Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nền Tảng Của Thiền Định

22 Tháng Sáu 201413:17(Xem: 8290)
Nền Tảng Của Thiền Định

NỀN TẢNG CỦA THIỀN ĐỊNH
của thiền định thiền quán Đại thừa

Nguyễn Thế Đăng


Thiền định, thiền quánthiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp, Pháp tánh, tánh Không, Chân Như, Phật tánh, Pháp giới tánh, Pháp thân…

Tánh Không của tất cả các pháp vẫn thường trụ như vậy, dù có người tu hay không tu, dù Đức Phật có ra đời hay chưa ra đời:

“Pháp tánh của hữu vivô vi, tánh này chẳng phải Thanh văn, Bích chi Phật làm ra, cũng chẳng phải người khác làm ra. Xét về bản tánh thì tánh này rỗng không, vì chẳng phải thường còn chẳng phải diệt mất. Tại sao thế? Vì tánh tự như vậy. Đây gọi là tánh Không. Hoặc Phật xuất thế hoặc Phật chưa xuất thế, Pháp tánh hay tánh Không này vẫn như vậy”. (Đại Bát-nhã, Phẩm Vẫn Thừa).

“Bồ-tát an trụ Thiền Ba-la-mật chẳng thấy có sắc thọ tưởng hành thức, chẳng thất có sáu Ba-la-mật, chẳng thấy có Bốn niệm xứ cho đến Nhất thiết chủng trí, chẳng thấy có tánh hữu vi hay tánh vô vi. Vì chẳng thấy nên chẳng tác động, vì chẳng tác động nên chẳng sanh, vì chẳng sanh nên chẳng diệt. Tại sao thế? Vì có Phật hay không có Phật thì vẫn là Như: pháp tướng pháp tánh thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt. Bồ-tát này thường nhất tâm đúng vào Nhất thiết chủng trí. Đây là Bồ-tát an trụ Thiền Ba-la-mật mà giữ lấy Bát-nhã Ba-la-mật” (Phẩm Lục độ tương nhiếp).

Kinh Hoa Nghiêm cũng y vào pháp tánh này để nói rõ pháp giới của chư Phật:

Như Lai biết Pháp tánh
Tịch diệt, không có hai
Thân thanh tịnh trang nghiêm
Hiện khắp cả thế gian.
(Phẩm Nhập pháp giới)

Chỉ và Quán là “chẳng trái pháp tánh, y vào Nhất thiết trí thấy rõ tướng của tất cả các pháp, thấy pháp tánh bất động được vào Bồ-tát hội, thường sanh vào nhà Như Lai”.

“Quán sát pháp cực kỳ sâu xa, đủ vô lượng trí huệ, phát sanh vô lượng tâm quảng đại, tâm từ bi không thối chuyển, chẳng trái pháp tánh, chẳng sợ Thật Tế, chứng lý chân thật, đủ tất cả Ba-la-mật, thực hành thiện căn xuất thế đều thanh tịnh như Phổ Hiền…. y vào Nhất thiết trí thấy pháp tánh bất động , được vào Bồ-tát hội, thường sanh trong nhà Như Lai” (phẩm Thăng Đâu-suất thiên cung).

Chỉ là sự tập trung, an định, an trụ trong pháp tánh. Quán là nhìn cho ra chân tướng của những cái không thật đang che lấp pháp tánh. Lột bỏ, bóc tách những cái không thật đang che kín ấy thì pháp tánh hiển lộ. Kinh Kim Cương chấm dứt bằng bài kệ:

Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh
Như sương, như ánh chớp
Hãy quán sát như vậy.

Chính là y cứ vào pháp tánh hay tánh Không này, mà mọi pháp, kể cả pháp môn Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, được thành lập. Như kinh Duy-ma-cật nói: “Từ gốc vô trụ (tánh Không), lập ra tất cả các pháp”. Ngài Long Thọ cũng nói nhờ tánh Không này mà có tất cả các pháp, kể cả những pháp để tu hành:

Vì có nghĩa Không này
Tất cả pháp được thành
Nếu khôngnghĩa Không
Tất cả bèn chẳng thành
(Trung luận, XXIV, 14)

Như thế, pháp tánh hay tánh Không là Nền tảng của ba pháp môn Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu.

Hơn nữa, trong quan điểm của tánh Không, một pháp môn nào cũng khởi từ tánh Không mà có, hiện hữu trong tánh Không, và khi không sử dụng thì lại tan biến trong tánh Không. Pháp môn không lìa ngoài tánh Không. Đó cũng là chức năng của pháp môn: đi sâu vào pháp môn tức là đi sâu vào tánh Không, người ta sẽ bắt gặp tánh Không trong pháp môn ấy. Đó cũng là ý nghĩa của chữ pháp môn: pháp môn là cửa pháp. Đi vào cửa pháp, chúng ta sẽ bắt gặp, nhận ra Pháp, hay pháp tánh, hay tánh Không. Như đi vào một làn sóng chúng ta có thể biết được cả đại dương.

Tu hành ba pháp môn Chỉ Quán là nhằm Khai Thị Ngộ Nhập “tánh không hai”. Chứng ngộ Tánh không hai tức là giải thoát, giác ngộ, như kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập pháp môn Bất nhị nói:

“Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn Chẳng hai”.

Tánh ấy, hay thân Phật, hay Pháp thân ấy, từ vô thủy đến nay chưa từng lìa khỏi mỗi chúng ta: “Thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng sanh” (Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thăng Đâu-suất Thiên cung).

Thế nên Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu được đặt nền trên sự đồng nhất của tâm, Phật, và chúng sanh:

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật, và chúng sanh
Cả ba không sai khác.
(Phẩm Dạ-ma Thiên cung)

Ba pháp môn và các hạnh của kinh Hoa Nghiêm là để khai mở, hiển bày Tâm này. Tu hànhquán sát (quán), chánh trụ (chỉ), tùy thuận (chỉ quán song tu) tâm này:

“Nghĩa là ở nơi Phật pháp tư duy quán sát, bình đẳng không trái, tùy thuận rõ biết, khiến tâm thanh tịnh, chánh trụ tu tập, thâm nhập thành tựu” (Phẩm Thập Nhân).

Kinh Viên Giác gọi Nền tảng “tâm, Phật, và chúng sanh; cả ba không sai khác” này là “nhân địa bản khởi”. Nhân địa bản khởi này chính là tánh Viên giác:

“Thiện nam tử! Bậc Vô thượng Pháp vương có pháp là Đại Tổng trì tên là Viên Giác lưu xuất tất cả Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn, Ba-la-mật thanh tịnh để chỉ dạy cho các Bồ-tát. Tất cả nhân địa bản khởi của Như Lai đều y vào tánh Giác tròn sáng thanh tịnh này mà vĩnh viễn được hết vô minh để thành Phật…

Tất cả chúng sanh ở trong cái không sanh không diệt (tánh Viên giác) mà vọng thấy có sanh diệt, thế nên nói là luân chuyển sanh tử.

Thiện nam tử! Nhân địa tu hành Viên giác của Như Lai là biết các pháp là hoa đốm giữa hư không, bèn không có sanh tử luân hồi cũng không có thân tâm thọ nhận sanh tử luân hồi ấy. Cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không. Người tri giác cái Không ấy cũng như hư không. Nhưng cũng không thể nói không có tánh tri giác. Có và không đều mất hết, đó gọi là tùy thuận tánh Giác thanh tịnh. Vì sao thế ? Vì trong Như Lai tạng (Viên Giác) không có khởi diệt, không có thấy biết, như tánh hư không thường bất động, như tánh pháp giới rốt ráo khắp cùng mười phương.

Đó gọi là nhân địa pháp hạnh. Bồ-tát nhân đó mà phát tâm thanh tịnh ở trong Đại thừa. Chúng sanh đời mạt pháp cũng y vào đây mà tu hành thì không sa vào tà kiến” (Chương Văn Thù).

Cũng theo kinh Viên Giác, điều quan trong đối với chúng tanhân địa này cũng chính là tánh Giác thanh tịnh (giác địa) của tất cả chúng sanh.

Luận Khởi Tín nói tu Chỉ Quán là để an trụ vào Chân Như:

“Khi từ ngồi thiền đứng dậy, tới lui qua lại, làm các công việc, phải thường nhớ phương tiện để tùy thuận quán sát. Tu tập như vậy lâu ngày thuần thục thì tâm được an trụ. Do tâm an trụ dần dần mạnh mẽ, tùy thuận nhập vào Chân Như tam muội, phá trừ phiền não, tín tâm tăng trưởng mau thành bất thối chuyển.

Nhờ y vào Chân Như tam muội này mà biết được pháp giới Một tướng, nghĩa là chứng ngộ pháp thân của chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng, không hai. Đó gọi là Nhất hạnh tam muội.

Phải biết Chân Nhưcăn bản của các pháp tam muội. Nếu người ta tu hành theo Chân Như thì dần dần sẽ được vô lượng pháp tam muội”.

Luận Khởi Tín còn nói nhiều đến pháp quán của Bồ-tát đạo, như quán đại bi, quán đại nguyện, quán tinh tấn… tất cả đều y trên Chân Như này.

Để có một khái niệm rõ ràng hơn về Nền tảng của các pháp quán Đại thừa, ở đây chúng ta trích một đoạn về quán Phật A-súc, trong phẩm Thấy Phật A-súc (Phật Bất Động) của kinh Duy-ma-cật:

“Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi ngài Duy-ma-cật: Khi ông muốn thấy Như Lai, thì ông quán Như Lai như thế nào?

Ngài Duy-ma-cật thưa: Bạch Thế Tôn, như con tự quán thấy thật tướng của thân con thế nào, con quán thấy Phật cũng như thế. Con quán thấy Như Lai quá khứ chưa từng đến, tương lai không đi đâu, hiện tại cũng chẳng trụ. Con không quán thấy sắc, không quán thấy sắc Như, không quán thấy tánh sắc. Không quán thấy thọ tưởng hành thức, không quán thấy thức Như, không quán thấy tánh thức. Chẳng phải nơi bốn đại mà khởi, đồng với hư không. Không ở trong lãnh vực các căn, siêu vượt khỏi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Không ở trong ba cõi, vốn lìa khỏi ba nhiễm ô tham sân si, hằng thuận với ba môn giải thoát. Không một không khác, không đây không kia. Chẳng phải tướng, chẳng phải giữ tướng. Không bờ này, không bờ kia, không giữa dòng mà giáo hóa chúng sanh. Quán thấy tịch diệt mà chẳng phải vĩnh viễn diệt mất. Không phải chỗ lấy trí mà biết, không phải chỗ lấy thức phân biệt được. Không tối không sáng. Không danh không tướng. Không mạnh không yếu, Chẳng sạch chẳng dơ. Không ở nơi chốn, không lìa nơi chốn. Chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi… Không khởi, không sanh, không diệt, không lo sợ, mừng chán. Không đã có, không sẽ có, không đang có. Không thể lấy mọi ngôn ngữ để bày tỏ.

Thưa Thế Tôn, thân Như Lai là như thế và được quán thấy như thế. Quán thấy như vậy tức là chánh quán, nếu quán thấy khác đi tức là tà quán”.

Như vậy, quán là quán chính Nền tảng Đại thừa, tức là pháp thân tánh Không. Những pháp quán của Mật tông về sau, như Bổn tôn, cũng đặt trên Nền tảng Pháp thân tánh Không này.

Pháp thân tánh Không chưa từng có sanh tử luân hồi này Lục Tổ Huệ Năng thường gọi là tự tánh. Tự tánh mà “người đời ai cũng vốn tự có” này, thì “vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không động lay, vốn xuất sanh muôn pháp”. Thiền địnhthiền quán với ngài Huệ Năngthiền định thẳng vào tự tánh, thiền quán soi thẳng thấy tự tánh. Vì chỉ y vào tự tánh nên định và quán là đồng thời, là song tu như phẩm Định Huệ của Pháp Bảo Đàn Kinh nói. Định và quán không phải là cái gì được thiết lập tạm thời “ở bên ngoài”. Vì “tự tánh vốn tự tịnh, tự định, vốn phóng đại quang minh”, nên định và quán chính là định và quán của bản thân tự tánh, người tu chỉ cần tương ưng với diệu dụng có sẵn của tự tánh mà thôi. Vì tự tánh là Nền tảng của Thiền tông, nó “không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt” nên trong Thiền thường hay nói “không cần phải lập thêm một mảnh trời trong bầu trời”, “chớ làm chuyện trên đầu lại chồng thêm một cái đầu”.

Về sau tông Tào Động thực hành ngồi thiềnngồi thiền trên cái bản địa vốn thành Phật này, như Kinh Viên Giác nói, “Chúng sanh bổn lai thành Phật, sanh tử Niết-bàn như giấc mộng đêm qua”. Thế nên với Tào Động, một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật: “Ngồi thiền là tự thân làm tự thân thành tự thân”. Mà không chỉ ngồi thiền, “mặc áo ăn cơm uống nước, tất cả đều là tam muội của pháp thân” (Thiền sư Đạo Nguyên). Luôn luôn tương ưng với tánh, xứng hợp với tánh, thì làm công việc gì cũng thành Phật sự”.

Tông Lâm Tế y vào “vô vị chân nhân”, tức là tánh “vô sở trụ” này mà tu hành. Về sau có pháp môn tham công án, tham thoại đầu để tạo ra nghi tình, tức là một cái định cộng với lòng khát khao chân lýnguyện lực để phá thấu qua những phiền não chướngsở tri chướng để nhìn thấy tánh.

Ma-ha Chỉ Quán của Đại sư Trí Khải nói về Chỉ Quán Đại thừa:

“Từ lúc khởi đầu, Chỉ Quán viên đốn lấy thực tướng làm đối tượng. Dù bất cứ cảnh nào đều được nhìn đồng nhất với Trung đạo. Ở đây không có cái gì ra ngoài thật tánh. Khi hành giả trụ vào pháp giới tánh và tâm hợp nhất với cảnh, thì không một sắc một hương nào không phải là Trung đạo. Bởi vì tất cả chư Phật và cảnh giới của chúng sanh, ấm giới nhập, căn trần xứ là Như Thị. Không hề có khổ sanh tử để từ bỏ, bởi vì vô minhphiền não đồng nhất với Bồ-đề…

Một thực tướng, tức là tất cả, không có cái gì ở ngoài. Tất cả thực tại tự tánh thuần tịnh, gọi là Chỉ. Dù tịch nhưng hằng chiếu, gọi là Quán. Mặc dù xác định sự khác biệt giữa hai giai đoạn hành trì quy ước mà nói là trước và sau, bản chất không phải là hai, không có sự chia cắt riêng lẽ. Đây gọi là Chỉ Quán viên đốn”.

Mật thừa có tên là Kim Cương thừa bởi vì y vào pháp tánh được ví như kim cương này. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Tùy thuận pháp tánh như kim cương”.

Một Đại sư của Đại Toàn thiện Tây Tạng là Longchenpa Rabjam nói sự tu hành là y vào pháp tánh:

Hãy thấy bản tánh tự hữu, đó là vua của những cái thấy.

Hãy thiền định về tánh sáng chiếu tự nhiên, đó là vua của những thiền định.

Hãy tu hành những hiện tượngnhư huyễn, đó là vua của những hành động.

Người ta trở thành Phổ Hiền trong trạng thái tự nhiên thành tựu.

(Buddha Mind, Snow Lion, 1989, Thiện Tri Thức 2000)

Tóm lại, Nền tảng, Con đường, và Quả của Đại thừa đều y vào Tánh và hoàn toàn nằm trong Tánh, hay Phật tánh. Karmapa thứ Chín nói trong The Mahamudra eliminating the darkness of ignorance, Đại Ấn, thiền xóa tan bóng tối của vô minh, Thiện Tri Thức 2001:

“Từ vô thủy cho đến vô chung, mỗi người đều có phần riêng của mình là cái được gọi là bản tánh của tự tâm, thực tánh của vạn pháp hay Đại Ấn của tánh Không. Tánh đó không hề sai khác dù con có chứng ngộ hai sự thanh tịnh của nó hay không.

Cái mà mọi chúng sanh đều tự sở hữu là cái Nền tảng (Đại Ấn Nền tảng). Trên Nền tảng đó con đi vào những thiền định trên những con đường vào bản tánh của tự tâm, suốt từ lúc thực hành cho đến địa thứ mười, đó là Con đường. Rồi khi con đã thức giấc hoàn toàn khỏi giấc ngủ vô minh, bản tánh thanh tịnh tối hậu được chứng ngộ, đó là Đại Ấn quả.

Thấy tánh thường trụ, thanh tịnh, hiện tiền của thực tạithoát khỏi mọi ý niệm chủ thể đối tượng bám nắm là Đại Ấn Kiến (cái Thấy Đại Ấn). Tham thiền về ý nghĩa của cái Thấy này mà không có tư tưởng xao lãngThiền định Đại Ấn.

Làm bốn hoạt động thích hợphoàn toàn thoát khỏi mọi ý niệm có cái được làm và có người làm là Hoạt động Đại Ấn.

Thoát khỏi mọi ý niệm có cái để thiền định và người thiền định, không có hy vọnglo lắng như sợ rơi vào sanh tử hay muốn chứng đắc Phật quả là Quả Đại Ấn”.

Như vậy, đối với Đại thừa, Nền tảng là Tánh hay Phật tánh. Con đường khởi từ Phật tánh, hiện hữu trong Phật tánh, và kết thúc trong Phật tánh. Như thế có nghĩa là Con đường là sự khai triển của Nền tảng nơi thân tâm con người. Và Quả chính là Nền tảng đã khai triển trọn vẹn nơi con người.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25633)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19565)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14253)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14352)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35556)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23190)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9951)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14858)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17647)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13181)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31148)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25731)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17494)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12274)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12255)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11749)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12347)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9191)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8486)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9947)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9752)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12026)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9896)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 10962)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14078)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9902)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13032)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23069)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12558)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16542)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16083)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17628)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11579)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11611)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17815)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10510)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11314)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11032)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36395)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9668)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34700)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10230)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12193)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13624)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14645)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24796)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11627)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10305)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15930)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15560)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14510)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12992)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12437)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14564)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18345)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9563)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18505)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18572)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18823)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11823)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47974)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11060)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12544)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31759)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11656)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10115)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant