Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngồi ThiềnQuán Hơi Thở

20 Tháng Ba 201400:00(Xem: 12199)
Ngồi Thiền Và Quán Hơi Thở

Ngồi ThiềnQuán Hơi Thở


Toàn Không

 

ngoi_thienI). Chuẩn bị:

1- Về thân: Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ; khi ngồi thiền, thân thể, quần áo phải sạch sẽ.

2- Về tinh thần: Để dễ tập trung vào việc thiền, người hành thiền phải dứt các lo lắng ràng buộc với công việc, chấm dứt các tham muốn, không còn các sự lo lắng, giận hờn, ghen tị v.v… nghĩa là muốn hành thiền mau tiến bộ phải tránh tham sân, phải bớt tiếp xúc với sáu trần là sắc đẹp, thanh hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu, pháp tưởng nhớ. Cũng cần phải tin pháp môn hành trì, tin thiện tri thức, tin chính mình có đủ khả năng, tất cả không một chút nghi ngờ về các điều nêu trên, gọi là có chính tín.

3- Vật dụng: Tọa cụ để ngồi, có thể dùng môt cái chăn mền mỏng gấp làm tư, một cái gối bằng bông dầy mỏng tùy ý. Nếu nền ngồi có thảm, chỉ cần một cái gối là đủ.

 

II). Cách ngồi:

 Chăn mền: gấp làm tư trải xuống, để gối trên mền ngay ngắn, ngồi thế nào để chân sẽ không đụng gối.

1- Ngồi bán kết già: Để chân trái trên đùi phải hay chân phải trên đùi trái, bàn chân nằm ngửa bằng với đùi (nếu không thể để trên đùi, để trên bắp chân). Chân kia nằm ngửa phiá dưới, bằng đùi kia (hay giữa đùi và bắp chân).

2- Ngồi toàn kết già: Cũng giống như ngồi bán kết già nêu trên, nhưng phải kéo bàn chân kia lên nằm ngửa trên đùi và bằng đùi kia(cách ngồi này rất khó, chỉ dễ đối với người đã ngồi quen rồi hoặc còn trẻ tuổi).

 Người mới tập ngồi thường hay bị tê chân, qua thời gian hết tê thì đau mỏi, về sau khi hết đau mỏi rồi, ngồi bao lâu cũng được; nới lỏng dây bụng, cổ áo, cho rộng rãi thoải mái, sửa cho ngay ngắn.

- Về tay: Tay trái nằm ngửa để trên chân ở giữa hai đùi, tay phải cũng nằm ngửa để trên tay trái (hay ngược lại), các ngón chồng lên nhau, trừ ngón cái vừa đụng nhau, rồi hai bàn tay kéo sát vào người vừa phải thoải mái, không cho xê dịch.

- Về lưng cổ: Giữ cho xương sống và cổ ngay ngắn, không cong, không nghiêng vẹo.

- Về đầu mặt: Đầu hơi cúi một chút như thế nào để tầm mắt nhìn thẳng chạm đất xa khoảng 1 mét 5 (khoảng 5 feet) cách chỗ ngồi.

 

III). Trước khi thiền:

1- Cách thở: Tiếp theo dùng miệng thở hơi ra dài, đừng gấp cũng không nên mạnh qúa mà từ từ nhẹ nhẹ, rồi dùng mũi hít vào cũng từ từ như khi thở ra. Khi thở ra hít vào tưởng tượng như các mạch máu trong người đều theo hơi thởlưu thông cùng khắp; cũng có thể tưởng tưởng khi thở ra tất cả những buồn phiền lo lắngkhí độc trong người đều ra hết, và khi hít vào những khí trong lành đều lưu thông cùng khắp cơ thể. Thở ra hít vào 3 lần hoặc nhiều hơn tùy ý. Khi thở xong, để hơi thở tự nhiên, nhẹ nhàng, không nên cố thở, không nên kìm giữ hơi thở, không nên làm cho bụng phồng xẹp phải theo ý mình.

2- Miệng lưỡi: Xong ngậm miệng lại, hai môi khép kín vừa phải, hàm dưới trong, hàm trên ngoài, răng để khít nhau, lưỡi để sát lên trần của hàm trên.

3- Mắt: Mắt nhắm vừa đủ để che ánh sáng bên ngoài đối với ban ngày hoặc có đèn sáng, không cần phải nhắm nghiền, trong khi thiền nhắm mắt dễ bị hôn trầm (mờ mịt buồn ngủ), mở mắt to dễ bị tán loạn. Nếu thiền ban đêm hay trong phòng tối nên mở mắt một nửa có lợi tránh được buồn ngủ.

 Từ đây: giữ hơi thở điều hòa, không gấp không chậm, không gây thành tiếng, thân ngồi ngay thẳng vững vàng, không cử động xê dịch, và bắt đầu hành thiền.

 

IV). Thực hành thiền:

 Trên đây là chỉ chung cách ngồi, tùy theo pháp môn tu mà mỗi người chọn để thực hành thiền. Mỗi pháp môn đều có chỉ dẫn cách thực hành thiền riêng của nó như tu Chỉ: Là buộc tâm không cho suy nghĩ, không cho tư tưởng khởi lên, gọi là dứt vọng tâm dứt tán loạn, phải tỉnh táo sáng suốttịch tịnh vắng lặng. Tu Quán: Là quán sát các tướng nhân duyên sinh diệt, như quán “Thân bất tịnh” để đối trị tham dục, quán “Sổ tức” là đếm hơi thở ra vào, đối trị loạn động, ngăn ngừa suy nghĩ nhớ tưởng đủ thứ; tu “Tứ Niệm Xứ” quán sát “thân thọ tâm pháp”, tu “Tứ Thiền” v.v…. Riêng Thiền Tông, tuy không chủ trương ngồi thiền, vì có thể áp dụng trong mọi hoàn cảnh đi đứng nằm ngồi đều dụng công tham thiền được cả, nhưng không phải là bác bỏ hẳn việc ngồi thiền, vì những người mới tu, ngồi dễ dàng hơn cho việc thực hành tham thiền của mình.

 

1). Cách trị hôn trầm (chìm vào mê tối):

 Nếu trong khi ngồi thiền tâm biết mờ mịt, nửa thức nửa ngủ, đầu gục xuống nhiều, có khi chảy nước bọt rãi từ miệng ra, đây là hôn trầm và rơi vào Vô Ký (không tỉnh), phải nhấc đầu lên, mắt mở to ra một chút, để tâm nơi đầu mũi. Nếu vẫn còn xẩy ra như thế, phải quán “Sổ tức” để trị hôn trầm, đối với người tham thiền phải biết mình tham và nghe rõ câu tham tuy không mở miệng.
Còn có nhiều cách trị buồn ngủ khác mà đức Phật đã dạy, sau đây chúng ta lược trích một đoạn Kinh Trưởng Lão Buồn Ngủ (thùy miên) trong Trung A Hàm quyển 2 từ trang 391: Một thời Phật du hóavườn Lộc Dã xứ Bà Kỳ Sấu, khi đó Tôn giả Trưởng Lão Mục Kiền Liên lại ở làng Thiện tri thức nước Ma Kiệt. Một hôm đức Phật ở trong định thấy Tôn giả Mục Kiền Liên đang buồn ngủ, Ngài liền dùng Như kỳ tượng định, chỉ trong chớp mắt Ngài tới ngay trước mặt Tôn giả Mục Kiền Liên và nói:

Mục Kiền Liên, Thầy đang mắc phải chứng buồn ngủ.

 Tôn giả Mục Kiền Liên bừng tỉnh, vội trả lời:

- Thưa Thế Tôn, quả thật con đang mắc chứng buồn ngủ.

- Nếu buồn ngủ, thầy biết là tướng nào của mình (sở tướng) gây buồn ngủ, thầy chớ tu tập theo tướng ấy nữa. Hãy theo giáo pháp khác đã được nghe được biết tùy theo đó mà thụ trì, suy niệm suy tư.

 Nếu chứng buồn ngủ vẫn chưa hết, hãy dùng hai tay xoa hai bên mép tai, hoặc rửa mặt, hoặc đi tắm. Nếu vẫn chưa hết buồn ngủ, hãy đi ra ngoài nhìn trăng sao, đi kinh hành, giữ chính niệm, giữ gìn các căn, trụ tâm bên trong.

 Sau khi kinh hành, ngồi thiền trở lại, nếu buồn ngủ vẫn chưa hết, hãy nằm nghiêng bên phải, hai chân chồng lên nhau; khởi nghĩ tưởng về ánh sáng (quang minh tưởng), lập an trú chính niệm, khởi ý niệm luôn luôn muốn thức dậy; đừng ham lạc thú ngủ nghỉ, tài lợi, danh dự …, khi đức Phật giảng dạy cho Tôn giả Mục Kiền Liên xong, Ngài biến khỏi nơi ấy trở về vườn Lộc Dã.

2). Cách trị tán loạn:

 Nếu ngồi thiền để lưng cong ễnh bụng ra dễ sinh mệt mỏi, tán loạn (suy nghĩ tưởng nhớ đủ thứ chuyện), sinh bệnh, phải sửa lại lưng cho ngay thoải mái, để tâm nơi đầu mũi; nếu vẫn còn xẩy ra nhiều lần như thế, phải quán Sổ tức để trị tán loạn. Đối với người tham thiền phải quay trở lại với câu thoại đầu tham cho rõ ràng.

 Nên nhớ bài kệ của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác:

Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,

Vô ký lặng lặng sai,

Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,

Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.

3). Thời gian Thiền, tham:

 Thời gian thiền dài ngắn tùy theo mỗi hành giả, từ nửa giờ cho tới một giờ hay hơn nữa, tùy sức mỗi người; thông thường khi mới tập thiền, ngồi trong thời gian ngắn, sau dần dần tăng thời gian dài hơn lên.

 

V). Xả thiền:

 Khi xuất thiền trước nhất phóng tâm theo cảnh khác, kế há miệng thở ra hơi dài từ từ, dùng mũi hít vào cũng từ từ, tưởng tượng khắp các mạch máu, thớ thịt đều theo hơi thởlưu thông cùng khắp. Kế là động nhẹ thân, hai vai, các bắp thịt hai tay, lưng, cổ, rồi động đến bắp thịt hai chân. Sau nữa, hai tay xoa vào nhau nhiều lần, áp đặt hai bàn tay, các ngón tay trên hai mắt khoảng năm ba giây, xong xoa vuốt mặt đầu cổ, làm ba lần, xong dùng hai bàn tay bóp nhẹ hai bàn chân, bắp thịt chân và đùi.

 Việc xả thiền trên đây phải làm từ từ không vội gấp, nếu làm không đúng, có thể bị chứng nhức đầu, các khớp xương cứng khó cử động, các bắp thịt chân bị chuột rút, tê cứng v.v… và nhất là về sau mỗi khi tọa thiền cảm thấy khó chịu không yên.

 

VI). Quán hơi thở: Có 3 cách quán hơi thở:

1)- Quán sổ tức: Là quán đếm hơi thở. Quán hơi thởcăn bản để trị hôn trầm tán loạn. Tất cả các pháp môn, trong khi thiền đều có thể xảy ra hôn trầmtán loạn. Nên chúng tôi viểt cách quán này vào đây, hy vọng nó không thừa, để giúp cho người mới tập thiền có bước đầu tiên vững chắc. Quán Sổ Tức là đếm hơi thở, có ba cách đếm:

1- Đếm hơi lẻ: Là thở hơi vào đếm một, thở hơi ra đếm hai, thở hơi vào đếm ba, thở hơi ra đếm bốn . . . cứ thế thở và đếm cho đến mười; rồi lại bắt đầu đếm từ một đến mười, cứ thế đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong nửa giờ, một giờ hay hai giờ tùy ý.

2- Đếm hơi chẵn:thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần nữa đếm hai, cứ như thế thở và đếm tuần tự tới mười; khi đếm đến mười rồi, tiếp tục đếm lại từ một cho đến mười, như thế đếm cho tới khi xả quán.

3- Đếm nghịch: Là dùng một trong hai cách đếm trên, nhưng là đếm ngược từ mười đến một.

 Nói thì dễ nhưng làm không dễ, thường hay mắc các khuyết điểm:

- Đếm nhảy, như mới đếm đến bốn liền nhảy lên sáu, mới đếm đến sáu liền nhảy lên tám v.v...

- Đếm thừa, như đã đếm đến sáu lại đếm năm, đã đếm đến bảy lại đếm bảy nữa v.v...

- Đếm quên: Đang đếm bỗng quên không nhớ là đếm đến mấy rồi!

 Nếu đếm lẫn lộn như thế, phải đếm lại.

 Trường hợp Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đần độn tụng một bài kệ bốn câu trong ba tháng mà không thuộc, lúc quên đầu, lúc sai đuôi; Phật thấy thế ban cho cách “đếm hơi thở vào ra”, Tôn giả bèn cứ thế mà thực hành không hề ngưng nghỉ, chỉ chú tâm đếm theo hơi thở, ngoài hơi thở ra không suy nghĩ tưởng nhớ sự vật gì khác, cho đến vi tế tột cùng, Tôn giả thấy hết thảy đều sinh (sinh ra), trụ (có thấy đó), dị (biến hoại), diệt (mất đi) từng mỗi sát na, và đạt đến tâm định tĩnh rỗng rang tự tại vô ngại; Tôn giả Chu Lợi Bàn Đặc Ca đã được Phật ấn chứng là bậc A La Hán (Bậc Thánh).

2). Quán Tùy Tức: Tôn giả Tôn Đà La Nan Đà mỗi khi ngồi thiền tâm thường loạn động, đức Phật thấy thế dạy quán “tướng trắng trên chót mũi”, chuyên chú tập trung tất cả vào đó. Tôn giả quán sát kỹ trên đầu mũi như thế, sau 21 ngày Tôn giả thấy hơi trong mũi thở ra vào như khói, thân tâm thế giới trong ngoài rỗng suốt trong sạch như ngọc lưu ly. Rồi dần dần tướng khói tiêu mất, mà hơi thở lại biến thành sắc trắng, tâm được khai ngộ, các lậu hoặc phiền não khai trừ sạch, hơi thở ra vào biến thành quang minh soi khắp cùng mười phương thế giới; Tôn giả đã được đức Phật ấn chứng là bậc A La Hán, và thọ ký cho Tôn giả sẽ đắc qủa Bồ đề (thành Phật) trong tương lai.

3). Quán An Ba Ban Na: Tôn giả La Vân là con ruột của đức Phật thường lo buồn, hay suy nghĩ tưởng nhớ đủ thứ chuyện được đức Phật chỉ cho cách tu “An Ba Ban Na” một cách đầy đủ. Sau khi ghi nhận lời dạy một cách chu đáo, Tôn giả La Vân liền đến gốc cây ngồi kết già, chính thân chính ý, không nghĩ tưởng chuyện khác, buộc tâm ở chót đầu mũi. Tôn giả thở vào dài biết thở vào dài, thở ra dài biết thở ra dài; thở vào ngắn biết thở vào ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn; thở vào mát cũng biết thở vào mát, thở ra mát cũng biết thở ra mát; thở vào ấm cũng biết thở vào ấm, thở ra ấm cũng biết thở ra ấm. Quán khắp thân thể: hơi thở vào ra thảy đều biết cả; lúc có thở biết có thở, lúc không thở biết không thở; hơi thở từ ngoài vào biết hơi thở từ ngoài vào, hơi thở từ trong ra biết hơi thở từ trong ra.

 Tôn giả La Vân tư duy như thế, dục tâm liền được giải thoát, có giác có quán, hoan hỉ an lạc đạt Sơ thiền. Có giác có quán hỉ, chuyên chú nhất tâm, nhập tam muội không giác không quán, hỉ lạc đạt Nhị thiền; không còn niệm hỉ lạc, tự giữ giác tri thân lạc, xả niệm hỉ đạt Tam thiền; khổ vui đã diệt hết sầu lo, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh đạt Tứ thiền. Do tam muội này, tâm thanh tịnh sáng suốt, biết từ đâu sinh ra, biết vô số kiếp về trước của mình, biết chỗ khởi tâm suy nghĩ của chúng sanh, biết nhân qủa lành dữ của hết thảy chúng sanh. Do tam muội này, thấy biết như thật về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và con đường dẫn đến Đạo. Do tam muội này, tâm dục lậu đã sạch, liền được giải thoát, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, biết rõ không còn tái sinh, đã ra ngoài vòng luân hồi sinh tử của sáu cõi.

 Lúc ấy, đức Phật bảo các Tỳ Kheo: “Tỳ Kheo La Vân là người trì cấm giới thứ nhất, cũng là người thứ nhất sạch hết hữu lậu trong các vị đắc A La Hán”.,.

Toàn Không

Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Bảy 201408:02
Khách
con rat muon hoc hoi va thuc hanh thien tai nha nhung con nghe noi tu hoc thien se bi "tau qua nhap ma" nen cung hoi so.vi o nuoc ngoai nen khong co co hoi tim thay dai cach thien dinh.nay nhan day con muon xin y kien thay va cac ban doc gia cho con biet them ve nhung hien tuong gi se gap phai khi tu hanh thien va cah khac phuc nhung hien tuong do?tu hoc thien co qua nguy hiem khong?xin cam on.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25661)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37876)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14263)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20106)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9507)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14378)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35571)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10655)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19708)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23206)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13366)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10750)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10606)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9971)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14881)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17658)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17606)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13192)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31172)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25769)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13983)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17512)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10979)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12295)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10473)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12274)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11761)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9620)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12357)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9200)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8496)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9965)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12037)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14426)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9910)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11207)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8297)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10970)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14091)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15208)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13041)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23080)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23992)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12575)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15430)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17792)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15058)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16559)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17646)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11596)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11622)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17829)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10784)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10521)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11327)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12086)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11050)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9680)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17269)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10244)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10472)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 13636)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14674)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9151)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24811)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11639)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10316)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15947)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15576)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14524)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13005)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12452)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14586)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18360)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9573)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18524)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18591)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19023)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18836)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11832)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13347)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47992)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11067)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13550)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13041)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11067)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12557)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11055)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31777)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11671)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10123)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant