Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường khai lối, đường đi vạn nẻo

25 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 11064)
Đường khai lối, đường đi vạn nẻo
ma_dao_thanh_cong
Tranh “mã đáo thành công” với tám con ngựa


Đường "mã đáo…"

Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến. Cũng mong thế. Lang thang dạo bước trên mạng Internet tôi thấy có người còn chú thêm là: nguyên ý câu “Mã Đáo Thành Công” là “Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công”; có nghĩa: Cờ phất (làm hiệu) chiến thắng, ngựa quay về (báo tin) thành công.

Lục tra ở Hán Việt Từ điển của cụ Đào Duy Anh (quyển thượng, tr.434) thì thấy ghi nghĩa câu chúc tụng “mã đáo thành công” là “thành công tức thì” (thành công nhanh như ngựa tới đích). Ngựa ngày xưa chắc là như vậy. Tranh ngựa người ta tặng nhau thường là tranh bát mã (bát có âm như phát) có tám con ngựa phi nước đại thong dong giữa đồng cỏ, có khi có núi sông hữu tìnhmặt trời phía sau tỏa sáng. Ngựa ngày nay không còn được như thế: ngựa phải kéo xe thổ mộ ở Á châu, phải kéo cày làm ruộng ở Âu châu, hên lắm thì ngựa được phi nước đại ở các trường đua cho người ta cá cược ăn thua, cũng khổ! Trong thời đại mà đất mẹ cũng phải lên cơn sốt vì quả địa cầu mãi bị hâm nóng này, thì đừng hòng còn những bãi cỏ xanh mượt để lũ ngựa phi nước đại duỗi cẳng. Ngựa đi, ngựa chạy trên những con đường, đường đất hay đường nhựa. Biết đâu như thế có khi đỡ nhọc nhằn hơn.

Đào viên, đường hoa ngập lối

"Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công“. Để tôi kể hầu các bạn nghe một câu chuyện chở hình ảnh đẹp tuyệt vời ấy trong lịch sử. Đó là hình ảnh vua Quang Trung năm Ất Dậu 1789. Mồng năm tết, phá tan đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi… đại thắng quân Thanh và tiến về Thăng Long giữa tiếng hoan hô vang dội của dân chúng – sách sử thường chỉ ghi đến thế. Có một chuyện bên lề nhưng rất đáng yêu. Ấy là, trong lúc chiến bào vẫn còn đậm màu khói súng nhưng Vua rất nóng lòng muốn đưa tin vui thắng trận ấy ngay đến một người ngày đêm hằng luôn dõi theo từng bước đi của nhà Vua. Thời ấy đâu có điện tín, điện thoại hay Email như bây giờ. Mà dù có có đi nữa thì chưa chắc Vua đã muốn dùng. Anh hùng có cách ứng xử đáng mặt anh hùng. Nhà Vua đã làm gì? Vua đã cho quân sĩ mang một cành bích đào, cưỡi ngựa chuyền liên tục từ trạm này qua trạm khác, ngày đêm chuyển cành đào về đến thành Phú Xuân để trao tận tay người con gái đang ngóng đợi tin sau song cửa: Ngọc Hân Công Chúa. Cành hoa này là cành bích đào lấy từ Dinh Lẫm của đất Thăng Long (nay là làng Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội). Bích đào là loài hoa của trời, hoa của chuyện đào nguyên, hoa của lòng tinh khiết. Nói đến hoa đào thì không thể không nhắc đến câu thơ xưa của Thôi Hộ mang theo cả một thiên tình sử “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông) gắn với một huyền thoại. Ngày xưa có một nho sinh trên đường lên kinh đi thi, dọc đường gặp người con gái trong mộng. Nhằm vào mùa hoa đào, hoa vừa kết nụ đâm hương thì tình yêu của họ cũng vừa chớm nở. Rồi cũng như bao nhiêu các cuộc tình trái ngang khác, chàng trai phải lưu lạc tứ phương, khi trở lại chốn xưa cũng vào mùa hoa đào. Cảnh vẫn còn đấy, hoa đào vẫn tươi thắm, nhưng người xưa đâu thấy. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Cũng có tài liệu (Kim cổ kỳ quan – Khuyết danh) ghép bài thơ Thôi Hộ này với thiên tình sử khác. Một lần nhân tiết Thanh Minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía nam thành Lạc Dương. Lạc bước đến một hoa viên trồng hoa đào chàng tha hồ thưởng ngoạn. Nhằm lúc khát nước lại thấy một ngôi nhà gần đó, bèn đến xin nước uống. Uống nước xong chàng thấy dáng một thiếu nữ diễm lệ e ấp nấp trong vườn đào, tìm đến trò chuyện chốc lát lại phải chia tay, chàng ta sinh lòng thương mến. Sang năm cũng tiết Thanh Minh, nhớ lại chốn xưa Thôi Hộ quay lại tìm ngôi nhà cũ. Cửa đóng then cài, chàng ghi vội bài thơ lên cửa rồi lại phải ra đi. Ít lâu sau quay lại thì nghe có tiếng khóc vang ra từ ngôi nhà. Thôi Hộ kêu cửa để hỏi thăm cớ sự thì gặp một cụ già. Cụ cho biết người thiếu nữ năm xưa ấy chính là con gái của cụ, tên là Đào Phụng Trinh. Sau khi đọc bài thơ xong bỏ cả ăn uống và đã chết, xác vẫn còn ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người con gái, tuy đã tắt thở nhưng thi thể vẫn còn hơi ấm. Chàng quỳ xuống, gọi tên nàng và bày tỏ nỗi lòng mình. Phụng Trinh sống lại và họ trở thành vợ chồng. Chuyện có hậu. Bài thơ ghi lại mối tơ duyên bất hủ nhuốm màu sắc một huyền thoại. Nhưng thôi, hãy để chuyện tình Thôi Hộ lại (mà chính Nguyễn Du cũng đã mượn và dịch tài tình câu thơ: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông cho truyện Kiều) cho những buổi bình luận văn học. Ai nghĩ sao cũng được. Thiên hạ nhiễu nhương, dẫy đầy chiến tranh loạn lạc, có bao nhiêu cuộc chia ly xa cách là hình như có bấy nhiêu lần câu thơ bất hủ hoa đào của Thôi Hộ được viết ra, được nhắc đến, được ngâm lên cho những cuộc tình đầy ắp nỗi thương nhớ đợi mong.

 

Chuyện cành đào của Vua Quang Trung cũng được cho là truyện tình đầy huyền thoại. Nhưng dù gì đi nữa cũng phải thừa nhận câu chuyện „cành bích đào của Quang Trung“ ở đây là một thiên tình sử quá đẹp, đây cũng là hình ảnh „kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công“ vào bậc ngoại hạng, thượng thừa. Này nhé, hãy nghĩ xem, hình ảnh nào đẹp bằng: một chàng tráng sĩ hào hoa xuất thân từ áo vải đất Bình Định, bên men nồng chiến thắng vẫn không quên đưa tay chọn và cắt lấy một cành đào của đất Thăng Long gởi về Huế tặng nàng Công Chúa triều Lê gốc từ đất Bắc. Đẹp như mã đáo thành công, tươi như nhánh bích đào giữa nền xuân thắm!

 

Trên bước du xuân năm con ngựa, tôi cũng xin chúc bạn „mã đáo thành công“, cả đường gia đạo, tình duyên lẫn sức khỏe, tiền tài, sự nghiệp.

 

Đường khai tâm

Bước lang thang tôi chợt nghĩ đến những con đường trong quá khứ hoài niệm: đường đi đến trường làng.

Thế hệ chúng tôi lúc còn ê a ở các trường tiểu học, ai cũng học thuộc lòng bài văn bất hủ „Tôi đi học“ của tác giả Thanh Tịnh, mà mãi đến bây giờ, đã nhiều năm qua tôi vẫn còn có thể đọc thuộc lòng. Cách đây mấy năm, để thử những chương trình viết tiếng Việt trên máy tính, do quán tính tôi luôn bắt đầu gõ ngay vào bàn phím „tôi đi học“ và tiếp theo:

 „Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

 […]

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

 […]

Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp“…

Làng tôi lúc đó cũng chỉ có một trường tiểu học duy nhất là trường tiểu học Xuyên Mỹ do thầy Phan Thế Tập làm hiệu trưởng. Đám trẻ chúng tôi có khi ở rất xa trường vẫn mỗi ngày hai lần cắp sách đến trường, dù bất kể lúc trời hè nắng cháy chang chang hay khi gió bấc lạnh buốt tới xương mùa đông. Nhưng nghĩ lại chúng tôi thấy vẫn còn may mắn hơn nhiều bạn trong làng không có điều kiện đi học, phải ở nhà phụ gia đình trong các việc đồng áng. Nhà tôi tương đối gần trường nên tôi chỉ được phép ra khỏi nhà để đi học khi trống trường đổ hồi đầu tiên. Ở quê trường học thường dùng tiếng trống để báo giờ vào học hay ra chơi… Tiếng trống như thúc giục nhưng lại rất đầm ấm, tình cảm. Sau này ở thành phố không còn nghe tiếng trống trường mà thay vào đó tiếng chuông điện reo lên quá ư lạnh nhạt, uy quyền. Mỗi buổi sáng tôi luôn trong tư thế sẵn sàng, trống trường vừa đổ những tiếng đầu tiên là vào xin phép ngay người lớn và phóng nhanh ra đường. Từ nhà bước ra đến hương lộ chỉ cần vài cú nhảy là đã gặp bao nhiêu bạn bè cùng trường cùng đi học. Tiếp theo là những câu chuyện vang như bắp nổ, hay cũng có lúc ghẹo nhau hoặc chọc phá đám con gái, đánh lộn với đám trẻ chăn trâu… Đoạn đường này là những khoảng đường ấp ủ đầy ắp kỷ niệm đẹp nhất tuổi học trò tiểu học trường làng, là hành trang cho những con đường dài sau này ở trung hay đại học, không bao giờ có thể quên được. Đó là những bước khai tâm, chập chững đầu đời trên con đường học vấn. Chúng tôi vui với trường, vui với bạn và không hề biết thế nào là cực khổ của mảnh đất „cày lên sỏi đá“ như sau này lớn lên mới nghe người ta nói. Được đi học, được đến trường, được vui chơi với chúng bạn là những niềm hạnh phúc của chúng tôi, dù về nhà rất nhiều bạn cũng phải phụ giúp gia đình làm nông, đánh cá hay chằm nón… Nhưng tuyệt nhiên, chúng tôi rất ham học, thích học. Có dịp tôi cũng có thể kể cho bạn nghe hàng chục những mẩu chuyện về hàng chục con người ở quê tôi rất hiếu học mà tôi nghĩ rằng có thể bạn cũng biết những người đó. Họ xuất thân từ những gia đình nghèo, mỗi người một hoàn cảnh, một oái oăm khác nhau. Điểm chung của họ là gạt qua tất cả những trở ngại để bước đi trên con đường học. Họ là những người cưỡi trên con sóng định mệnhcuộc đời định gán cho họ nhưng không được. Tôi chỉ xin mạn phép trích một đoạn ngắn từ cuốn sách “Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác”, đoạn nhà văn Trần Trung Đạo viết về mẩu đối thoại với người cô (tr. 234).

 […]

 - Con đừng bỏ đi. Nếu thầy đuổi thì về Đà Nẵng ở với cô.
- Nhưng ở Đà Nẵng với cô thì chỉ đi bán cà rem hay đánh giày chứ làm gì có trường công để học.

 - Ừ thì lúc đó hãy tính.

 - Con phải đi học.

 - Cô biết, nhưng lúc đó hãy tính, giờ còn đi học được thì phải lo học.

 - Dạ.

Hai cô cháu tôi thường ngồi như thế rất lâu trong căn nhà nghèo nàn phía trong Ngã Ba Huế. Một đứa bé bất hạnh ngồi bên người đàn bà bất hạnh trong một đất nước bất hạnh. Thỉnh thoảng cô đưa bàn tay gầy guộc cầm lấy tay tôi sợ rằng đứa cháu trai của cô sẽ khóc. Tôi không khóc. Cô không khóc. Không có hay vì không ai còn giọt nước mắt nào để nhỏ trong những đêm tôi về thăm cô. Nếu có chăng chỉ là những giọt nước mưa từ buổi chiều còn đọng trên mái tranh nghèo, như những nốt nhạc buồn, gõ từng nhịp đều vào chiếc lu hứng nước ngoài sân” …

Giữa cảnh chiến tranh chết chóc, giữa cái đói cái nghèo cậu bé mồ côi tên Nhơn ấy vẫn vươn lên, vẫn chấp nhận tất cả những đắng cay cuộc đời cũng chỉ vì một ước mơ duy nhất: để được đi học.

 

"Sur le chemin de l'ecole“ - Những đoạn đường tuy ngắn nhưng lại rất dài …

Thế nhưng trong cuộc đời nhiều lúc còn nhiều đoạn đường rất ngắn nhưng lại rất dài, có khi còn quá gian truântrắc trở. Cuối năm 2013 hàng loạt các rạp chiếu bóng giới thiệu cuốn phim tài liệu bất hủ của nhà đạo diễn Pascal Plisson người Pháp đang sống tại Paris. Cuốn phim có tựa đề gốc "Sur le chemin de l'école“ (Việt: Trên đường đến trường; Đức: Auf dem Weg zur Schule, Anh: On the Way to School). Phim nói về những đoạn đường từ nhà đến trường, đoạn đường mà đối với các cô cậu học sinhÂu Mỹ (và cả ở Việt Nam) bây giờ là thường tình với những phương tiện đưa đón bằng nhiều lại xe khác nhau đủ loại đủ cỡ, nhưng đối với các thiếu niên trong phim là cả một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, có khi phải đánh đổi mạng sống. Cháu Jackson (11 tuổi) và cô em gái tên Salome mỗi ngày phải thức dậy từ 5:30 sáng, vượt qua 15 km đường rừng ở Kenya với bao nhiêu hiểm nguy vì sợ bầy voi rất dữ tấn công, để đi đến trường. Cháu Carlito (11) phải giúp em gái cùng cưỡi ngựa vượt qua những dốc đá ở Argentina (Á Căn Đình), Zahira (12) và những bạn của em ở Ma-rốc có khi phải leo núi bên những lũ rắn độc rất nguy hiểm, hay em Samuel (13) ở Ấn Độ có đôi chân tàn tật phải ngồi xe lăn, trông nhờ vào sự giúp đỡ của hai anh em trai của mình khi qua suối hay những đoạn đường sình lầy. Thế mà các em đã phải khắc phục tất cả chỉ vì một ước vọng duy nhất: được đến trường, được đi học. Các em đã ý thức được tầm quan trọng của việc học, mở mang trí tuệ. Nhưng bên cạnh đó các em cũng chỉ là những đứa trẻ rất dễ thương và cũng nghịch ngợm như những đứa trẻ khác, cũng chọc phá đùa nghịch và vận dụng trí thông minh của mình để khắc phục những chướng ngại và cả những nỗi sợ hãi chết người để đạt một điều mà thường bị lãng quên, đó là lập chí lớn để nhích gần những mục tiêu trong cuộc đời. Những câu chuyện trong phim ấy lại là những câu chuyện thật ở thế kỷ hai mươi mốt!

Cuốn phim này bạn phải nên xem một lần cho biết.

 

picture1

Cảnh trong phim "Sur le chemin de l'ecole“

picture2

Nguồn: Internet

Lúc nhỏ tôi vẫn nghe ông Nội tôi thường nói: „Ngọc bất trác, bất thành khí; Nhân bất học, bất tri lý”. Một viên ngọc dù có quý giá nhưng không mài giũa thì không trở thành một dụng cụ tốt, Người không học thì không biết đạo lý ở đời. Lớn lên một chút, suy nghĩ và không chắc là người không học thì bất nghĩa, vì thấy có người có nhiều bằng cấp vẫn bất nhân bất nghĩa (nhưng nghĩ kỹ lại thì họ có bằng cấp chứ chưa chắc là có học). Kiến thứctrí tuệ là hai việc tưởng giống nhưng lại khác nhau một trời một vực. Có điều không ai cải được, là ngọc mà không giũa không mài thì không thể hiện được tất cả những giá trị của nó. Không những thế, còn phải mài đi giũa lại nhiều lần nữa là khác. Cái học cũng giống vậy thôi! Nghĩ cho cùng, muốn gạch một lằn ranh cho hai phe “có học” và “không học” của con người khó vạn lần hơn là lựa đống ngọc đã giũa hay ngọc chưa mài. Lấp biển vá trời hay mò kim đáy biển có khi còn dễ hơn. Vì sao? Vì đại bản doanh của phe này phe kia nằm kề cận sát nhau như hai mặt của một đồng tiền cắc. Ai biết đâu là vĩ tuyến để chia đôi, ai biết đâu là ranh giới của chữ học?

 

Đạo là đường, đường là đạo – bài học này xem ra không phải chỉ cho các em mà cho cả bậc người lớn chúng ta. Chính các bạn trẻ này đã nhắc khéo ta về một nẻo đường hướng đến tuệ giácđức Phật có lần nói: “duy tuệ thị nghiệp” (kinh Bát Đại Nhân Giác - Tám điều Giác ngộ của bậc Đại Nhân - bốn chữ này cũng từng là phương châm của Viện Đại Học Vạn Hạnh của Sài Gòn xưa). Ngọc đã sẵn trong tay, mình chỉ phải giũa phải mài thôi. Dụng cụ, phương tiện ư? Thì Phật cũng đã trao cho ta rồi đó, là chiếc kiềng ba chân Giới-Định-Tuệ.

Kìa, xuân cũng vừa đến, chúng ta hãy cùng nhau bắt đầu đi!

 

Xuân Giáp Ngọ 2014

Nguyên Đạo - Văn Công Tuấn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25652)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19585)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14256)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20097)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9500)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14368)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35563)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10653)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19701)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23198)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13359)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10745)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20214)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10600)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9962)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14875)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17654)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17595)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31160)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25754)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13979)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17505)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10972)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12289)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10467)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12268)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9613)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12353)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9958)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9756)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12029)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14415)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9899)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11205)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15205)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23075)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23986)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12568)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15424)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17785)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15048)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16550)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17636)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11588)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11617)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17824)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10779)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11046)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36413)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8960)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34708)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17261)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10241)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13633)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14664)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9149)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24803)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10314)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18354)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18517)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18584)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13341)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47985)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 13547)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13036)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11667)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10119)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant