số đúng mức cho dòng tâm. Sự lạnh lùng dung chứa của hư không để cho nhạn tung bay, nhưng có bao giờ tìm được hình hài dấu vết trong bầu trời mênh mông ấy. Dòng nước đã từng yên lặng trong những tháng năm đằng đẵng, đã biết bao nhiêu sự đi qua của muôn loài, khi thấp thoáng, khi in đậm nét, nhưng chỉ đi qua chứ nước không một lần lưu lại bóng.


Đó là bài thơ nổi tiếng độc đáo nhất của ngài, ảnh hưởng của nó vô cùng mãnh liệt, một khi kẻ thưởng thức bắt đúng được cung nhịp, bao nhiêu mơ ước bỗng thành mây khói, chỉ còn lại một hình hài không được dệt nên khung ảnh, bàng bạc mênh mang trong không gian mà không hề lưu lại dấu vết. Nhạn bay thật nhiều trên nền trời xanh biếc, đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời chúng ta vẫn chưa hề bắt gặp bóng dáng ấy in trên nền trong xanh. Nếu truy tìm một cách kỹ lưỡng, chỉ thấy đâu đó những áng mây lững lờ vốn đã từng in bóng của cuộc đời trong ấy, nhưng không một lần nào mây cố tình nhận bóng, mà hình như nếu có sự tương phản nào đó, thì do con người truy tìm mà vọng tưởng hưng khởi nên, cho đó là thấy một cách thấp thoáng, mờ ảo, tưởng tượng. Không vì những quan niệm của con ngườiáng mây ấy phải lưu lại dấu, mây là mây và nó cứ lững lờ bay nhẹ theo làn gió, chứ không ai có thể bắt nó phải in hình hài vào được, vì nó là nó kia mà. Nếu có, thì cơn gió vô tình cùng với mây trôi về phương trời vô định, mà gió cũng chỉ làm phận sự đưa đường cho mây đi mà thôi, nhưng mây không chịu đi thì gió cũng đành chịu, mây cũng đã từng phủ trên đỉnh núi chơ vơ mà không cần phải đi đâu cả.


Dòng nước cũng đã lắm phen rơi vào cảnh tương tợ như thế, đã bao nhiêu biến thiên của cuộc đời, và cũng đã bao lần bóng nhạn bay qua sóng nước, nhưng rồi chìm khuất vào cõi vô cùng chẳng lưu lại dấu vết gì.


Nếu Tâm con người trong và yên lặng như mặt nước hồ thu, đón nhận tất cả không khởi lên lòng thương ghét, vương vấn. Mọi vật đi qua không lưu lại dấu vết, đó không phải là điều giải thoát hay sao ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9938)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9917)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20496)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10328)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9938)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10326)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9919)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34389)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9612)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8706)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9273)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11077)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8513)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9785)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9168)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20409)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19178)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8714)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8846)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12082)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9583)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22985)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8983)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9250)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9956)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9875)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10584)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10910)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12457)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9319)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9168)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9296)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10443)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21977)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22211)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16593)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9516)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10147)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8375)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8277)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9433)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8827)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8613)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12258)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9121)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9596)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8599)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9433)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8600)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8340)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8443)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10164)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23603)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9558)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9366)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8987)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8326)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8505)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7860)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7956)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8773)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8902)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10044)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8634)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8607)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30380)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30036)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24137)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9249)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9614)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9496)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9487)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7839)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9051)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28173)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23666)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12223)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8861)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14092)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9643)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9323)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9628)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30861)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27097)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32674)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33979)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27728)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10562)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12457)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58630)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10638)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9378)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9534)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13929)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14194)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10754)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28107)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23258)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant