Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vì Sao Niệm Phật Không Vãng Sanh

11 Tháng Hai 201508:49(Xem: 10341)
Vì Sao Niệm Phật Không Vãng Sanh
VÌ SAO NIỆM PHẬT
KHÔNG VÃNG SANH

Pháp sư: HT. Tịnh Không
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Giảng tại Tịnh tông học hội, Singapore, tháng 05- 1998




vi-sao-niem-phat-khong-vang-sanh-tinh-khongThỉnh cầu khai pháp hội

Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, quyển thứ ba: “Nhĩ thời Phật cáo, Địa Tạng Bồ Tát, ngô kim ư Đao Lợi Thiên cung, nhất thiết chúng hội, thuyết Diêm Bồ Đề bố thí, giảo lượng công đức khinh trọng, nhữ đương đế thính, ngô vi nhữ thuyết”. Có nghĩa, bồ tát Địa Tạng hướng về đức Thế Tôn thỉnh giáo: “Chúng sinh sáu cõi tu phước không giống nhau, nên quả báo cũng không giống nhau. Xin Thế Tôn đem chân tướng sự thật này vì chúng con mà diễn nói”.

“Nhĩ thời” chính là lúc bồ tát Địa Tạng thỉnh giáo sự việc này. Ngay khi đó, ở cung trời Đao Lợi, Thế tôn tự xưng “ngô” diễn nói trong tất cả chúng hội bao gồm đại chúng của mười pháp giới, thù thắng hi hữu không gì bằng. Do đó hội này không hề khác biệt so với hải hội của kinh Hoa Nghiêm, chẳng qua pháp hội này mượn cung trời Đao Lợi để khai hội. Tận hư không khắp pháp giới, chúng sinh sáu cõi tham dự, tình huống cũng hoàn toàn giống kinh Hoa Nghiêm, cũng đều là chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở sáu cõi, ác đạo, dùng thân phận các quỷ vương xuất hiện ngay trong đại hội. Cho nên tất cả hội chúng hy hữu chưa từng có.

Công đức bố thí nặng hay nhẹ?” là lời thỉnh cầu của bồ tát Địa Tạng nói về Diêm Phù Đề cũng là địa cầu của chúng ta. Người trên địa cầu này muốn biết tu phước được quả báo nặng hay nhẹ thì phải chú tâm lắng nghe Thế tôn giảng giải, “nhữ đương đế thính, ngô vi nhữ thuyết”.

Thế tôn lược giảng

Địa Tạng bạch Phật ngôn: “ngã nghi thị sự, nguyện lạc dục khai”, có nghĩa “con rất nghi ngờ việc này, hoan hỉ mong ngài nói ra chân tướng”. Trong phần chú giải, pháp sư Thanh Lương giải nghĩa như sau: “Diêm Phù Đề nhân, năng hành bố thí giả, tất báo sinh thiên thượng”, tức là chân thật tu bố thí, bố thí đúng lý đúng pháp, bố thí là phước, tu phước, phước báu lớn sẽ sinh đến cõi trời. Thế Tôn ở cung trời cũng đã nói về công đức bố thí.

Phù bố thí chi nghiệp nãi chúng hành chi nguyên”

Có nghĩa, tài vật vô thường, người người tranh nhau, phàm phu tiếc rẻ, không buông xả. Người thế gian không từ bất cứ thủ đọan gì để tranh đoạt tài vật, tạo nghiệp. “Toại sử thê nhi giác mục”, gia đình bất hòa, anh em chống trái nhau, quyến thuộc chia lìa, thân bằng cách biệt,… gần như sáu căn của chúng ta đều tiếp xúc với những cảnh tượng này, nên phải hiểu rõ nghiệp nhân quả báo, cần phải lắng nghe khai thị của Thế Tôn.

Phật nói Địa Tạng Bồ Tát: cõi Nam Diêm Phù Đề có các Quốc Vương, Tể Bổ Đại Thần, Đại Trưởng Giả, Địa Sát Lợi, Đại Bà La Môn v.v., có địa vị, tiền của, là người có khả năng bố thí, nếu gặp người nghèo khổ bần cùng cho đến bệnh tật câm điếc, ngờ nghệch đui mù, không đầy đủ các căn, đều xem là đối tượng để bố thí. Theo nhà Phật, phước điền có ba loại, trong đó “bi điền” chỉ người thế gian đáng thương, do đời quá khứ không tu phước, tuy được thân người nhưng lại sống thiếu thốn, nghèo khổ.

Chúng ta có khả năng nhìn thấy những chúng sinh này, phải dùng tâm đại từ bi, tận lực giúp đỡ. Kinh nói “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”, phước báu như bóng theo hình, trồng phước được phước, vì vậy phải thông hiểu đạo lý này.

Thị đại quốc vương đẳng”

“Đẳng” ở đây như đã nói “Tể Bổ Đại Thần, Trưởng giả, Sát Lợi, Bà La Môn đẳng”, chính là người ở xã hội này, có địa vị, tiền của, năng lực, phải nên tu bố thí. Phật trong kinh thường nói, phước báu cùng chia sẻ với chúng sinh thì phước báu này sẽ lớn hơn, và được hưởng thụ mãi mãi khôn cùng tận. Tham lam bỏn xẻn, chỉ hưởng thụ cá nhân thì dù phước báu có lớn mấy cũng chỉ thọ dụng một đời này, đời sau không còn nữa. Không còn phước báu thì dù có tránh được ba đường ác, cũng chịu nghèo khổ, các căn không đầy đủ, bị đọa lạc ở cõi nhân gian.

Người hiểu rõ đạo lý này, biết được chân tướng sự thật, phải nên tu phước. Phú quý, bần tiện thảy đều tu phước. Quả báo trong tương lai là bình đẳng, chỉ cần tận tâm tận lực, việc tu phước đều được viên mãn. “Thị đại quốc vương đẳng, dục bố thí thời”, bố thí mọi lúc mọi nơi, không nên gián đoạn, đặc biệt với tâm đại từ bi, thanh tịnh không phân biệt, không chấp trước, đối với tất cả chúng sinh chỉ đồng một tâm yêu thương, “nhược năng cụ đại từ bi, hạ tâm hàm tiếu, thân thủ biến bố thí”.

Hạ tâm, tức khiêm nhường, tôn trọng người, không hề có chút tập khí ngạo mạn, càng không thể có thái độ ngạo mạn, gọi là “hạ tâm hàm tiếu”. “Thân thủ biến bố thí”, đích thân thực hiện, nếu nhân duyên không đủ thì khuyến tấn người khác hành bố thí với thái độ “hoặc sử nhân thí, nhuyễn ngôn úy dụ”, ôn hòa, an ủi người tiếp nhận bố thí.

Thị quốc vương đẳng, sở hộ phước lợi, như bố thí bách hằng sa Phật, công đức chi lợi”

Ai cũng biết, bố thí cúng dường Phật công đức to lớn, người người đều thích cúng dường Phật, lơ là đối với những người cùng khổ. Nhưng thực ra, bố thí cho những hoàn cảnh bất hạnh trong xã hội, phước báu thu được không khác gì cúng dường chư Phật Như Lai. Cúng dường chư Phật và bố thí người bần tiện đều với tâm chân thành cung kính thì phước báu cũng đều như nhau. Dùng tâm bình đẳng, phước thu được là phước bình đẳng.

Cũng vậy, chúng ta học Phật, tha thiết muốn ngay đời này làm Phật, không phải không làm được. Phật dạy, nhất định phải xem tất cả chúng sinhcha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai của chính mình. Chúng sinh giàu sang, chúng ta biết đời trước họ tu phước, là cha mẹ quá khứ của chúng ta. Chúng sinh bần tiện, chúng ta cũng hiểu rõ trong đời quá khứ không tu phước, cũng là cha mẹ quá khứ của chúng ta.

Đem tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng để hiếu thuận, bố thí cúng dườnghiếu dưỡng phụ mẫu, là phụng sự chư Phật. Dùng tâm trạng như vậy để đối đãi với mọi người, với tất cả chúng sinh, thì thời gian thành Phật sẽ được rút ngắn. Bên cạnh đó, việc niệm Phật cầu sinh thế giới Tây Phương cực lạc thì đời này nhất định vãng sinh.

Niệm Phật vì sao không thể vãng sinh làm Phật?

xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật. Không phải chư Phật Bồ Tát không giúp đỡ mà chính chúng ta bỏ lỡ cơ hội trước mắt. Do đó cần phản tỉnh, kiểm điểm ở mình, khi thật sự giác ngộ, đạo Bồ Tát sẽ thuận buồm xuôi gió, không còn chướng ngại. Tỉ mỉ quán xét, không chút ngạo mạn, hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng sinh đích thực là cha mẹ quá khứ của ta, xác xác thực thực là “chư Phật vị lai”.

Đức Phật nhìn thấy đời quá khứ của con người, quá khứ còn có quá khứ, quá khứ vô cùng, vô lượng vô biên kiếp đến nay, cùng với chúng sinh có quan hệ quyến thuộc, đồng l quan hệ quyến thuộc thì làm sao có thể đối xử không tốt. Người thế gian thường hay tiếc của, nhìn thấy liền khởi tham sân si mạn, tạo tác nhiều ác nghiệp, phải chịu quả báo.

Chúng ta may mắn gặp được Phật pháp, gặp Đại thừa, được Phật giảng giải tường tận giúp giác ngộ. Sau khi giác ngộ, tâm chúng ta thay đổi rất lớn theo hướng tích cực. Dùng tâm chân thành hiếu thuận để cúng dường đại chúng, phước báu vô lượng như kinh đã nói: “được công đức lợi ích như bố thí trăm Hằng sa chư Phật”. Cơ duyên khó đến, hi hữu khó gặp, chân thật hiểu rồi, chân chính giác ngộ, tự nhiên sẽ toàn tâm toàn lực phụng hiến đại nghiệp này, cũng là cúng dường cha mẹ, cúng dường chư Phật.

Hà dĩ cố”

Thế tôn giảng “Duyên thị quốc vương đẳng, ư thị tối bần tiện bối, cập bất hoàn cụ giả phát đại từ tâm”, đây là điều kiện rất quan trọng bởi vì người tu bố thí phát ra tâm đại từ bi tương đồng với tâm Phật. Có bốn loại từ bi:

- Người thế gian chỉ có “ái duyên từ bi”, thương yêu ai thì từ bi với người đó.

- Người trí có “chúng sinh duyên từ bi”, họ hiểu rằng thương chính mình cũng là thương người khác, thương người khác là thương quốc gia dân tộc, cho đến thương yêu tất cả chúng sinh, tâm lượng của người này rộng lớn. Người có tâm lượng lớn, đại đa số đều thuộc về nhân vật lãnh đạo trong xã hội, bố thí cúng dường phục vụ rộng khắp.

- Bồ tát giác ngộ có “pháp duyên từ bi”, xem tất cả chúng sinhcha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai mà tu hiếu kính, cúng dường. Pháp duyên từ bi còn có điều kiện, không phân biệt, không chấp trước, hoàn toàn tự nhiên.

- Theo Phật pháp, “pháp nhĩ như thị” mới gọi là “đại từ bi”, phước báu này vô lượng vô biên, chúng sinh duyên hay pháp duyên không thể so sánh. Cho nên người phát tâm đại từ bi, giống như Phật.

Ngày nay học Phật, muốn tu đại phước báu, chúng ta thảy đều bố thí tài vật thuộc sở hữu của mình, bố thí cúng dường 100%, tâm 100% thanh thịnh, thì quả báo có được cũng 100%, như vậy mới gọi là bình đẳng pháp, bất kể người có thế lực, tiền tài, hay người nghèo khổ cũng có thể bố thí. Chẳng ai bần cùng đời đời kiếp kiếp cũng chẳng ai phú quý mãi mãi. Theo kinh Phật, người bần tiện đời sau đại phú quý, người phú quý đời sau bần tiện.

Vì khi hưởng thụ phú quý, rất khó bố thí viên mãn, trong khi người bần tiện lại có thể tu phước báu. Kinh Tiểu thừa đưa ra câu chuyện một người ăn xin bần tiện đến cùng cực, bà được bố thí một hào, dù ít nhưng bà vô cùng vui sướng. Đi một đoạn, bà gặp đức Phật đang từng bước khất thực. Nghĩ mình thân thế thê thảm, đời quá khứ không tu phước báu, bà liền đem một hào duy nhất có được cung kính cúng dường Phật. Sau khi mạng chung, bà sinh vào gia đình trưởng giả giàu có, lớn lên được tấn phong hoàng hậu. Vì sao được phước báu lớn như vậy? Vì bà ấy phát tâm đại từ, tâm chân thành cung kính, phước từ đó mà sinh ra. Một hào không có giá trịgiá trị chính ở tâm bà.

Các vị quốc vương nhiều tiền của, bố thí, nuôi dưỡng, giáo dục nhân dân, nếu không dùng tâm đại từ bi, phong cách khiêm hạ, thì phước báu của họ sẽ không đáng kể, đời này làm quốc vương, đời sau chỉ được làm đại thần, càng lúc càng nhỏ. Bố thí tiền của nhiều nhưng tâm không thanh tịnh, không đủ từ bi, thì đại từ bi hạ xuống thành pháp duyên từ bi, chúng sinh duyên từ bi, ái duyên từ bi, đời sau thấp hơn đời trước.

Phật trong kinh luận đem đạo lý này nói rất nhiều, rất tường tận, chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội, phải ghi nhớ, mọi lúc mọi nơi, đối nhân xử thế tiếp vật. Lời Phật dạychân thật, cho nên phải khiêm nhường cung kính đối với tất cả mọi người, tận tâm tận lực giúp đỡ như giúp đỡ cha mẹ mình. Quả báo phước lợi lớn hay nhỏ đều ở dụng tâm, không phải ở số tiền nhiều hay ít mà chúng ta bố thí.

Thị cố phước lợi”

Cái phước đạt được, “hữu như thử báo”, nếu chúng ta muốn bố thí trăm Hằng hà sa chư Phật Như Lai, chỉ có cách dùng tâm đại từ bi như Phật đã nói: xác xác thực thực chúng sinh chính là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai. Dùng tâm chân thành cung kínhbố thí cúng dường những người bần cùng hạ tiện, phước báu ngang bằng cúng dường Hằng hà sa chư Phật. Sông Hằng dài hơn sông Trường Giang Trung Quốc rất nhiều, cát sông Hằng mịn như bột, số cát sông Hằng không thể tính điếm. Trong câu chuyện về người ăn xin vừa nêu, một hào tiền chân thành cung kính cúng dường Phật, quả báo đời sau được làm hoàng hậu, cũng thể hiện nội dung này.

Chúng ta có thể cúng dường bố thí trăm Hằng hà sa số chư Phật Như Lai, quả báo không thể nói hết. Phật nói những lời này tuyệt đối chẳng phải dùng phương tiện khéo léo bảo chúng ta đi chăm sóc những người bần khổ, người già khó khăn, mà Phật chân thật dạy ta hướng tâm thanh tịnh. Phàm phu mê mất đi tự tánh, không thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sinh, xung quanh chúng ta nơi đâu cũng đều là phước điền. Ấy vậy mà chúng ta không biết cách trồng phước, trái lại đi tạo tội nghiệp. Quả thật đáng thương!

Người biết tu phước, hiểu được bố thí cúng dường, người đó chính là Bồ tát. Đời sống của chúng tabố thí cúng dường, việc làm của chúng ta cũng là bố thí cúng dường, không luận nghề nghiệp, chức vị, tất cả đều vì xã hội đại chúngphục vụ, chỉ cần có tâm trạng như vậy cũng là bố thí cúng dường. Nghĩ rằng nghề nghiệp này của ta để ta kiếm tiền, vì gia đình ta, vì con cái ta, phước điền vuột mất ngay tức khắc. Cũng đồng một công việc nhưng ý niệm sai biệt, ý niệm tự tư tự lợi chính là phàm phu liền tạo nghiệp, còn ý niệmchúng sinh, vì xã hội, đó chính là Bồ tát, là Phật. Thay đổi ý niệm thì siêu phàm nhập thánh, phước lợi vô lượng vô biên.

Phước báu của Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêm, hay Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta cũng có thể có được nếu biết tu phước. “Bách thiên sinh trung, thường đắc thất bảo cụ túc, hà huống y thực thọ dụng”, phước báu không phải chỉ có một đời một kiếp mà đời đời kiếp kiếp hưởng thọ không cùng tận, vì vậy phải chuyển đổi ý niệm. Người có phước báu, trí tuệ cũng khai mở, gọi là “phước chí tâm linh”, khi phước báu hiện tiền, tâm tư cũng linh mẫn, trí tuệ hiện tiền. Phật dạy “phước huệ song tu”, cái huệ đó chính là giác ngộ thông suốt. Phước là hình thức, khi đã thông suốt, hiểu rõ chân tướng sự thật, huệ liền khai mở.

Phụng sự chúng sinh là đúng, là việc nên làm, phụng sự bản thân là sai, là việc không nên làm. Luôn khởi tâm động niệm, mỗi niệm vì chúng sinh, vì xã hội, vì nhân dân, không còn chút tư tâm nào. Ngay trong cuộc sống thường ngày, từ sớm đến tối, từ đầu năm đến cuối năm, tất cả đều là phụng hiến, đều là bố thí cúng dường, phước báu không thể kể hết.

Phục thứ Địa Tạng, nhược vị lai thế, hữu chư quốc vương, chí Bà La Môn đẳng”

Đây cũng là nói người có khả năng bố thí. “Ngộ Phật tháp tự, hoặc Phật hình tượng, nãi chí Bồ Tát, Thanh Văn Bích Chi Phật tượng, cung tự doanh biện, cúng dường bố thí”. Phần trên nói về việc bố thí người bần khổ, gọi là bi điền. Phần này giảng, bố thí tháp tự thánh tượng, gọi là kính điền. Ngày nay, chúng ta xây tháp, xây chùa, tu tạo hình tượng Phật, quả báo tương lai có được. Thế nhưng duyên của bố thí phải thảy đều đầy đủ. Nếu không đầy đủ duyên, phước báu không thể có được. Như đã nói phải dùng tâm từ bi của Phật để tu. Ngày nay bố thí chùa tháp Phật, bố thí đạo tràng Phật, trước tiên phải quan sát nơi đó chân thật có đạo hay không.

Chúng tôi cũng đã từng nói với các vị đồng tu từ xưa đến nay, đừng xây dựng đạo tràng rồi đi khắp nơi tìm người tu hành, đó là phản duyên, không thể được phước. Hãy xem người chân thật tu hành rồi mới xây dựng đạo tràng cho họ, phước báu này sẽ lớn theo năng lực của chính chúng ta. Ngày nay, một số đạo tràng không còn đúng như pháp. Đạo tràng không đúng pháp gần như nơi nào cũng có.

Đạo tràng xây dựng nguy nga tráng lệ, bên trong không làm đạo, chỉ có mấy người sống trong đó hưởng phước, tạo nghiệp. Bố thí cúng dường đạo tràng như vậy là giúp họ tạo thêm nghiệp, còn bản thân chúng ta tổn phước. Họ tạo nghiệp là do chúng ta giúp đỡ. Họ đọa lạc, chúng ta cũng sẽ bị kéo theo, bị liên lụy.

Kinh Địa Tạng: “bố thí tu tạo chùa tháp hình tượng được phước”. Ấy thế khi gặp ác báo, nhiều người than trách lời Phật không linh, dùng lời lẽ báng Phật, báng pháp, báng Tăng, tăng thêm trọng tội đọa A Tỳ Địa ngục. Phật không nói sai, tại con người hiểu sai ý, bố thí cúng dường chùa tháp, phải tìm người tu hành chân chính, như lý như pháp. Chỉ cần hai ba người tu hành, giúp họ dựng một am tranh, không cần thiết phải xây đạo tràng to lớn, nói cách khác, hình thức đạo tràng lớn nhỏ phải thích hợp với hiện tại.

Xây dựng đạo tràng to lớn cho số ít người tu hành sẽ tạo tội, vì đạo tràng to lớn, mỗi ngày quét dọn mệt mỏi, mất thời gian của việc tu tập. Rất nhiều điện đường phải đóng kín, không có thời gian quét dọn, mỗi năm chỉ có mấy lần pháp hội mới mở cửa, tìm một ít tín đồ đến phụ giúp, còn bình thường không dùng đến, như vậy không đúng pháp. Cho nên vào thời đại này, trong Phật môn tu phước, việc gì là quan trọng nhất? Đó là bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp.

Trước nay có thể bố thí chùa tháp, cúng dường Phật tượng có phước báu lớn là bởi vì xã hội đại chúng đã quen biết, đối với Phật pháp đều có tâm cung kính, phước báu mới lớn. Nhưng hiện nay, công cuộc hoằng pháp truyền bá thông điệp của đức Phật mới là công đức cần được đầu tư.

Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT Giác Minh Duyên
Giảng tại Tịnh tông học hội, Singapore, tháng 05- 1998
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguễn Thành Chiến

09-01-2009 04:12:35

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11333)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10425)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10694)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9659)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9447)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12796)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13160)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13348)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19685)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12414)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13138)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13454)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12929)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12285)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18444)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10586)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12283)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10879)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11103)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14569)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22333)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11501)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10078)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34413)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17573)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32534)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21976)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11119)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17417)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17003)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10606)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10775)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9474)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10554)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12384)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12343)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9922)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9639)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9052)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11737)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13366)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11965)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11203)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11510)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10243)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28058)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7336)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11692)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11586)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11000)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10201)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10163)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13708)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14797)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10407)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11793)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10760)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10434)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10522)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9810)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10555)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9187)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9861)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10085)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10390)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10440)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10003)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9727)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16187)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11451)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11038)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11006)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12105)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15224)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10504)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11616)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10494)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10995)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9932)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10279)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11334)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10896)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12798)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24120)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12509)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10206)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28372)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19223)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10820)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23112)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant