Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cuộc đời của Choden Rinpoche, một thiền giả ẩn dật

16 Tháng Hai 201400:00(Xem: 14404)
Cuộc đời của Choden Rinpoche, một thiền giả ẩn dật

CUỘC ĐỜI CỦA CHODEN RINPOCHE, 
MỘT THIỀN GIẢ ẨN DẬT


Nguyên tác: “The Life of a Hidden Meditator” – Liên Hoa Việt dịch


choden_rinpocheChoden Rinpoche - thuộc Tu viện Sera Je – là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng. Sau năm 1959, ngài không trốn khỏi quê hương mà cũng không bị cầm tù; ngài sống trong một căn nhà ở Lhasa, không bao giờ ra khỏi căn phòng nhỏ, tăm tối, trống trải trong mười chín năm, ngay cả khi đi vệ sinh, và không bao giờ cạo râu cắt tóc. 

Thị giả của Rinpoche là tu sĩ Tseten Gelek thuộc Tu viện Sera Je nói: “Ngài dùng toàn bộ thời gian để thiền định ở trên giường. Người ta phải đổi chăn mền mỗi tháng một lần vì chúng nặng mùi mồ hôi. Bởi giả làm một người tàn phế nên ngài thường dùng một cái bô để đi vệ sinh. Trước năm 1980, ngài không trò chuyện với bất kỳ ai, ngoại trừ người mang thực phẩm vào phòng.”

“Vấn đề chính tôi muốn làm là thực hành Pháp một cách chân thành, cho dù những điều gì đang xảy ra ở bên ngòai.”Rinpoche nói với tạp chí Mạn Đà La vào tháng Sáu trong chuyến viếng thăm Học viện Vajrapani ở California kéo dài hai tháng. “Đây là động lực của tôi, hoàn toàn đối nghịch với tám mối bận tâm thế tục.”

Ở đây, Rinpoche thuật lại cho chúng tôi về cuộc đời ngài. (Những chữ in nghiêng là của Thượng Tọa Tseten.) 

Choden Rinpoche sinh năm 1933 gần Tu viện Rabten tại Rongbo miền đông Tây Tạng. Năm lên ba tuổi ngài được xác nhậnHóa Thân của Rinpoche đời trước, bản thân vị này từng là ứng viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười Hai, Thinley Gyatso. Việc ra đời của Choden Rinpoche đời trước có những dấu hiệu đầy ý nghĩa. Sau khi Hóa Thân được chọn lựa, người ta không muốn mọi người biết ngài như thế, vì thế họ tôn ngài làm Lạt ma của Tu viện Rabten. 

Từ 3 tới 8 tuổi tôi được một người chú sống trong một ẩn thất chăm sóc, và năm lên 8 tôi vào Tu viện Rabten tại địa phương, ở đó tôi học tất cả những lời nguyện và các nghi lễ. Khi tôi 6 tuổi, lần đầu tiên tôi gặp Pabonka Rinpoche đời trước, và tại Tu viện Rabten tôi đã nhận từ ngài nhiều giáo lý. Sau đó tôi cũng thọ giới Sa Di từ ngài.

Vào lúc đó tôi không biết nhiều về thực hành. Khi tôi được 10 tuổi, một cựu Tu viện trưởng của Tu viện Drepung Loseling dạy tôi lam-rim và tôi dự những giảng khóa, và chính trong khoảng thời gian này tôi bắt đầu quan tâm tới việc thực hành

Tôi không nhớ thật rõ ràng lần đầu tiên tôi được gặp Pabongka Rinpoche, nhưng điều tôi nhớ là Rinpoche rất vui vẻ đối với tôi và tôi thực sự ngưỡng mộ mọi điều Rinpoche đã làm: cách ngài đi, cách ngài phục sức, mọi sự. Bởi thán phục ngài như thế nên tôi cảm nghĩ rằng: “Giá như tôi có thể giống như ngài.” 

Pabongka Rinpoche khuyên tôi đừng ở tu viện địa phương mà tới những tu viện chính gần Lhasa để tu học, như Sera, Ganden hay Drepung. Tôi vào Tu viện Sera Je năm 15 tuổi. Tất cả những tu viện Gelug địa phương trải rộng khắp Tây Tạng và trực thuộc một trong ba tu viện trung tâm, vì thế bạn tuân theo điều đó một cách phù hợp. Ngài Choden Rinpoche đời trước đã học tập tại Sera Je và nghiên cứu chương trình đào tạo geshe tại đó. 

Cuộc hành trình tới Lhasa mất một tháng rưỡi. Bởi lúc đó không có những con đường thích hợp và bạn phải đi chậm với một bày bò yak và nhiều người khác, giống như một đoàn lữ hành. Đó là vào mùa đông và khi đó trời rất, rất lạnh. Bạn phải mặc chuba (1) bằng da thú, vì thế bạn không thể du hành trong y phục tu sĩ.
Tôi nhớ là mình phải ngủ bên bờ đường và đôi khi đi ngược lên những vùng hoàn toàn phủ tuyết. Trời rất lạnh nên tuyết không tan được và bạn phải phủi tuyết khi thức dậy. Không có thứ gì như một cái lều để trú thân. Bạn cũng phải mang theo mọi thứ cần dùng trên lưng những thú vật.

Vào lúc ấy không có dấu hiệu gì của quân đội Trung Quốc (đó là năm 1948), mặc dù đã có những trường hợp các nhóm nhỏ quân đội tiến vào Tây Tạng. Dân chúng sợ Cộng Sản, sợ loại người đó trong xã hội.

Lúc đầu nhóm chúng tôi có ngựa để cưỡi và cũng có rất nhiều bò yak để chuyên chở vật dụng, nhưng về sau chúng tôi bắt đầu cưỡi bò yak thay vì ngựa. Tôi du hành với cha, mẹ và một người anh. Gia đình tôi tới Lhasa để thực hiện một cuộc hành hương, cúng dường và đi nhiễu tại những ngôi chùa ở Lhasa. Sau năm hay sáu tháng, chúng tôi quay trở về nhà.

Năng lực của sự tranh luận như một nền tảng cho những chứng ngộ: Tôi theo những giảng khóa đều đặn của Tu viện Sera, học tập mỗi một trong năm bản văn chính. Đối với phần đầu của việc học tập, bạn cùng các tu sĩ thực hiện những đề tài nghiên cứu, nhưng khi bắt đầu việc nghiên cứu của geshe thì họ trao lại việc khởi động cho các tulku. Tôi học cùng lớp những vị như Geshe Sopa Rinpoche, Geshe Ugyen Tsetsn và Geshe Legden trong hai hay ba năm.

Tại tu viện Sera chương trình chính là triết học, chương trình của geshe (Tiến sĩ Phật Học). Nhưng có những ẩn thất khác nhau của các Lạt Ma, và các ngài sẽ ban giáo lý. Tôi đã tham dự nhiều buổi giảng. Những vị Thầy chính vào thời đó là Bari Rinpoche, Trijang Rinpoche và Ling Rinpoche. Tôi rất thích những giáo lý này, mặc dù đôi khi trong chương trình học tập tại Sera, khi bạn bắt đầu một phần rất quan trọng của bản văn đang được nghiên cứu, bạn không được phép đi tới những giảng khóa khác này.

Tôi thích tranh luận và không quá tệ môn đó. Tôi đã học với một số trong những nhà tranh luận giỏi nhất tại tu viện, như Geshe Loga và Geshe Losang Wangchuk. Sau khi được các ngài hướng dẫn tôi đã có thể tranh luận rất giỏi.

Điều khiến bạn có thể được coi là một nhà tranh luận giỏi là khi tranh luận về một chủ đề được đưa ra, bạn có thể vạch ra cho người khác quan điểm sai lầm của họ; bạn có thể tranh luận về điều đó bằng cách giải thích tại sao quan điểm của họ không phải là quan điểm đúng đắn, sử dụng luận lý học, lập luận, và bằng cách trích dẫn tài liệu Kinh điển. Nhân việc tranh luận bạn cho họ thấy quan điểm sai lầm của họ và họ có thể hoàn toàn từ bỏ nó. Đó là dấu hiệu của một nhà tranh luận giỏi: có thể soi sáng cho đối thủ khuyết điểm của họ và tạo lập nền tảng cho sự hiểu biết đúng đắn nhờ luận lý học và sự thấu suốt Kinh điển.

Với sự tranh luận, bản thân bạn phát triển một sự xác tín rất vững chắc về những gì bạn hiểu biết bởi bạn sử dụng luận lý học, lập luận và việc trích dẫn Kinh điển. Khi bạn có thể làm như thế thì bất kỳ điều gì bạn hiểu biết, nó cũng rất vững chắc trong tâm bạn [và vì thế nó là một nền tảng cho những sự chứng ngộ.]

Nói chung người ta nói rằng trong sân tranh luận của các tu viện, việc bạn chỉ vỗ đôi bàn tay (cử chỉ theo nghi lễ) một lần trong cuộc tranh luận thì còn lợi lạc hơn việc thiền định trong nhiều năm – năng lực của sự tranh luận thì như thế đấy. 
Thường thì ở Sera, Ganden và Drepung bạn nghiên cứu ý nghĩa của tất cả Kinh điển; sau đó bạn vào một trong những Học viện Mật thừa và nghiên cứu ý nghĩa của tất cả các tantra. Đây là tất cả những gì cần phải thiền định. Có những người sau khi nghiên cứu đã trở thành ẩn sĩ, hiến dâng trọn đời mình để thiền định

Những người khác sống trong tu việnthực hiện mọi sự thiền định trong môi trường tu viện. Những người khác chọn con đường trở về những tu viện địa phương của họ trong các làng mạc hay thị trấn nào nơi họ xuất thân để giảng dạy hay thiền định

Thầy tôi, Geshe Losang Wangchuk, thường nói rằng ở trong một tu viện và giảng dạy thì ích lợi hơn là ra đi để thiền định, bởi khi ngài biểu lộ ước muốn nhập thất, Trijang Rinpoche đã khuyên ngài cưỡng lại ước muốn đó, vạch cho ngài thấy những lợi ích của việc giảng dạy cho người khác thì hơn hẳn việc tự mình ra đi để thiền định. Khi giảng dạy bạn mang lại lợi lạc cho rất nhiều người, nhưng khi bạn thiền định thì chủ yếu là bạn làm lợi lạc cho bản thân.

Triết học không được sắp đặt cho việc thiền định, vì thế những gì bạn thiền định là những điều giống như các giai đoạn khác nhau của con đường dẫn tới Giác ngộ, là điều hoàn toàn được sắp đặt cho thiền định. Khi ấy bạn có thể sử dụng mọi chất liệu vật chất, mọi thông tin của những nghiên cứu triết học và bạn có thể áp dụng nó để làm phong phú, để tô điểm cho việc thiền định của bạn.

Một ngày tiêu biểuTu viện Sera: Buổi sáng ở tu viện, ngay trước khi bình minh, những lời cầu nguyện buổi sáng đã bắt đầu và kéo dài khoảng hai giờ. Sau đó khởi đầu những khóa tranh luận. Khoảng 11 giờ bạn cùng mọi người trở vào để cầu nguyện, và trà được dọn ra. Đó là bữa trưa của bạn. Tu viện chỉ cho món trà, vì thế các tu sĩ sẽ tới với một nắm tsampa, và đó là bữa ăn trưa của họ.

Sau đó bạn tranh luận, rồi cầu nguyện, rồi lại tranh luận. Sau khóa tranh luận cuối cùng bạn có thể trải qua một giờ rưỡi trong phòng của bạn.

Không có những lớp học được tiêu chuẩn hóa – bất kỳ khi nào có giờ rảnh là có lớp học. Có những thời kỳ trong tu viện không có các khóa tranh luận, và chính trong thời gian ấy những lớp triết học rất sôi nổi.

Sau một tiếng rưỡi giải lao bạn tụ họp để tham dự một khóa tranh luận rất dài, và tiếp theo là một khóa cầu nguyện, ở đó bạn tụng Hai mươi mốt Lời Tán thán Đức Tara và những lời cầu nguyện Bổn Tôn Dù Trắng (Bạch Tán Cái) – những bài tương tự như vậy. Sau đó bạn cố gắng thực hiện tiết tranh luận khác, và khi mặt trời sắp lặn bạn được nghỉ giải lao. Kể từ lúc mặt trời lặn, mọi điều bạn đã nhớ bạn phải tụng niệm để không quên mất. Nếu bạn học các lớp cao thì bạn được phép ở lại trong phòng bạn để tụng niệm, nhưng nếu bạn còn trẻ thì bạn phải ở tại những khoảng đất trống là nơi diễn ra những cuộc trì tụng. Bạn hát lớn tiếng một mình bạn.

Trong lúc đó có thể có nhiều người tụng những bài cầu nguyện đến tận bình minh ngày hôm sau. Lớp Trung Đạo và lớp của những người nghiên cứu những sự Viên mãn (ba la mật) lần lượt diễn ra suốt đêm. Khi một lớp sắp đi ngủ, lớp khác sẽ bắt đầu khóa tranh luận của họ, và họ ở lại đó mãi cho tới khi đọc những lời cầu nguyện buổi sáng. Vì thế suốt ngày hai mươi bốn giờ luôn vang lên âm thanh của Pháp. Chẳng bao giờ có thời điểm nào mà bạn không nghe Pháp âm trong tu viện.

Rinpoche đã hoàn thành mọi việc nghiên cứu cần thiết vào năm 28 tuổi, đạt được thứ hạng Lharam cao cấp nhất. Trijang Rinpoche và nhiều Lạt ma cao cấp yêu cầu ngài nhanh chóng lấy học vị geshe (tiến sĩ Phật Học), nhưng vào lúc đó guru gốc của ngài, là Tu viện trưởng của Sera Je, không cho phép ngài trở thành một geshe. Vị Thầy này muốn Rinpoche tiếp tục nghiên cứu. Ngài lại trải qua những sự nghiên cứu, chủ yếu là các bản văn về những giới nguyện tu sĩ, Vinaya (Luật Học). Ngài nghiên cứu chúng nhiều lần. Rồi người Trung Quốc đến.

Ngài không bao giờ mặc y phục đặc biệt của tulku, và mặc dù xuất thân từ một gia đình viên chức, ngài không bao giờ có labrang riêng, căn hộ riêng, tại Sera. Ngài hòa nhập với những tu sĩ bình thườngmọi người yêu mến ngài.

Các Guru chính của Rinpoche là Pabongka Rinpoche, Trijang Rinpoche và Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ngay từ lúc còn trẻ mục đích chính yếu trong việc nghiên cứu của ngài là có thể thực hành những gì ngài đã học, vì thế ngài tập trung vào ý nghĩa của Kinh điển. Lúc ngài khoảng 10 tuổi, ngài có một ý hướng to lớn là thực hành những điều ngài học tập.

Tôi lưu lại lớp Lharam trong nhiều năm. Một trong những vị Thầy của tôi là một Tu viện trưởng bảo tôi: “Con còn trẻ. Lý do gì khiến con phải vội lấy học vị geshe? Hãy tiếp tục nghiên cứu.” Khi tôi có thể lấy học vị geshe thì tôi khoảng 28 tuổi. Khi người Trung Quốc tới thì tôi 29 tuổi, vì thế sau đó tôi chẳng bao giờ có sự may mắn.

Tôi đã hoàn thành việc học tập trong khoảng mười bốn năm, nhưng nếu đi theo hệ thống của tu viện thì bạn mất khoảng ba mươi năm. Như thế những tu sĩ phải mất một thời gian dài mới lấy được học vị geshe. Đó là vì ý nghĩa của các Kinh điển thì rất, rất sâu xa. Bạn càng có thể phân tích nó thì sự hiểu biết sâu sắc của bạn càng trở nên sáng tỏ. Hệ thống này sản sinh ra một số trong những học giả xuất sắc nhất.

Cuộc nổi dậy ở Lhasa năm 1959: Trong thời gian của cuộc nổi dậy chống Trung Cộng, hầu hết các tu sĩ đã trốn thoát. Vì thế nhiều binh lính đã tới và các tu sĩ lo sợ các tu viện sẽ bị phá hủy. Trước cuộc chiếm đóng có hàng ngàn tu sĩ, nhưng chỉ còn hai hay ba trăm người ở lại tu viện Sera. Tôi vẫn ở tu viện Sera.

Một hôm, vào lúc rạng đông, binh lính Trung Quốc bao vây tu viện, vây bắt tất cả các tu sĩ và gom chúng tôi trong một cái sân. Sau đó họ lục soát tu viện thật kỹ lưỡng. Tất cả các tu sĩ bị quân lính trang bị vũ khí bao vây.

Chúng tôi nghe nói rằng ở miền đông Tây Tạng quân đội đã vây bắt tất cả các tu sĩ và bắn chết họ, vì thế mọi người lo sợ điều đó sẽ xảy ra. Từ bình minh cho tới hoàng hôn tất cả các tu sĩ bị đứng trong sân. Sau đó lính Trung Quốc cho các tu sĩ sắp thành một hàng và mang tất cả đi – mọi người nói: “Chúng ta bị mang đi giết,” nhưng sự việc không xảy ra như vậy, họ chỉ cầm tù mọi người.

Tôi ở trong tù khoảng một tháng. Bởi không có sẵn một nhà tù, họ đã dùng một trong những ngôi chùa chính của Sera Je, và họ không cho bất kỳ ai ra ngoài, ngay cả để đi tiểu! Chúng tôi phải dùng một cái thùng lớn thường được sử dụng để đựng nước cúng dường – bạn không thể quét dọn toàn thể sàn nhà.

Đôi khi vào giữa trưa họ cho chúng tôi nước ấm để uống, và nếu những ai có tsampa của riêng họ thì họ dùng nó với nước. Hai hay ba trăm tu sĩ chúng tôi sống như thế trong gần một tháng,

Họ bắt đầu cách ly tất cả các Lạt ma, geshe, và tất cả những ai giữ chức vụ quản lý. Họ phân loại người, và những tu sĩ bình thường bị giam giữ thành một nhóm. Họ thường nói: “Những người không có danh hiệu là bạn của chúng tôi, còn những người có tước vị thì là kẻ thù.”

Họ dùng những nhóm tu sĩ bình thường để khám phá những nhóm người có tước vị. Nếu những tu sĩ bình thường nào có thể bảo đảm rằng một người có tước vị không tham gia cuộc nổi dậy và không nói điều gì về người Trung Quốc thì vị ấy cũng được thả ra.

Khi sống trong tu viện tôi thường hòa hợp với những tu sĩ bình thường, vì thế một số tu sĩ đã bảo đảm cho tôi, nói rằng mặc dù là một Rinpoche nhưng tôi chẳng phù hợp chút nào với danh hiệu đó, vì thế tôi được phóng thích.

Họ tổ chức những bài học chính trị trong tu viện, dạy các tu sĩ phản bác tôn giáo, phản bác tu viện và mọi sự thực hành. Họ thả từng người có tước vị ra trong một lát, và mọi người – tất cả những tu sĩ bình thường – phải đánh đập người ấy. Nếu những tu sĩ này không đánh thì họ bị coi là những người ủng hộ người có tước vị. Một số vị bị đánh trầm trọng tới nỗi sau đó không đứng dậy nổi.

Tôi bị một chứng bệnh tim nên khi nhìn thấy những điều này xảy ra tôi đã ngã bệnh trầm trọng, vì thế tôi được đưa đi bệnh viện để kiểm tra. Tôi tới Lhasa và ở đó năm hay sáu tháng.

Vào tháng hai năm 1960, họ vây bắt tất cả các tu sĩ sống ở Lhasa và nói rằng chúng tôi không thể ở đó mà phải trở về tu viện nơi chúng tôi xuất thân. Tôi trở về Sera. Tôi vẫn sống như một tu sĩđắp y

Khi tôi trở lại tu viện, ở đó có một cuộc tổng phê bình và hạ nhục Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi bạn bị cưỡng bách dự những cuộc biểu tình này, bạn không có sự chọn lựa, bạn phải tham dự vào việc lăng nhục. Trước đó tôi không được khỏe vì thế tôi tìm cách ngủ và không phải tham dự. Người Trung Quốc đưa bác sĩ tới kiểm tra mạch của tôi, và vì bị bệnh tim nên mạch của tôi nhảy rất mạnh, tôi được miễn dự những cuộc biểu tình này.

Trong khi đó, điều kiện sống tại tu viện càng lúc càng căng thẳng. Khi ấy dân chúng ở Lhasa được tự do hơn những người trong tu viện một chút, vì thế khi nghe nói các tu sĩ khốn khổ như thế, các cư sĩ nói những điều như: “Tôi mong là mình không bao giờ bị tái sinh làm tu sĩ!” Đã tới thời người ta nói ngay cả những điều như thế! Sau đó tôi rời tu viện và tới Lhasa, ở đó tôi sống với một người bà con.

Chẳng bao giờ tôi có ý tưởng trốn đi. Người Trung Quốc thường lập đi lập lại: “Tuyệt đối các ông không thể nào trốn thoát,” và người ta cũng có quá ít thông tin về cách thực hiện điều đó khiến cho ngay cả việc trốn đi cũng không là một chọn lựa để cân nhắc trong tâm bạn.

Nhập thất mười chín năm: Tôi thực hiện nhập thất Chulen (2) trong một thời gian, nhưng người Trung Quốc ngăn tôi lại. Họ nói bạn có thể thực hành Pháp, nhưng tới khi thực hành thì có nhiều sự hạn chế, và họ cảm thấy Pháp không tốt và các thực hành không có thực chất. Vì thế tôi sống ở Lhasa tới khoảng năm 1964, làm các thực hành chính Guhyasamaja, Yamantaka và Heruka, và ban một vài giáo lý ở nơi nào có thể.

Vào lúc xảy ra cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1965, mọi sự thậm chí còn trở nên căng thẳng hơn trước. Chính vào tháng Tám hay tháng Chín năm 1966 họ bắt đầu phá hủy điện Jokhang, tất cả những linh vật trong các ngôi chùa, và cũng như tất cả những linh vật mọi người cất giữ tại nhà riêng; đó là một cuộc hủy diệt tập thể. Ngoại trừ nơi có pho tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và một gian phòng của các Pháp Vương, họ đã tiêu hủy toàn thể ngôi điện. 

Điện Potala không bị phá hủy nhiều như những nơi khác. Tại Sera, Drepung và Ganden, một số các ngôi chùa chính có phần được bỏ mặc trong một điều kiện tốt đẹp, nhưng những đền chùa khác đã bị phá hủy. Năm 1969 là năm họ biến Ganden thành bình địa.

Cùng với cuộc Cách mạng Văn hóa tôi ngừng hoàn toàn mọi thực hành bên ngoài. Tôi sống với những người thân ở Lhasa. Tôi tuyệt đối không bước ra ngoài. Trong thời gian này tôi ngủ. Tôi sống trong một căn phòng trong nhà của vợ người em họ tôi, cô ta mang hai dòng máu Tây Tạng và Nepal. Người Trung Quốc tới cả đêm lẫn ngày bất kỳ lúc nào– đôi khi rất sớm, đôi khi trễ – để kiểm tra xem tôi đang làm gì, tôi có ngủ không, tôi có thực sự bị bệnh hay không. Khi họ đi khỏi tôi ngồi dậy và thực hành.

Vào thời điểm đó bạn hoàn toàn không có những vật linh thánh, không có các pho tượng hay Kinh điển. Nếu họ nhìn thấy bất kỳ Kinh văn nào thì bạn sẽ bị rắc rối lớn. Cho dù bạn mấp máy môi không phát ra âm thanh thì bạn cũng bị phiền phức, bởi họ nghĩ rằng bạn đang cầu nguyện. Tôi có một vài hột chuỗi hột nhưng phải cất dấu đi. Tôi có một sợi chuỗi nhỏ và khi người ta tới kiểm tra tôi đã dấu nó trong một cái túi bí mật trong quần áo ngay trên đầu gối.

Bởi tôi sống ẩn dấu không bao giờ ra ngoài như thế nên người ta nói rằng tôi đang nhập thất. Nhưng nó không đích thực là một cuộc nhập thất với những vật cúng dường, những điều thuộc về nghi lễ, và v.v.. Trong thời gian này tôi nghĩ tưởng về những giai đoạn khác nhau của con đường dẫn tới Giác ngộ, cũng như Guhyasamaya, Heruka, Yamantaka, tất cả những yoga của giai đoạn phát triển. Và khi có thời giờ thì tôi hoàn thành túc số thần chú của mỗi vị Bổn Tôn.

Trong bất kỳ trường hợp nào, bạn không cần tới ngoại vật để thực hành Pháp. Nó hoàn toàn ở trong tim bạn, trong tâm bạn. Đối với những sự chứng ngộ: bạn không kinh nghiệm những sự chứng ngộ của ba phương diện chính yếu của con đường, (3) nhưng bạn có một sự từ bỏ nhỏ bé, và bởi điều đó bạn có thể sống như thế.

Những thuận lợi của việc sống biệt lập: Một lý do tốt đẹp khi sống ở Lhasa là nếu bạn ra ngoài, bạn phải làm những gì người Trung Quốc bảo, và như thế bạn sẽ tich tập rất nhiều nghiệp xấu.Tôi không làm bất kỳ điều gì mâu thuẫn với Pháp; tôi muốn thực hành Pháp, bởi lý do đó tôi không ra khỏi nhà. Người Trung Quốc đã dùng nhiều thủ đoạn để buộc tôi phải làm việc cho họ. Trước hết họ cố hăm dọa tôi, và khi điều đó không có hiệu quả thì họ mời tôi và nhiều geshe và Lama cao cấp chịu sự quản lý của họ; họ nói họ sẽ cấp cho một căn nhà, xe hơi, thực phẩm, tiền bạc. Nhưng tôi không muốn làm điều đó bởi khi ấy tôi sẽ phải làm mọi điều họ bảo, là những điều hoàn toàn mâu thuẫn với Pháp. Điều chính yếu tôi muốn làm là thực hành Pháp một cách chân thành, cho dù những điều gì đang xảy ra ở bên ngoài. Đây là động lực của tôi, hoàn toàn đối nghịch với tám mối bận tâm thế tục.

Đời sau thì quan trọng hơn đời này – cuộc đời này hoàn toàn như một giấc mộng. Vì thế nếu bạn đi và làm như người Trung Quốc bảo, bạn sẽ có được một căn nhà và xe hơi tốt, bạn có thể hưởng thụ rất nhiều thứ, nhưng điều này sẽ khiến bạn rơi xuống những cõi thấp, ở đó bạn sẽ kinh nghiệm những đau khổ trong nhiều kiếp. Những đời sau thì quan trọng hơn cuộc đời này nhiều. Để làm việc cho những đời sau, tôi đã sống ẩn dật để thực hành.

Khi chết chúng ta không hoàn toàn biến mất. Chúng ta phải tái sinh, và trừ những gì nghiệp của ta định đoạt, ta không có bất kỳ chọn lựa nào trong việc tái sinh nơi những cõi thấp hay cõi cao. Nếu bạn đã từng làm những điều tốt lành trong đời này thì bạn có thể tái sinh trong cõi người, và bạn có thể vui hưởng kết quả của những hành động này. Nếu bạn làm những hành động xấu, nghiệp không biến mất, trong tương lai bạn cũng phải trải nghiệm ngay cả nghiệp nhỏ bé nhất bạn từng tích tập.

Tương lai thì rất dài, kéo dài hằng nhiều kiếp. Cuộc đời này rất ngắn, nó chỉ là một điều tưởng tượng, chỉ là một giấc mộng. Tâm bạn tiếp nối vô tận, và trong đời sau khi bạn chết, một lần nữa nó không biến mất, và bạn lại tiếp tục trong đời sau, và đời kế tiếp – bạn phải trải qua nhiều cuộc đời. Vì thế tất cả những điều này là do những hành vi hiện tại định đoạt. Bạn không có sự chọn lựa. Vì thế hành động hiện tại thì rất quan trọng. Cuộc đời này rất ngắn, có lẽ chỉ một trăm năm – rất nhỏ nhoi nếu so với những đời sau. Đây là lý do tại sao những đời sau thì quan trọng hơn đời này.

Nếu nhìn từ quan điểm của tôn giáo, của Pháp, thì việc sống theo cách này là một thành tựu vĩ đại. Và theo quan điểm của đời này thì đó cũng là lợi lạc to lớn. Trong đời này, nếu tôi không từng làm những điều tôi đã làm thì tôi đã phải đi theo người Trung Quốc và kiếm được một căn nhà, xe hơi và địa vị cao, nhưng khi ấy tôi sẽ phải hành hạ người khác và gây rất nhiều đau khổ cho chúng sinh bình thường. Và nếu tôi hành xử như một người bình thường, không có địa vị cao, v.v.. tôi sẽ phải trải qua rất nhiều đau khổ, giống như tất cả những người Tây Tạng đã phải chịu đựng. Nhưng trong đời này tôi không phải trải nghiệm bất kỳ điều gì trong những việc này. Đây là những điều thuận lợi của lối sống mà tôi đã trải qua.

Thuận lợi khác là tôi được nổi danh trong việc nhập thất hai mươi năm: đây cũng là một lợi lạc liên quan tới đời này! Nó sẽ khiến cho những người khác suy nghĩ: “Thật lạ lùng. Có lẽ Pháp thực sự ích lợi, có lẽ nó chân chính.” Nó có thể làm những người khác được lợi lạc theo cách này.

Tôi đã trải nghiệm rất ít vấn đề trong những năm đó. Tôi chỉ có chút rắc rối về bao tử; và khi tôi bắt đầu bước đi thì không đau đớn gì, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy chân tôi đang qụy xuống! Những người khác nhận ra rằng tôi không thể đi lại bình thường. Cũng thế, bởi trong phòng tối tăm nên tôi không thoải mái khi bước ra ngoài ánh sáng – nó chói quá. Đôi khi có một ngọn nến nhỏ, nhưng tôi không thực sự dùng nó. Ngay cả bây giờ ở Sera tôi cũng thích ngồi trong bóng tối hơn. 
Sau năm 1979 người ta được tự do chút ít: Sau khi Mao trạch Đông mất năm 1979 thì mọi người được tự do hơn chút ít. Nhiều Lạt ma và Geshe tới nhà Rinpoche để nhận các giáo lý. Ngài đã ban một ít giáo lý, nhưng không công khai - chỉ trong gian phòng nhỏ của ngài cho một, hai hay ba người. Người ta biết tới ngài. Năm 1979, ngài đã cạo râu và cắt mái tóc dài.

Sau đó ngài nhận những bức thư của Hóa Thân của Shantideva ở Tu viện Sera tại Ấn Độ và từ tu viện này thỉnh mời ngài tới ban giáo lý, để trao truyền những điều ngài đã học. Ngài cố gắng tìm kiếm một hộ chiếu nhưng lúc đầu điều đó không thực hiện được.

Từ năm 1965 tới đầu năm 1980, khi tôi sống hoàn toàn ẩn dật, người em họ tôi không cho phép bất kỳ ai vào thăm tôi. Ribur Rinpoche tới thăm tôi và em họ tôi cãi nhau với ngài, không cho Ribur Rinpoche thăm viếng. Lý do chính khiến Ribur Rinpoche tới thăm tôi là bởi chính phủ đang thành lập một ủy ban gồm các tulku nhằm nghiên cứu di sản của Tây Tạng, chẳng hạn như những pho tượng và Kinh điển. Mặc dù chính phủ thành lập nó, nhưng các Lạt ma cao cấp đang thực hiện công trình vì các ngài là những người uyên bác nhất. Trong khoảng thời gian này những người trước đây bị người Trung Hoa cách chức đã được phục hồi bởi họ có năng lựckiến thức. Họ được gọi là ủy ban Norbulingka.

Người Trung Quốc muốn tôi gia nhập rất nhiều ủy ban mà họ đang thành lập, nhưng vì tôi không tham gia gì hết nên họ không thích tôi lắm. Từ năm 1981 trở đi, họ cấp visa để mọi người có thể đi Ấn Độ và Nepal, nhưng mặc dù đã xin tôi chẳng bao giờ được chấp thuận.

Rinpoche đã cố gắng suốt trong ba năm để có hộ chiếu đi Ấn Độ, và cuối cùng một người bạn thân của ngài là Pagpala Gelek Mamgyal, một Lạt ma cao cấp nhất của tỉnh Kham và đứng hàng thứ ba ở Tây Tạng, đang giữ một địa vị cao trong vùng tự trị Tây Tạng (hiện vị này giữ chức vụ Ban Thiền Lạt ma), và ông đã giúp Rinpoche có hộ chiếu. Cuối cùng vào năm 1985 Rinpoche kiếm được hộ chiếu và có thể đi Ấn Độ một cách hợp pháp

Ấn Độ: Khi tới Dharamsala, tôi tới đúng lúc Đức Đạt Lai Lạt Ma ban lễ nhập môn Guhyasamaja, Heruka và Yamantaka. Tôi rất sung sướng được nhìn thấy Ngài, và Ngài cũng rất vui mừng. Ngài nói: “Việc ngài đến vào một dịp tốt lành như thế để nhận những lễ nhập môn này có nghĩa là chúng ta có samaya rất thanh tịnh.”
Tôi đã nhận nhập môn Kalachakra từ Đức Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1985. Tôi hỏi Ngài tôi nên làm gì: trở lại Tây Tạng hay ở lại. Ngài bảo tôi ở lại và giảng dạy những gì tôi đã học và truyền bá Giáo Pháp.

Về sau này Ngài bảo tôi rằng tại Nepal không có nhiều Lạt ma Gelug cao cấp, vì thế nếu tôi tới đó thì thật là tốt đẹp. Tôi đã ở đó trong tám hay chín tháng nhưng mắc bệnh và phải trải qua một ca mổ, vì thế tôi không làm lợi lạc nhiều. Tôi xin Ngài thứ lỗi đã không ở Nepal được vì các tu sĩ của tu viện Sera Je ở miền nam Ấn Độ thỉnh cầu tôi tới giảng dạy.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bảo tôi đừng bao giờ làm đứt đoạn những điều tôi hứa nguyện trong hiện tại và giảng dạy mọi điều tôi đã học, vì thế từ lúc đó tôi sống trong Tu viện Sera và tới Dharamsala bất kỳ khi nào Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy.

Trong mười lăm năm, Rinpoche chủ yếu giảng dạy chương trình đào tạo học vị geshe tại Tu viện Sera Je ở miền Nam Ấn Độ. Ngài thường ở tại Sera, và ngài ban những giáo lý về năm chủ đề nghiên cứu chính.Ngài có ba lớp vào buổi sáng và bốn lớp vào buổi chiều; ngài có nhiều học trò, từ những cậu bé cho tới các geshe. Vào ngày thứ Ba, ngày nghỉ tại Sera, Rinpoche dạy văn phạm, thi ca và tantra cho một vài geshe. Đôi khi Rinpoche sẽ ban những lễ nhập môn hay giáo lý lam-rim tại Sera, và có rất nhiều tu sĩ tới dự nên phải sử dụng phòng hát tụng chính. 

Sức khỏe của ngài rất tốt. Năm 1996 chúng tôi trở về Tây Tạng, và thực hiện một chuyến hành hương suốt Trung Quốc và hầu như xuyên qua Tây Tạng.

Rinpoche tới Tây phương lần đầu tiên vào năm 1998. Thượng Tọa Massimo Stordi mời ngài tới Ý, và một Rinpoche ở Ý, cũng như Geshe Soepa tại Đức. Trước đó Rinpoche không đi bất kỳ nơi đâu bởi Sera cần ngài, bây giờ Sera có nhiều geshe, vì thế Rinpoche có thể du hành

Lạt ma Zopa Rinpoche đã khẩn cầu một lung của toàn bộ một bản văn của Je Tsong Khapa và của ba mươi sáu vị đệ tử chính của Ngài, nhưng không có may mắn để thực hiện điều này. Lạt ma Zopa Rinpoche thỉnh cầu Choden Rinpoche tới ban một lễ nhập môn Vajrapani (Kim Cương Thủ) Bí mật tại Học viện Vajrapani ở California và giảng dạy trong khóa nhập thất

Rinpoche đã nghiên cứu Vinaya (Luật) thật sâu rộng. Tại Sera ngài được gọi là Vị Trì giữ Vinaya bởi ngài thấu suốt từng nấc thang của Vinaya. Ngài giữ giới hạnh trong sạch và đã làm lễ xuất gia cho hơn 600 người Tây Tạng – và hiện nay ngài đã cho thọ giới xuất gia tại phương Tây. Ngài rất nổi tiếng trong tu viện, và vì thế nhiều học viên tới nhận giáo lý của ngài, đặc biệt là về Vinaya, bởi giới đức của ngài rất thanh tịnh

Ông cố, ông và thân phụ của Rinpoche đều là những đại hành giả. Ông cố và ông của ngài là nhữngKagyupa và thân phụ ngài theo dòng Gelug, nhưng họ đều là những vị trì giữ lam-rim. Họ trải qua hầu hết cuộc đời trong ẩn thất, mặc dù không giống như Rinpoche, họ cũng không hề bước chân ra ngoài. Họ đều là những vị trì giữ dòng truyền thừa. Rinpoche được bao quanh bởi những hành giả này.

Thân mẫu của ngài sinh tám trai và năm gái, và năm người trong số các con trai của bà đã trở thành những tu sĩ. Một người trong số đó, người anh em thứ ba, đã đạt được những chứng ngộ cao cấp. Vị này tên là Geshe Thubten Yampil, ngài thông suốt mọi giáo lý Phật Giáo, đạt được những chứng ngộ và đã sáng tác năm mươi quyển sách và ban lễ nhập môn Kalachakra ở Tây Tạng. Người thứ hai cũng là một thiền giả nổi tiếng. Phụ mẫu của Rinpoche đã qua đời và trừ một người ra, tất cả các chị em gái của Rinpoche cũng đã mất. 

Hiện nay có Hóa Thân của người anh em thứ hai này ở Kham, Tây Tạng, ngay trong nhà của gia đình ngài. Cũng có Hóa Thân của người anh em thứ ba ở Tây Tạng, cũng như Hóa Thân của người anh cả. Hóa Thân của người anh thứ hai có thể tụng Kinh điển Phật Giáo mà thậm chí không nhìn vào sách, chúng đến thẳng từ trái tim ngài. Khi Choden Rinpoche thuật lại cho Đức Đạt Lai Lạt Ma điều này, Ngài hỏi ông ta có phải là một tulku không, nhưng Choden Rinpoche nói là không, đó là anh thứ hai của ngài trước đây.

Bài báo này xuất hiện lần đầu tiên trong Tạp chí Mandala, Tháng Bảy/Tám năm 2000.

Nguyên tác: “ The Life of a Hidden Meditator”
http://www.kurukulla.org/program/choden_articles/hidden.html

Chú thích:

(1) chuba: Ngoại y truyền thống của người Tây Tạng, cả nam lẫn nữ. Kiểu của người nam có các tay áo dài.
(2) Chulen: sự trích xuất các chất tinh túy, phương pháp khiến ta không phải dùng thực phẩm thông thường, chỉ dùng những chất thể hay yếu tố nào đó với số lượng ít ỏi.
(3) Ba phương diện chính yếu của con đường: những giáo lý cốt tủy của lam-rim: sự từ bỏ, Bồ Đề tâm, và tánh Không.

Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13947)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54946)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9056)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14077)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14117)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13806)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36145)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18093)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19098)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19037)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20186)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17544)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15846)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14891)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14606)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46040)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35791)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20947)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21468)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23245)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34162)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19402)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18817)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20078)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18264)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19734)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33299)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34296)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37541)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21036)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17791)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63443)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17272)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49474)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27232)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20166)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22894)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18808)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16246)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17785)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15920)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15294)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12585)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13272)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12421)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13110)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16126)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12125)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21500)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11202)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22572)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14937)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14369)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12516)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18794)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14627)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43692)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56800)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13758)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47335)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13563)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14459)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33163)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38243)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15322)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40201)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43239)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46465)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant