Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Thiền Và Thi Ca Trong Thi Kệ Mãn Giác Thiền Sư

31 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 7944)
5. Thiền Và Thi Ca Trong Thi Kệ Mãn Giác Thiền Sư
thiensututuonggiacngo


 THIỀN VÀ THI CA TRONG THI KỆ MÃN GIÁC THIỀN SƯ


1. Con ngườithi ca biên giới của mộng và thực
2. Thiền trong thi ca
3. Sự dung hoà giữa Thiền và Thi Ca trong Mãn Giác
4. Tính chất nghệ sỹ trong con người Mãn Giác
5. Tại sao Mãn Giác để lại cho đời bài thơ



"Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai". 


Mãn Giác, một thiền sư mang đầy nghệ sỹ tính đã để lại trần gian đóa mai vụt nở trước sân mà ngàn năm vang vọng trong vô cùng vẫn không hề tan rã, ở đó hương sắc quyện vào hư không tô thắm khung trời nghệ sỹ, trong ấy còn lại những vần thơ mang mang bao phủ đất trời.
Cả cuộc sống được dựng nên từ lời thơ, thế giới núp mình trong đóa mai chớm nụ và tính chất nghệ sỹ đượm nhuần trong hương sắc phảng phất đi vào cõi tĩnh mịch trong vô cùng. Chỉ có lúc đêm khuya bặt hết tiếng côn trùng, mọi vật chìm lặng trong màn đen cô tịch mờ ảo, chỉ còn đóa mai hé nụ điểm tô cho đêm trường, những rung cảm bỗng chốc đi vào từng thớ thịt làm ấm lại sinh động cho tâm thức, cuối cùng những tinh hoa của đất trời từ từ tuôn chảy dệt nên những vần thơ tiếng nói trong thời không.
Bóng dáng và dấu vết của chặng đường đó bật tung ra khỏi ngưỡng cửa quyền năng, còn lại những biến hóa phù thủy quyện vào đôi tay tung ra những vần thi kệ, mà cho đến bây giờ cành mai của năm xưa bỗng hiện hình làm tươi mát cho đất trời cho cuộc sống hôm nay.


1. Con ngườithi ca, biên giới của mộng và thực:


Sự hiện hữu của con người được kể như vô nghĩa nếu không nhờ thi ca làm đẹp cuộc đời. Con người vốn là dòng sinh mệnh trôi lăn giữa những phong ba bão tố, thỉnh thoảng dừng lại với những biến động trá hình cuả hạnh phúc, mà đúng ra là cửa ngõ của những nghịch cảnh khác. Hạnh phúcchúng ta đang trực diện nếu có, chỉ là bóng dáng giữa mộng và thực, ranh giới của nó tựa như đường tơ kẽ tóc, như nhát kiếm chém phăng vào dòng nước đang chảy, biên giới nầy mong manh như chính thân phận con người.


Thực cũng chỉ là mộng được dệt nên từ có của thời gian, những khởi động đi qua nhanh như tia chớp, tạo cho ta tưởng chừng đó là hiện thực, sự thấp thoáng mờ ảo đó, biến thế nhân trở thành đối tượng chỉ sống với cảm quan phong phú, được dệt nên và hình thành từ cuộc sống vốn tràn ngập phi thực. Ý tưởng nhận thức được hưng khởi theo chiều hướng sai sử tác động, không nằm nơi nguyên ủy của lý lẽ vượt thoát.


Con người sống với niềm kiêu hãnh, ôm giữ những gì có được trong đôi tay, yên mình theo nghĩa thực hữu, quan cảm nếu được xuất hiện trở thành định lý bất di bất dịch, vì thế chặng đường đập vỡ thành trì cứng nhắc của tưởng quan lắm lúc trở nên bất lực.


Biên giới được xem là ngăn cách không tạo cho con người cảm thông với sự biết và không biết, giữa say với tỉnh, giữa mộng với thực. Khi nào ranh giới này bị san bằng tiêu hủy thì mộng và thực ấy còn lại một khối duy nhất, vượt ra ngoài những biên kiến, say bới tỉnh như cơn lốc cuốn hút vào hư vô. Có ai tỉnh hoài mà không say? Có ai say hoài mà không tỉnh? Nhưng, nếu tỉnh theo nghĩa tỉnh của thực tại thì điều này cũng chỉ trá hình của say, bởi lẽ hiện thực được dựng nên từ cảm quan, tưởng chừng chứ không phải là một thực tại với những tra vấn khám phá, những đặt lại nếu có, thì thực tại này trở thành phi thực ngay. Nếu trở thành phi thực thì sự có mặt của con người há không phải đang say hay sao?


Biên giới thi ca nằm ngay khoảng đó, tạo cho con người cách thức nhìn sự vật theo những cảm xúc lạ thường, vượt ra khỏi cuộc đời bên cạnh lối nhìn thi vị. Với thi nhân, nếu trăng là trăng thì trăng không còn thơ mộng, huyền ảo nữa và Lý Bạch đâu có tự mình nhảy xuống sông vì chỉ muốn ôm giữ một vầng trăng. Vầng trăng mà họ Lý muốn có được trong đôi tay bé nhỏ của mình chính là vầng trăng của mộng và thực. Vì nếu, họ Lý biết là trăng chiếu rọi bóng ở dưới nước, thì đâu tự mình tìm lấy cái chết oan uổng. Còn nếu bảo rằng trăng là thực thì ông cũng thừa hiểu rằng cỏi thực ấy chỉ có ở trên nền trời trong xanh chứ đâu nằm ở dưới nước, nhưng họ Lý đã thoát ra ngoài tương quan, nên tìm đến vầng trăng mà không cần biết trăng ấy từ cõi nào. Chừng đó cũng đủ rồi, tra vấn nhiều thì trăng không còn thơ mộng nữa.
Nhưng không có nhĩa nhìn trăng và thấy đó là đơn thuần thì cuộc sống và thi nhân hóa ra vô vị sao? Ngôn ngữ thi ca trở thành một thứ quyền năng biến hóa không lường. Có như thế Hàn Mặc Tử mới bắt "trăng nằm sóng sõi trên cành liễu" hay Xuân Diệu mới bắt "gió hôn trên má". Không phải thi nhân có quyền năng, nhưng sự sáng tạo để dệt nên thi ca trở thành quyền biến và đưa tri giác của thi nhân thoát ra ngoài những sai biệt mà một con người bình thường không thể tìm được. Thi nhân là kẻ cố gắng khám phá những gì đang bị che dấu, khuất lấp trong thực tại. Sự cố gắng này không có nghĩa phải nặn óc để có những vần thơ, mà điều này là cách nhìn mới lạ vốn đã được un đúc sẵn trong thi nhân, có cơ hội nhìn ngắm đối tượng thì cảm xúc trào dâng, vui buồn đối với thi nhân cũng chỉ là sự pha trộn giữa mộng và thực, khám phá truy tìm những mới lạ không có nghĩa để từ đó chạy trốn cuộc đời mà phải sống thực và gần gủi với đời. Trong niềm hoan lạc hay trong khổ đau ngôn ngữ thi ca đều có mặt, diễn tả những trạng huống nầy thơ mộng ngay lúc khổ đau đến độ dư thừa:


"Một chiếc cùm lim chân có Đế"
Ba vòng xích sắt bước thì Vương"
(Cao Bá Quát)


Điều quan trọng là phải hoán chuyển những thực trạng đó trở thành ngôn ngữ mà đối tượng thưởng thức tìm thấy giá trị siêu việt. Thi nhân không cần phải áp dụng đến nghệ thuật, vì thi nhân vốn đã là một siêu nghệ thuật rồi, nếu sự chuyển hóa phải có nghệ thuật thì sự trào dâng để có thi ca trở nên đè nén trong nghệ thuật. Thơ được xuất hiện khi đi qua quá trình cảm nhận và rung cảm, nếu muốn xử dụng nghệ thuật thì phải xử dụng trước khi rung cảm. Một khi rung động xuất hiện, thi nhân không nỡ chèn ép dù đó là nghệ thuật để thi vị lời thơ. Nhưng nếu thơ được xuất hiện trong ngăn ngại thì hồn thơ trở nên tức tưởi và ngôn ngữ thi ca không còn dệt từ những cảm quan tuyệt diệu nữa. Nó trở thành công lệ của nghệ thuật.


2. Thiền trong thi ca:


Thiền là thực thể của những sinh động, biến hóa liên tục, gây chấn động tâm thức để từ đó đạt được giác ngộ. Thiền hướng đến trực ngộ, chứng nghiệm thực trạng trong những sinh khởi bình thường, không qua lăng kính phân biệt mà phải nhìn thẳng bằng định lực, không đắm chìm trong những lý luận huyền ảo, quán chiếu mọi tương quan hiện tượng bằng đôi mắt cảm thông không ngần mé, nhưng hẳn chắc không gì ngăn trở nổi.


Trong hầu hết những công án của Thiền đều ẩn mang cốt cách văn chương thi ca, như một câu nói lơ lửng, một bài thơ không hiểu nổi. Nhưng, chính cái lửng lơ ấy tạo cho kẻ đối diện hoang mang, ray rứt, bí lối trước những suy luậncuối cùng bỗng nhiên lăn mình trường tới cửa ngõ rỗng không.


Thiền bao phủ len lõi bàng bạc trong thi ca khá nhiều, nhất là thi nhân một khi muốn hiểu cảm thông đối tượng, trước hết phải cảm thông chính mình, và để từ đó bắt nhịp, phơi bày trao gởi lời thơ. Thơ là một cách hiểu, lối sống với sự vật trong mọi hoàn cảnh gợi hứng cho thi nhân, tuy nhiên sự hiểu lắm lúc vẫn còn kẹt vào những so đo phán xét, theo bản năng lôi kéo những hiện vật trở thành sản phẩm đơn thuần lý trí. Chỉ có sự hiểu biết của siêu nhgiệm, vượt thoát ra ngoài biên giới mọi tương quan thường nghiệm, thì mới có thể đạt tới đích của Thiền là tạo năng lực thể nhập vào thi ca, không còn nhị nguyên mà là một. Bởi vì trí huệ hình thành là nhờ phá tan đi chủ thể, khách thể, những lý luận nếu không tiêu hủy sẽ thành ngăn ngại, như thế chặng đường tìm đến sự dung hòa hội nhập biến thành hố thẳm chôn chặt cuộc đời.


Thiền có công năng linh diệu trong việc hướng tri thức khi nhìn muôn vật trở nên siêu thực, nhìn với cách nhìn, lối nhình như thị, không thành kiến mà phải ly khai ra khỏi những đối lập, phải biến sở hữu của riêng mình thành chung của vạn hữu - Thi nhân nếu không khơi dậy con đường cảm xúc, rung động toàn triệt thì thi ca không đạt được tận cùng vi diệu và như vậy lời thơ không trải hương, ươm mật. Thi nhân cũng có thể dệt những rung cảm của mình trên lối về thăng hoa hiện hữu, nhưng cũng có thể biến ray rứt của mình nhuộm đen tối khổ đau thêm cho đời. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào bản năng đang ngự tiềm ở thi nhân.


Chúng ta thử tìm những sắc thái đặc thù trong một vào công án bằng thi ca của Thiền, như Viên Chiếu Thiền Sư có lần đáp:


"Gốc tùng trổi gió âm buồn
Mưa qua lối đó vấy bùn nẻo đi".


Ngài diễn tả thực trạng nhưng, trong ấy có một cái gì nhắn gởi bất động như chính cái yên lặng trổi buồn của cây tùng. Và cũng lần khác ngài đáp khi được hỏi về "Chân"


"Hoa rừng vướng lệ nữ thần
Gió xao cành trúc tiếng đàn Bá Nha"


Có ai hiểu được tiếng đàn Bá Nga ngoài Tử Kỳ? Cái lơ lửng của Thiền như chính cái lơ lửng của thi ca vậy. Nếu nhìn nước với con mắt của khoa học, của lý trí thì nước được cấu tạo bởi H2O nhưng, với nhãn quan thi nhân lại thấy nước là bến đò tiễn biệt, những hẹn hò chờ đợi hoang vắng, cô quạnh trong buồn đau, lững lờ trôi như dòng nước v.v... cách nhìn đó xuyên qua thực thể, chặng đường nầy gần giống với Thiền trong việc tìm những bí ẩn đằng sau mọi tương quan. Nhưng, thi nhân hầu hết từ đó khởi lên những hoài cảm, xót xa, thương tiếc, dĩ nhiên vẫn hơn những đối tượng không tìm thấy được lý lẽ này, vì còn cơ may nhìn lại sư đau thương ấy. Ngược lại, với Thiều truy cứu về hiện tượng bằng những cung cách nầy nhưng, vượt lên trên ở điểm Thiền không phải là thực thể chết cứng lặng thinh, mà rất linh diệu, tươi sáng, nhìn sự vật trôi qua, biến hiện, bằng con mắt thờ ơ, lãnh đạm không hề lo sợ mảy may nào.


Ngoài những điều trông thấy như nước chẳng hạn, nếu sự đơn thuần nước là nước thì bình thường quá, nhưng mặt trái nuớc vẫn là cái gì có thể là điểm nhớ nhung, hy vọng, tùy theo trạng huống mà đối tượng đã gặp. Thiền lột trái bộ mặt ấy và đưa con người nhìn thẳng vào đó, đừng lo sợ vu vơ và đặt tra vấn ngay nếu, mặt trái là sự hẳn nhiên thì tại sao không từ đó để thấy rằng đàng sau những xô bồ, tan rã có một cái gì rất thực, rất thi vị, mà ngôn ngữ không diễn tả được. Đừng run rẩy phải đối diện với hùng lực sẵn có trong mỗi người, dung hòa được điều này thì cuộc sống không còn đau khổ triền miên nữa, mà phải bắt nhịp cảm thông như thi nhân đã thi vị cuộc đời bằng chất liệu lời thơ, phải vượt ra khỏi trói buộc, như những Thiền sư đã từng vượt, thì cuộc đời không còn phù vân mộng ảo nữa, có một cái gì đáng yêu nên thơ trong ấy.


3. Sự dung hòa giữa thiền và thi ca trong Mãn Giác:


Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) đã tổng hợp dung hòa những sắc thái độc đáo của Thiền tác động và hưng khởi cho thi ca. Trong ấy ta tìm được những vần thơ theo hình thái thi kệ một cách bình dị, thường nhật, thanh thoát, nhưng đã chứa những nghĩa mầu thầm kín, vén mở chân trời huyền nhiệm mà thi ca ẩn mình trong đó.


Mãn Giác khơi dậy sự vật hiện hữu trước mắt với lối nhìn đặt nguyên vị trước và sau chính nó đã nằm, không hẳn phải tách rời ra khỏi tư thế. Điều quan trọng từ đó thăng hoa và đưa nó trở nên biểu tượng tối cần để ngắm nhìn. Mãn Giác đặt vấn đề hết sức dung dị, sự tồn tại, diệt vong của nó theo quan điểm con người và thi nhân, cũng như giữa thi nhân với Thiền Sư. Tra vấn của Mãn Giác được xuất hiện đồng lúc với thời điểm ngự trị của thời gian, nhưng điều này đã mở bày khi hình hài, hương sắc chính nó hiện diệntrần thế.


Người nghệ sị thi nhân đến giữa cuộc đời không nhất thiết phải để lại những vần thơ bất hủ, sự có mặt của họ chính là vần thơ tô thắm cho những giá trịcon người ít tìm thấy. Có làm thơ cũng chỉ dệt nên những rung động, và sự nói năng nầy là những tiếng vọng lên, sau đó vụt tắt qua mau, nhưng có ai dám bảo rằng kẻ ấy không gởi gấm cả một tấm lòng cho nhân thế? Hồn thơ khi đã được xuất hiện, nó bàng bạc ăn sâu và thâm nhiễm vào chính ngay đối tượng. Nếu, sự vật được đôi mắt thi nhân ghé qua dù không dệt nên thi ca thì nó vẫn in dấu và tỏa ra những sắc hương hơn những sự vật khác, sự vươn lên cuả nó đã tô thắm, làm đẹp cuộc đời bằng ngữ ngôn im lặng. Sắc vị ấy phảng phất bay chập chờn trong hư không, một lúc nào đó chúng ta thật sự nhìn ngắm giải lục trắng trên nền trời xanh, hay ánh trăng lung linh huyền ảo, màu sắc và yên lặng đó cho chúng ta những rung động mà chính nó đã được un đúc những cảm nhận của thi nhân từ trước.


"Cổ nhân bất kiến kim thời nguyệt
Thời nguyệt năng thường chiếu cổ nhân"


Người xưa không thể trông thấy được vầng trăng hôm nay, nhưng ánh trăng hôm nay trước đó vốn đã chiếu rọi người xưa. Để rồi bây giờ hương sắc người xưa vẫn còn đó, ẩn mình trong thăm thẳm mênh mang. Cổ nhân đã đi qua nhưng ánh trăng còn ở lại để điểm tô và làm đẹp cho con người. Sự ngự trị rung động của thi nhân có mãnh lực phi thường, hoán chuyển sự vật theo cách nhìn và tạo cho con người duyên theo đi vào lối khác tràn ngập màu sắc âm thanh kỳ ảo.


Mãn Giác thiền sư người đã để lại một bài thơ mà ngàn năm trôi qua giá trị vượt ra ngoài tử sinh. Âm vang của nó tựa như tiếng thì thầm được cất lên từ đỉnh cao chất ngất vang vọng xuống trần gian. Làm cho con người sực nhớ đến sự tàn phá hủy diệt của thời gian, nhưng trong đó âm hưởng vẫn tồn tại trong vô cùng, vượt thoát có không.


Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai


Dịch:
Xuân trỗi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười
Trước mặt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Ngô Tất Tố)


Thời gian là mấu chốt cột chặt, được con người lập nên và cũng chính từ đó hủy hoại những hình ảnh không chút tiếc thương. Nhưng với Thiền sư kẻ thoát ra ngoài cõi sống chết thời gian không còn đụng đến, bốn mùa không duyên theo thì lấy gì mà lập. Khi tạo cho đời sự dung hòa, Thiền sư y cứ nơi đó hé mở cho thế nhân đàng sau những chồng chất tàn phá ấy còn lại một cái gì rất là thơ, rất là thực. Hoa tàn rơi rụng để rồi chìm lặng ẩn mình trong hư vô, tạo nên kiếp lang thang trước ngưỡng cửa chờ đợi tiếp nối. Nhưng, đó là sự chuyển mình để sinh thức tồn tạimôi giới khác. Với nhãn quan của Thiền sư nó đã bị chiếu vào tận cùng nguyên thể mà chính nó đã đi qua, đây cũng là phương cách huân trưởng cho sự vươn lên một lối và cách tồn tại khác. Sự hiển lộ nầy vẫn trá hình len lõi chứ không hẳn kết thúc một đời. Hoa tan biến theo bản năng thông thường được dựng nên theo những nguyên lý thành, trụ, hoại, diệt. Nhưng đêm qua sân trước một cành mai nở rộ, mãi mãi tồn tại trong vô cùng, không ai có thể tàn hủy mà chính nó đã hiện hữu trong vượt thoát. Cành mai Mãn Giác thi sỹ trông thấy, không được dựng lên từ thời gian, nó đã xuất hiện tồn tại ngay trong mọi sinh diệt của cuộc đời. Bóng dáng của nó không nằm ở đâu trong hay ngoài nhưng, tất cả chính là sự có mặt phi thường của nó.


4. Tính chất nghệ sĩ trong con người Mãn Giác:


Mãn Giác được mệnh xưng là con người nghệ sỹ, nhưng vượt lên trên tất cả những gì được gọi là nghệ sỹ. Nghệ sỹ ở đây được hiểu theo nghĩa những rung động, những cảm hứng vụt khởi, để rồi còn chỉ lại lời thơ, một chút gì đẹp thấp thoáng ẩn hiện trong vô cùng. Và nghệ sỹ ở đây theo nghĩa lãng quên, làm tất cả nhưng không hề nhớ mình đã làm cái gì cũng như không có cái gì để làm cả, không một vật nào có thể trói buộc ngăn ngại được. Nếu có nhớ thì sự nhớ ấy chỉ là cách để quên và đôi khi sự nhớ nầy trở thành vô niệm trong đó. Vượt lên trên những phê phán ngộ nhận, đạp tung những gì được gọi là định thước. Những thứ ấy không cần thiết và không làm trở ngại nhất là con người nghệ sỹ giải thoát.


Mãn Giác đã đẩy lui thời gian ra khỏi ngưỡng cửa chờ mong, phóng mình tới đích phi thời gian. Đêm trước sân cười một nhánh mai đã chấn động cả đất trời, như tiếnng vang đinh tai nhức óc làm con người chơi vơi giữa khoảng tử sinh.


Con người đo lường cuộc sống và sự sống bằng thời gian, chờ đợi để được trả lời những nghi vấn, thực ra nó hình thành cũng do chúng ta muốn kiểm chứng đo lường, để rồi sau đó chính nó gây nên những tác động, làm con người trở nên lệ thuộcđau khổ khi bị đào thải, tàn phá, như Xuân Diệu chẳng hạn, xuân vừa đến bỗng sợ xuân mất. Dù rằng Xuân Diệu đã thấy được sự vô thường trong đó.


"Xuân đang đến nghĩa là Xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già
Mà Xuân hết thì đời tôi cũng mất!"


Trái với Mãn Giác bỏ đi thời gian, quên đi mọi vật, chỉ còn cành mai đang phơi sắc tồn tại mãi nơi tâm thức, không còn gì có thể chi phối được nữa. Bản thể khi đã thấu rõ, đâu còn băn khoăn lo lắng, thương đau, ngược lại có thái độ bình tĩnh, tự tại, an nhiên trước những đổi thay biến hiện. Con người nếu đạt được điều này có thể vẫy tay chào tạm biệt thời gian không một luyến tiếc như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu với mấy vần thơ:


"Người đời ai cảm? Ta không biết
Ta cảm thương ai viết mấy lời
Thôi th́: Cùng thu tạm biệt
Thu hăy tạm lui
Chỉ để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai?


Tính chất nghệ sỹ ấy nếu được khơi mở đúng lúc thì cuộc đời là một cuộc thơ, thăng hoa trên lối về, làm nở những đóa hoa trong vô cùnghình ảnh của nó tô thắm khung trời mơ. Mãn Giác đã ý thức một cách thâm thiết trọn vẹn về con người, những tương quan hiện hữu nếu không được buông bỏ ra khỏi cuộc đời thì trở thành gánh nặng cho mình. Chỉ có tính chất nghệ sỹ mới dám đạp tung ra khỏi đôi vai và tâm tư chính mình. Nếu, áp dụng Thiền trong sự pha trộn thì nghệ sỹ này rong chơi dạo khắp nẻo luân hồi hỗn độn mà không bị hề hấn chùng bước. Đi vào cuộc đời tựa như đến khu vườn với trăm ngàn hương thơm cỏ lạ đang chờ đón. Nếu trong ấy có những đóa hoa nào tàn rơi rụng thì với nghệ sỹ tính không khởi lên mối thương đau, vì đó là cách biến dạng để đến môi sinh khác. Và nếu có thương đau thì sự thương đau ấy chỉ là rung động để từ đó dệt nên lời thơ, chắc hẳn sau đó bỗng như gió thoảng mây bay, còn lại chút gì nghệ sỹ truyền trao cho nhân thế. Đôi lúc thi nhân không cần đến sự thưởng thức của kẻ khác, bởi lẽ mấy ai rung động trọn vẹn như thi nhân đã từng rung động, và nếu có, chắc gì hiểu được ý thơ. Với nghệ sỹ thơ nếu được trào dâng thì điều ấy có nghĩa là thông lệ, không nhất thiết để người thưởng ngoạn mà không bắt đúng nhịp.


Một bài thơ được kể như hay nhất là bài thơ không bao giờ được viết nên lời.


5. Tại sao Mãn Giác để lại cho đời bài thơ:


Đối tượng của thi ca là sự vật sinh động trong im lặng nhiều nhất, chính sự vô ngôn nầy tạo cho thi nhân những tiếng nói trở thành tiếng nói dùm cho đối tượng, theo nghĩa diễn tả những rung động bắt nguồn từ đối tượng.


Sự rung động tuyệt diệu chỉ xuất hiện một lần độc nhất trong một cuộc đời, ngoài ra nếu có rung động thì sự rung động ấy được hiểu theo nghĩa rung động để trào dâng nguồn thơ chứ không phải điều đắc ý nhất của thi nhân. Cuộc đời thi sỹ chỉ để lại một bài thơ đắc ý của mình, được hình thành trong một lần tung mình tới đích cảm xúc trào dâng. Truy tìm bài thơ tuyệt tác của thi nhân độc giả phải có những giây phút tiếp nhận những khởi cảm mà thi nhân đã từng rung động, thì mới có thể nhận được những gì thi nhân đã trao gởi trong đó. Và kẻ thưởng ngoạn nếu không đạt tới chiều sâu vi diệu, chính là mức độ thưởng ngoạn của mình bị giới hạn trước những dệt nên của thi nhân. Quả tim con người duy nhất một lần rung động tuyệt hảo, lúc người ấy tiếp nhận một cách trọn vẹn sâu xa, ngoài ra nếu có chỉ là dư hưởng còn lại.
Mãn Giác Thiền Sư thoáng gặp lần vụt mình trên những chấn động một cách toàn triệt, đó là giao điểm thời gian giữa đông và xuân, ở đó tìm về quá khứ của đông sự vật và con người co mình trước những giá buốt, tâm hồn trơ trọi run rẩy như những thân cây phủ tuyết đứng bất động ngoài đường. Ý thức trở nên băng giá khô cứng do thời gian tạo nên. Nhưng với Mãn Giác mùa đông ấy là chất liệu đang được huân trưởng trong ngài. Sự lạnh lùng băng tuyết là thực thể đang dội mạnh vào tâm tư của mình, như dòng nước từ cao điểm đổ xuống tung tóe lên những bông hoa. Mùa đông ấp nụ để chờ cơn gió xuân thổi qua, nụ hoa bổng nhiên bùng lên trong khí trời ấm áp. Nếu khônggiao điểm đông tàn thì sự xuất hiện của mùa Xuân không làm cho cuộc đời trở nên đẹp, sỡ dĩ mùa xuân của hy vọng của muôn hoa, vì nhờ những tàn phá của Đông trước đó làm cho con ngườiước vọng tìm đến mùa Xuân, để vơi đi những bẽ bàng run rẩy trong cô liêu.


Nhưng mấy ai thực sự hưởng trọn một mùa Xuân đúng với ý nghĩa của nó nhất. Nếu Xuân đến để rồi ra đi mang theo những đóa mai tàn rơi rụng, thì thà nàng Xuân không đến hay hơn. Nhưng rồi Xuân đến và ra đi như chính thân phận tan hợp, con người còn lại những nuối tiếc hoang mang, thương đau, hoài vọng, những dư hưởng vẫn còn phảng phất đâu đây để nhớ dâng chồng chất, để nuối tiếc cho một đời.
Với Mãn Giác mùa xuân không còn nằm nơi khe cửa, không phải chờ đợi chúa Xuân ngự đến, mà bất chợt khi đóa mai vụt nở trước thềm cả sự cảm xúc tuyệt hảo phi thường xuất hiện trong chớp nhoáng, để rồi dệt nên bài thơ trao lại cho đời, một đóa mai không tàn phai theo năm tháng.


Duy nhất và chỉ một lần đắc ý mà trong cuộc đời Mãn Giác đã tìm được, nếu không phải là lần cùng cực rung động, hẳn đã không có những vần thơ bất hủ như thế. Sự giác ngộ được kể như gõ thẳng vào tâm điểm để đạt đến sự thể nhập tuyệt cùng. Sự rung động cũng là cách cần phải thể nghiệm trọn vẹn mới có thể tìm hiểu được những gì mà đàng sau đó đang ẩn chứa. Và biết đâu chính những nguyên lý đó đưa đến giác ngộ?


Thiền sư là những con người có được sự bén nhạy nhanh và năng cảm nhất, vì khám phá uyên nguyên sự vật trước hết, trên hết phải chuyển mình trở thành sự vật đang hiện hữu, không thể đứng ngoài sự vật mà tìm thấy những thầm kín trong ấy, muốn tìm ra gốc rễ phải sống và thở như chính nó đã sống. Nếu không có những điều nầy thì làm sao có thể thành tựu trong việc truy lùng uyên nguyên vật thể.
Thiền sư là những kẻ đang thở và sống trong tất cả mọi hiện tượng và sự vật, hoán chuyển để trở thành nguồn sống nuôi dưỡng cho những trổi dậy, vượt thoát ra ngoài tương quan hiện thực.
Đoá mai không tàn phai khi mai chính là chất liệu được ngự trị, và Mai đã được nở một lần thể nhập vào vô cùng, thì cuộc đời lúc nào không có đóa Mai, không có mùa Xuân? Ý của Xuân và hương sắc quyện vào hư vô chỉ tan loãng nhưng không hề nhạt phai trong trời đất. Phải có cái nhìn như thật vượt thoát thì mới có thể trông thấy được những gì mà kẻ khác không trông thấy. Cái nhìn đó phải là cái nhìn của thi sỹ của Thiền sư của nghệ sỹ thì sự vật mới lộ nguyên hình.


"Nếu không là nghệ sỹ thì không là thiền sư
Nếu khôngThiền sư thì không là thi sỹ"


Nhưng tất cả cuối cùng rồi chỉ còn trên đường về của im lặng, những lời thơ không bao giờ được cất lên, nhưng ở đó một khung trời huyền nhiệm đang ngự tác. Mãn Giác để lại một bài thơ hay nhất, đắc ý nhất, và rung động tột cùng nhất. Và rồi sau đó tất cả đang mờ dần, kể cả những lần chấn động kế tiếp, nhưng không còn làm cho cảm tác dâng cao độ. Một khi nó đã ở từ đỉnh cao thì chặng đường sau không phải chỉ là cách gượng ép hay sao? Đúng ra không còn hứng thú nữa?


Lời thơ ấy cho đến bây giờ vẫn còn vang vọng và vang vọng cho đến khi nào bặt hết mọi ngôn từ, lúc ấy nó mới trở về từ nơi mà nó đã xuất hiện. Im lặng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9799)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9965)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9943)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20531)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10362)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9970)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10356)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9943)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34437)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9638)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8718)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9288)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11109)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8532)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9810)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9188)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20465)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19209)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8766)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8877)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12119)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9610)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23016)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9012)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9275)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9978)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9909)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10634)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10937)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12496)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9353)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9216)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9329)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10461)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22020)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22268)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16622)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9551)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10218)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8410)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9459)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8846)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8639)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9142)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9618)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8626)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9468)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8637)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8372)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8491)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23647)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9588)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9423)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9015)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8358)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8538)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7895)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7985)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8811)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8943)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10077)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8648)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8638)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30428)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30111)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24192)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9650)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9524)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9518)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7865)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9083)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28239)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23743)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12255)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8895)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14252)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9666)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9358)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9660)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30924)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27137)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32743)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34025)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27776)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10587)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58734)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10671)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9413)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9575)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13957)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14227)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10775)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28185)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23297)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant