Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Làm Thế Nào Để Khắc Phục Bệnh Khổ

07 Tháng Hai 201507:30(Xem: 8830)
Làm Thế Nào Để Khắc Phục Bệnh Khổ
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHẮC PHỤC BỆNH KHỔ

(Trích lục từ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện)
Người giảng: Lão Pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Học hội Tịnh Tông Singapore
Thời gian: Tháng 09 năm 1998.


Làm Thế Nào Để Khắc Phục Bệnh KhổChúng sanh tạo tác ác nghiệp, đó là cội gốc chân thật của bệnh khổ. Bởi vì Phật, Bồ Tát, A La Hán không tạo ác nghiệp, cho nên các Ngài không bệnh. Đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu Phật Bồ Tát bị bệnh thì đó là thị hiện, đó là hoằng pháp. Ví dụ như bệnh của Ngài Duy Ma Cậthoằng pháp lợi sanh, không phải Ngài bệnh thật, Ngài không thể bị bệnh, Ngài không có lý do gì để bị bệnh. Tất cả chúng sanh khởi tâm động niệm, ý niệm vi tế chính mình cũng không biết. Chúng ta sau khi học Phật rồi, đọc kinh rồi, mới biết được có có ý niệm này. Dù là ý niệm nhỏ, vi tế, nhưng nếu như ý niệm này không phải là niệm thiện thì ý niệm đó sẽ ảnh hưởng đến sinh lý. Nếu như có ý niệm ác lớn thì có thể thay đổi cả thể chất. Các nhà khoa học hiện tại, những bác sĩ thời hiện đại dần dần cũng đã hiểu ra được cái đạo lý này rồi. Cho nên người có tâm lý khỏe mạnh, người có tâm tư ổn định, người có tâm tư tốt, dù bệnh nghiêm trọng có đến với họ thì thân thể họ sẽ rất dễ dàng hồi phục. Người thông thường cho rằng đây là kỳ tích, kỳ thật việc này đâu phải kỳ tích gì, nó có đạo lý của nó.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên chính là một điển hình rất tốt. Mười năm trước ông bị bệnh ung thư, những kết quả xét nghiệm của ông hiện nay vẫn còn đó, dường như ông có hơn 30 tấm phim X quang, ông mang ra hết cho tôi xem, trong lục phủ ngũ tạng đều có tế bào ung thư. Bác sĩ nói ông chỉ còn sống được không quá 3 tháng, nhiều nhất là 6 tháng, đó thật là không còn cách gì cứu. Ông liền buông bỏ vạn duyên, việc hậu sự đều dặn bảo xong, một lòng niệm Phật, cũng không khám bác sĩ, cũng không thèm uống thuốc, chỉ đợi vãng sanh. Việc này là gì vậy? Tâm của ông khỏe mạnh, tâm tư ổn định, dùng cái sức mạnh này làm cho tế bào ung thư bị tiêu mất, dùng loại sức mạnh này hồi phục lại thân thể bình thường. Việc này bác sĩ gọi là kỳ tích, chúng ta thấy thì không phải kỳ tích, việc rất bình thường. Ý niệm có thể chuyển đổi được sinh lý của một con người.

Cho nên thành thật mà nói, ung thư không thể chết người. Ung thư vì sao mà chết vậy? Sợ mà chết! Tôi nói đều có căn cứ trên đạo lý, không phải là lời giả dối. Tất cả bệnh nhân ung thư đều là bị hù chết, bạn nói xem có oan uổng lắm hay không? Cho nên bệnh không thể giết được người, mà đều là do lo sợ mà chết. Chính mình cảm thấy rất là khiếp sợ, ngày ngày lo lắng, ngày ngày sợ chết, ngày ngày nghĩ đến cái chết thì họ làm sao mà không chết chứ? Họ đương nhiên sẽ chết. Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu rõ việc này, biết được làm thế nào có thể khắc phục bệnh khổ. Bệnh nhất định là do nghiệp chướng, khi nghiệp chướng hiền tiền thì phải biết làm thế nào tiêu trừ nghiệp chướng. Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.

Phật là chí thiện, tất cả thiện pháp của thế xuất thế gian không có gì thiện hơn. Cho nên niệm Phật là đệ nhất thiện, niệm Phật đích thực là có thể giải quyết tất cả vấn đề. Vì sao không chịu niệm Phật chứ? Nếu như nói niệm Phậtmê tín, vậy phía trước nói bạn tạo tội nghiệp cực trọng, mê tín niệm Phật cũng có thể được phước huống hồ bạn có thể có chánh tín. Bạn có thể hiểu rõ, hiểu tường tận mà niệm Phật được lợi ích, thì mê tín niệm Phật (chân thật là mê đắm) cũng có thể được phước, bởi vì họ có thể y giáo phụng hành, họ cũng có thể đoạn ác tu thiện. Tuy họ không thông hiểu đối với đạo lý này nhưng họ thật chịu làm, chịu làm thì được phước. Chúng ta phải hiểu rõ cái đạo lý này.

Đoạn sau cùng này, chỗ giải thích này là: “thử giai thị, nghiệp đạo luận đối, vị định khinh trọng, hoặc nan xả thọ, hoặc bất đắc dũ, nam nữ tục nhãn, bất biện thị sự”. Ở đoạn này Phật nói với chúng ta, bệnh nghiệp chướng thứ nhất là nằm lâu ngày trên gường, cầu sống không được, cầu chết cũng không thể, đó là do nguyên nhân gì vậy? Nguyên nhân có rất nhiều loại.

Có một loại là do oan gia trái chủ của họ vào lúc này cáo trạng với vua Diêm La, họ đến nơi đó để biện luận. Việc này vẫn chưa định án, cho nên bệnh của người đó vẫn chưa có khởi sắc. Đây là một loại, đích thực là có.

Loại thứ hai là họ không chịu xả bỏ được mạng, họ vẫn còn phước báo vẫn chưa hưởng hết, họ không chịu xả phước báo đó. Nếu họ chịu xả bỏ thì vấn đề dễ giải quyết rồi. Họ không chịu xả bỏ, vẫn tiếp tục muốn hưởng phước, vậy thì chỉ có nằm trên gường mà hưởng.

Loại thứ ba là “hoặc bất đắc dũ”. Trong loại thứ ba này nhất định có một số nguyên nhân khác biệt. Bệnh của họ sẽ không thể hết được, nhưng họ lại không thể chết. Người thế gian chúng ta xem thấy việc này, thấy hiện tượng này nhưng không hiểu rõ nguyên nhân chân thật của nó. Việc này đều là nghiệp báo cùng oan gia trái chủ đến là đòi nợ mới có phát sanh ra những sự việc này. Người thế gian không có thiên nhãn, không có túc mạng thông nên không hiểu được chân tướng sự thật. Thế nhưng có một nguyên tắc là chỉ cần tu phước thì được. Bao gồm tất cả những nhân bệnh tuy là không giống nhau, bạn tu phước thì nhất định rất tốt.

Đoạn sau đây dạy cho chúng ta “Đản đương đối chư Phật Bồ Tát tượng tiền, cao thanh chuyển đọc thử kinh nhất biến”. Đây là dạy cho chúng ta phương pháp. Việc này trong phân khoa nói là “tu phước thoát tội”, đó là nói đọc kinh. Đọc kinh có thể có hiệu quả hay không? Quyến thuộc người nhà của họ ở ngay trước mặt Phật Bồ Tát, lớn tiếng đọc kinh này một biến, xem thử xem có hiệu quả hay không? Kết quả thì sao? Kết quả là không có hiệu nghiệm. Đừng nói là đọc một biến, cho dù đọc mười biến, đọc một trăm biến, một ngàn biến đều không hiệu nghiệm. Mấu chốt là do đâu vậy? Mấu chốt là ở cách đọc tụng kinh. Cách đọc tụng kinh phải như thế nào? Phải tâm chân thành cung kính mà đọc, trong lúc tụng kinh mà khởi vọng tưởng thì không được, thì không hiệu nghiệm.

Lần trước tôi nói với các vị về câu chuyện của Thích Kế Quang chẳng phải rất rõ ràng sao? Đó là đọc Kinh Kim Cang. Kinh Kim Cang rất ngắn, chỉ có hơn năm ngàn chữ. Cho nên trong lúc đọc kinh mà có chút xen tạp thì không có hiệu lực. Kinh dài đến như vậy, đọc hết một bộ, ngay trong lúc tụng khởi lên vọng tưởng thì không có hiệu lực. Do đó kinh văn từ “như thị ngã văn” đến “tín thọ phụng hành” đọc qua một lượt mà không có một vọng niệm thì có hiệu lực. Bạn xem, ở Trung Quốc người thế gian vẽ bùa rất thịnh hành. Khi vẽ một đạo bùa thì bùa thật linh, niệm chú thì chú cũng rất linh. Linh ở chỗ nào vậy? Linh ở thành, dùng tâm chân thành để họa một đạo bùa. Người vẽ bùa hiểu được khi họ vừa đặt bút xuống, vẽ xong một đạo bùa mà không khởi vọng niệm thì đạo bùa này linh. Bình thường phải luyện tập, vẽ được thuần thục rồi, khi đến lúc vẽ thì không có một vọng niệm khởi lên, khởi lên một vọng niệm thì đạo bùa này không linh. Niệm chú cũng là như vậy, vì sao khi người ta niệm chú Đại Bi có thể trị được tất cả bệnh? Khi niệm chú không khởi một niệm. Đọc kinh cũng là như vậy. Khi đọc bộ kinh này không có một vọng tưởng thì việc đọc kinh này liền được linh nghiệm, thì có năng lực. Một mặt đọc kinh, một mặt khởi vọng tưởng thì không thể linh được. Then chốt ở ngay chỗ này.

Bạn muốn hỏi, vì sao người khác đọc cho họ một bộ kinh thì họ liền có được lợi ích phải không? Bạn nên nghĩ đến đoạn trước, việc làm của Quang Mục Nữ, Bà La Môn Nữ thì liền hiểu rõ ra. Họ có được lợi ích này nhưng chỉ được một phần bảy, còn sáu phần bảy là người đọc kinh được. Nếu như không bởi vì họ bệnh thì bạn sẽ không đi đọc kinh, sẽ không chuyên tâm đến như vậy mà đọc. Đạo lý ngay chỗ này. Bởi vì nhân duyên họ bị bệnh nên thành tựu công đức đọc kinh của bạn, nên họ hưởng thụ một phần. Nếu bạn đọc hai bộ, họ sẽ hưởng thụ được hai phần. Cho nên có được con cái hiếu thảo, thân bằng quyến thuộc hiếu thuận, có thể y theo phương pháp này mà tu hành sẽ có được ông đức và lợi ích không thể nghĩ bàn. Đây là công đức lợi ích thù thắng nhất.

Phía sau là nói đến, một con người ở ngay trong một đời, có thể có được mấy lần chuyên tâm như vậy mà đọc kinh? Hy hữu khó được. Đọc kinh như vậy chính là hiển lộ ánh sáng tự tánh. Thí dụ chúng ta đang ở trong chỗ tối đen mờ mịt thời gian đã quá lâu xa rồi, đọc một bộ kinh cũng giống như một ánh chớp lướt qua một lần. Trong trăm ngàn kiếp khó có được ánh sáng chớp một lần, lần này tuy là ánh sáng chớp một lần nhưng ánh sáng lần này rất là hiếm có. Đây là lần đầu tiên họ có được. Có lần đầu tiên thì sẽ có lần thứ hai, thì sẽ có được lần thứ ba. Cũng giống như Niệm Phật đường hiện tại này của chúng ta, mọi người đến nơi đây niệm Phật một ngày hoặc là niệm một giờ đồng hồ, niệm hai giờ đồng hồ, bạn sẽ cảm thấy không khí của niệm Phật đường không như nhau, bạn ở trong đó dễ dàng nhiếp tâm, ngay trong đời này của bạn, khó gặp được hai lần. Bạn chính mình cảm thọ, chính mình thể nghiệm. Chúng tôi bình thường muốn nói với bạn nhưng rất khó nói ra được, bạn cũng rất không dễ gì thể hội được. Bạn đến nơi đây chính mình niệm qua vài ngày thì hiểu rõ, thì cảm thụ được. Đó là lợi ích chân thật. Bạn cảm nhận được rồi thì bạn sẽ thường hay nghĩ đến niệm Phật, sẽ làm cho cái tâm niệm Phật của bạn được phát khởi, làm cho bạn hứng thú niệm Phật. Cho nên công đức của niệm Phật đường nay rất lớn. Đạo lý chính ngay chỗ này.

Niệm Phật nhất định phải dùng tâm chân thành mà niệm. Việc này thường nói là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Nhất định phải niệm ra tâm thanh tịnh của bạn. Tâm thanh tịnhchân tâm, vọng niệm đã phủ kín chân tâm hiện tiền. Công đức ở ngay chỗ này. Trong kinh Phật nói: “để tâm một chỗ thì việc gì cũng làm được”. Việc này là nói ngay trong khoảng thời gian bạn tụng bộ kinh này (tụng bộ kinh này ít nhất cũng phải một tiếng rưỡi đến hai tiếng đồng hồ), bạn phải để tâm một chỗ thì có thể sanh ra hiệu quả to lớn như vậy. Cho nên đây là công đức bậc nhất. Đây là chính, phía sau là trợ duyên.

“Hoặc là đem đồ vật mà người bệnh ưa thích, hoặc là y phục của báu, ruộng vườn nhà cửa”, đây chính là những tài vật của người bệnh, không luận nhiều ít, nhất định phải dùng để tu phước. “Đối trước người bệnh mà nói lớn lên cho họ biết”, làm phước cho họ phải cho họ biết, đặc biệt là khi người sắp lâm chung, đầu óc của họ vẫn còn tỉnh táo, phải nhắc nhở họ là ngay trong đời này họ đã làm được rất nhiều việc tốt. Nhắc nhở họ ngay lúc này để họ tự mình sanh tâm hoan hỉ, để họ biết được chính mình đã từng làm qua nhiều việc phước đức thì sau khi họ chết rồi, họ sẽ đến được một nơi tốt. Việc nhắc nhở này chính là thông thường gọi là khai thị, rất là quan trọng! Cả đời của họ dù đã làm qua những việc tội ác gì cũng đừng nhắc đến, ngay lúc này mà nhắc đến thì họ liền sẽ đi đến ba đường ác. Phải nhắc nhở những việc tốt mà họ đã làm, đã làm qua những công đức gì. Cho nên, nếu như họ không có từng làm việc tu phước, thì lúc này thân bằng quyến thuộc tu phước thay cho họ và phải nói cho họ biết. “Tôi tên là gì đó, vì người bệnh này, đối trước kinh tượng, đưa ra những đồ vật, hoặc là cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tường Phật Bồ Tát, hoặc tạo chùa tháp, hoặc đốt đèn dầu, hoặc cúng thường trụ”. Làm được việc nào torng đây phụ thuộc vào tài vật này của họ được bao nhiêu, đây đều ở trong Tam Bảotu phước. Việc này không phải mê tín, người thế gian không hiểu tu tạo phước đức này.

Người thế gian luôn cho rằng, đem tiền đi làm cứu tế từ thiện, gíup đỡ một số người nghèo khổ thì công đức này to lớn, không biết được tu phước trong Tam Bảo thù thắng hơn. Ngày nay, thực tế mà nói, người xuất gia các ông luôn là gạt người, không đáng tin tưởng. Cho nên việc này rất khó tin theo, nói lời thật thì họ không tin tưởng, nói giả dối thì họ tin. Người bệnh đang ở nơi cửa ải quan trọng, ngay trong một đời, không có thời khắc nào quan trọng hơn lúc này. Ở cái cửa ải này, nếu như đem tiền tài của họ đi làm những việc từ thiện cứu tế xã hội thì phước nhỏ. Đây là chân thật, một tí cũng không giả. Phước báo nhỏ thì không thể chuyển nghiệp của họ. Tu phước trong Tam Bảo, hiến một đóa hoa, đốt một ngọn đền thì thật được tiêu nghiệp chướng, thật được vô lượng phước. Thế nhưng hiện tại, ở trong Tam Bảo tu phước, vì sao không có hiển lộ, không như ngày trước? Thông thường ghi chép có được cảm ứng rõ ràng đến như vậy mà? Việc này không phải không có đạo lý.

Đạo tràng ngày trước, chân thật có người ở trong đó tu hành, cho nên họ có được cảm ứng rất rõ ràng. Hiện tại có rất nhiều đạo tràng tu không đúng pháp, chúng ở trong đó tu học không đúng pháp, ngày ngày họ vẫn là đang thị phi nhân ngã, vẫn là đang tham sân si mạn. Cho nên tu phước ở nơi đó không phải là không có phước, mà là cái phước này không được rõ ràng, không được hiển lộ, đời này không thể có được. Đạo lý ngay chỗ này. Nếu như cái đạo tràng này là chân thật có người đang tu hành, việc tu hành dễ dàng nhất, chân thật có người niệm Phật. Người niệm Phật này là người như thế nào vậy? Đích thực là buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bạn tu phướcđạo tràng có một người như vậy đang tu hành, thì công đức thù thắng không gì bằng. Bởi vì người này tương lai họ nhất định vãng sanh, vãng sanh thì thành Phật. Khi bạn ở nơi đó đốt một cây hương, thắp một ngọc đèn, đều là công đức chân thật, bạn thật đã cúng được Phật rồi.

Duyên để tu phước trong Tam Bảo thì rất nhiều, rất rộng. Trong đây có nêu lên mấy thí dụ rất thường thấy, mọi người đều có thể hiểu rõ, đó là cúng dường kinh, tượng (tượng là hình tượng của Phật Bồ Tát). Việc cúng dường kinh tượng này như thế nào vậy? Là tài cúng dường cùng pháp cúng dường. Cũng giống như hiện tại chúng ta in kinh, vào thời đại này, ngoài việc in kinh ra, chúng ta còn có băng thu âm, đĩa ghi hình, có CD. Cho nên phương thức cúng dường nhiều hơn so với trước đây. Tiền của chúng ta dùng vào phương diện này đều là cúng dường kinh tượng. Kinh điển, tượng Phật nhờ vào khoa học kỹ thuật để lưu thông, như hiện tại Vcd có hình ảnh, đường truyền internet cũng có hình ảnh, khi người ta mở mang ra thì nhìn thấy tượng Phật trước, sau đó xem thấy giảng kinh nghe kinh, trên đường truyền internet đầy đủ cả Tam Bảo. Khi mở ra thì trước tiên xem thấy là tượng của Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta tu Tịnh Độ thì tiếp theo đó là xem thấy Hội Liên Trì Tây Phương Tam Thánh. Sau khi xem xong thì bắt đầu giảng kinh. Đây chính là cúng dường kinh tượng.

Hoặc tạo hình tượng Phật Bồ Tát. Chúng ta xây một niệm Phật đường, bên trong niệm Phật đường phải cúng dường hình tượng Phật Bồ Tát, cúng dường Tây Phương Tam thánh. Có năng lực thì chính mình làm một tượng. Phía trước đã nói qua, làm bằng xi măng, bằng gỗ, vàng, bạc, đồng thau đều tốt, tùy vào thực lực tài chánh của mình. Nếu như tiền có nhiều thì dùng vàng bạc đồng thau tạo tượng, tượng này có thể truyền lại được nhiều đời, xi măng gỗ trạm không thể lưu truyền được lâu như vàng bạc đồng thau. Bạn truyền được càng lâu thì sức ảnh hưởng càng lớn, công đức đó cũng sẽ lớn, được phước cũng từ đây mà nói. Cho nên tượng Phậtthế giantác phẩm nghệ thuật cao cấp, dùng hợp kim gồm vàng, bạc, đồng thau hợp lại. Thời xưa dùng phương thức này tạo tượng rất nhiều, đó là do hợp kim tạo nên, tạo ra hình tượng. Thông thường là dùng thành phần đồng là nhiều nhất, bên trong có bạc có vàng.

Tạo tượng phía trước có nói qua rồi, không luận là hình tượng vị Bồ Tát này lớn hay nhỏ, công đức đều như nhau. Đạo tràng quan trọng là mỗi ngày phải có giảng kinh nói pháp, để những tín đồ đi lễ lạy hình tượng của Phật Bồ Tát đều có thể hiểu rõ ý nghĩa của biểu pháp thì lợi ích mà họ có được sẽ nhiều hơn. Như chúng ta cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Địa Tạng đại biểu hiếu thân tôn sư. Khi xem thấy tôn tượng này liền nghĩ đến ta phải hiếu thuận phụ mẫu, nhắc nhở hiếu thuận cha mẹ, nhắc nhở tôn sư trọng đạo. Bạn nói xem công đức này bao lớn? Không có hình tượng này thì quên mất. Bồ Tát Quán Thế Âm biểu thị đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, xem thấy chúng sanh có khổ thì bạn liền dùng lòng từ bi đi giúp đỡ họ. Cho nên hình tượng của Phật Bồ Tát luôn luôn đang nhắc nhở chúng ta, công đức của các Ngài ngay chỗ này. Nếu như không biết gì đối với cái ý nghĩa đã biểu thị, thì đó là thuộc về mê tín. Nhưng dù mê tín cũng được, vì khi vừa lọt vào mắt thì đã trồng căn lành, trong A Lại Da Thức của họ có hình tượng của Phật Bồ Tát, thế nhưng công đức lợi ích chân thật mà họ có được thì không phải ở ngay đời này. Lúc nào hiểu được thông suốt rồi thì công đức lợi ích đó của họ liền khởi hiện hành. Họ không thông hiểu công đức lợi ích này thì mãi mãi vẫn nằm trong A Lại Da Thức. Cái chủng tử đó rất đáng quý.

Tài lực có được hùng hậu thì xây tự tháp. Tháp là để chứa Xá Lợi Phật. Chùa là nơi hoằng dương Phật pháp. Chúng ta cũng phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ Tự này. Nơi làm việc của Đế vương thời xưa gọi là Tự, cho nên Tự là chỗ để làm việc. Điều này có ý nghĩa gì vậy? Ý nghĩatiếp nối không gián đoạn, đời đời có thể truyền lại nhau, ý nghĩa chữ Tự là như vậy. Hay nói cách khác, cơ cấu này là một cơ cấu vĩnh hằng, không phải nhất thời, mà là phải truyền nối nhiều đời, đời đời tiếp nối nhau nên gọi là Tự. Cho nên Tự là cơ quan làm việc, hoàn toàn khác với Miếu. Miếu là để tế thần, tế quỷ thần, Tự là cơ quan làm việc. Thế nhưng hiện tại, mọi người không hiểu cái ý này, đều xem Tự thành Miếu cả. Hiện tại xem thấy chữ này đều nghĩ sai ý nghĩa của nó, chúng ta cần phải thay đổi.

Cho nên hiện tại đạo tràng chúng ta gọi là Học hội, dùng danh từ của hiện đại để mọi người xem thấy không đến nỗi mê hoặc. Ngày này nếu chúng ta cũng dùng chữ Tự, người ta xem thấy thì sẽ cho là tôn giáo, cho là mê tín, không hiểu được ý nghĩa chân thật. Cho nên nhất định phải giảng kinh nói pháp.

“Hoặc là đốt đèn dầu”, đèn dầu là biểu thị ánh sáng, được phải hiểu cái ý này. Xem thấy đèn liền phải nghĩ đến tâm địa của ta phải sáng, không những tâm địa phải sáng mà còn phải xả mình vì người. Bạn xem, đèn dầu đốt cháy chính mình chiếu soi người khác, cho nên đèn dầu là biểu thị việc này. Không phải là Phật cần đèn, mà đèn là biểu thị. Đèn dầu, đèn sáp biểu thị rất rõ ràng là đốt cháy chính mình chiếu soi người khác. Chúng ta phải vì xã hội, vì chúng sanh, xả mình vì người. Chúng ta phải phục vụ, tận tâm tận lực mà làm, quyết không cầu báo đáp. Nếu như phải nói đến báo đáp, vậy thì bạn không phải học Phật, bạn không phải vì chúng sanh phục vụ, mà là bạn buôn bán trao đổi. Đây là Phật dạy cho chúng ta như vậy. Nếu mỗi một người đều có thể có tâm nguyện này, đều có thể có cùng hiểu như vậy, thì thế giới này đương nhiên sẽ bình yên lâu dài, tự nhiên sẽ hưng thạnh phồn vinh, người người đều trải qua ngày tháng hạnh phúc. Mỗi người đều không vì chính mình, mà đều có thể vì đại chúng, vì xã hội thì thế giới mới tốt đẹp. Ai làm điều này vậy? Phật Bồ Tát dẫn đầu làm, chúng tađệ tử Phật thì phải làm theo. Cho nên trong Phật pháp không cho phép có ý của chính mình. Đạo lý gì vậy? Ý của riêng mình chính là ý của sáu cõi luân hồi, có ý của riêng mình thì liền có ngã chấp, ngã chấp biến hiện ra cảnh giới sáu cõi luân hồi. Vô ngã thì sáu cõi luân hồi sẽ không còn, thì không có sáu cõi luân hồi.

Cho nên Phật dạy chúng tapháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê luyến trong sanh tử sáu đường, Phật làm cho chúng ta thức tỉnh, bảo chúng ta phải giác ngộ, chân thật giác ngộ rồi thì sẽ không còn nữa, như vậy bạn mới có thể thoát khỏi ba cõi sáu đường, không có cái ta nữa.

Cho nên tôi khuyên mọi người không nên có cái ta. Chúng ta sống trên thế gian này để làm cái gì chứ? Diễn kịch thôi! Diễn như thế nào vậy? Kinh sách chính là kịch bản, dựa vào kịch bản này mà diễn, đó là không có cái ý riêng của ta. Trong kịch bản dạy chúng ta làm gì thì chúng ta làm như thế đó, dạy chúng ta cái gì không được làm thì chúng ta không làm, hoàn toàn y theo kịch bản mà diễn kịch. Phật nói tất cả kinh chính là kịch bản. Bạn thấy, Phật dựa theo quyển này mà diễn, Bồ Tát dựa vào quyển này mà diễn, cho nên các Ngài ở thế gian này gọi là du hý thần thông. Bạn nói xem Ngài có cái ý của chính mình hay không? Kinh mà Phật nói ra có phải là ý của Phật không? Không phải! Trên Kinh Bát Nhã, Phật nói Phật chưa hề giảng qua kinh, không có ý của chính mình. Vậy thì rốt cuộc đó là gì? Kinh điển đó là trong tự tánh vốn sẵn có như vậy. Cho nên chúng ta trải qua ngày tháng như trong kinh điển tức là trải qua đời sống vốn sẵn trong tự tánh. Đây chính là đời sống của chư Phật Bồ Tát, làm gì có chút gì ý của riêng mình chứ?

Vĩnh Gia nói với Lục Tổ rất hay: “phân biệt không phải ý, chấp trước cũng không phải ý”. Phân biệt, chấp trước không phải là ý của chính mình thì là ý của ai vậy? “Hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức”, chúng sanh phân biệt như vậy thì tôi y theo phân biệt của bạn, bạn chúng sanh chấp trước đến như vậy thì tôi y theo chấp trước của bạn, chính tôi không có phân biệt cũng có chấp trước. Cho nên nói phân biệt chấp trước không phải là ý. Thật là tự tại! Vô ngã thì không có sanh tử, tất cả đều là biểu diễn, là diễn kịch. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, cũng là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Nếu bạn không chịu diễn kịch thì bạn phải sanh tử luân hồi. Cho nên Phật Bồ Tát du hý thần thông, chúng ta học Phật cũng phải học du hý thần thông. Vì vậy phải hiểu được nghĩa thú của từng câu từng chữ trong kinh văn để học tập và thực tiễn ngay trong cuộc sống, đạt được thọ dụng chân thật.

“Hoặc thí thường trụ”, dùng lời hiện đại mà nói, thường trụ chính là Cơ kim trong đạo tràng. Trong đạo tràng thường có những phí dụng, người tu hành, bốn chúng cùng tu, thứ cần thiết cho cuộc sống, đó là thuộc về thường trụ. Đây là công đức chân thật. Hiện tại xã hội đại chúng vẫn không rõ ràng nhưng chúng ta đã là đồng tu học Phật thì bốn chúng này, đệ tử Phật không thể không biết, không thể không nói rõ ràng, không thể không giảng thấu đáo. Chúng ta tường tận thông suốt rồi thì chúng ta mới có thể dẫn đầu làm, mới chịu đi làm, tín tâm nghị lực kiên định, nhất định không dao động. Vận dụng trong Tạp Bảo Tạng Kinh, công đức xây dựng chùa miếu, đốt đèn trong cúng thí đèn kinh, các vị chính mình có thể tự xem.

Xin mời xem đoạn kinh văn sau: “như thị tam bạch bệnh nhân, khiển lịnh văn tri”. Đây là khi người bệnh vẫn còn tỉnh táo, khi vẫn còn sáng suốt, phải nói với họ ba lần. Việc này làm tăng cường thêm sức nhớ cho họ. Thực tế thì khi người bị khi bệnh nặng, phải nên mỗi ngày đều nói cho họ nghe mấy lần, để cho họ có ấn tượng sâu sắc, khiến cho họ biết rằng chính họ đã làm một số việc công đức lợi ích và họ sau khi chết, những việc làm này sẽ có sự giúp đỡ rất lớn cho họ khi chuyển sanh. Việc này rất khẩn thiết!

Phía sau nói: “giả linh chư thức phân tán, chí khí tận giả”. Các thức phân tán chính là bất tỉnh nhân sự, lúc này bạn nói cho họ nghe, họ không có phản ứng. Phía trước nói, ý chí của họ khi vẫn còn chưa phân tán, khi bạn nói với họ thì họ gật đầu, họ nhận biết. Nếu như khi tinh thần tốt hơn một chút, họ hiểu được, họ cũng sẽ nói, họ hoan hỉ. Nếu họ sức lực suy kiệt rồi, không còn nói chuyện được nhưng họ hiểu được thì họ sẽ gật đầu, họ ám thị cho bạn. Đến khi các thức phân tán thì họ sẽ không còn tri giác. Dù không còn tri giác vẫn phải nói cho đến khi họ dứt hơi thở. “Cho đến một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày đã qua”, điều này chính là nói, sau khi họ tắt thở được bảy ngày vẫn phải thường nói cho họ nghe. Vì sao vậy? Sợ A Lại Da thức của họ chưa rời khỏi, làm như vậy chỉ có tốt không có gì xấu.

“Hoặc lớn tiếng xướng, hoặc lớn tiếng đọc kinh”, đọc cho họ một biến hoặc là hai biến, khi đọc kinh nhất định phải ghi nhớ là phải dùng tâm chân thành, tâm cung kính, nhất định không hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp. Không gián đoạn tức là một bộ kinh phải tụng xong một lần, không phân ra mấy đoạn, phân ra mấy đoạn thì ngay trong đó liền có xen tạp, hiệu quả đó sẽ rất thấp. Cho nên khi tụng kinh, nhất định không thể có bất cứ việc gì làm quấy nhiễu. Điểm này rất quan trọng! Đọc kinh ở nhà, phiền phức nhất chính là điện thoại, cho nên khi đọc kinh tốt nhất nên rút dây điện thoại ra. Không nên để bất cứ ai quấy nhiễu bạn. Bạn dùng tâm thanh tịnh để đọc thì bạn mới có thể nhận được hiệu quả. Nếu như khi đọc kinh thường có quấy nhiễu, thường bị gián đoạn, thì đọc kinh như vậy chỉ là giúp bạn đọc được thuần thục, là giai đoạn đang luyện tập. Đọc kinh như vậy không có tác dụng nào lớn cả. Chúng ta đọc kinh nên đọc chậm thì tương đối dễ thuộc. Vào thời điểm này, yêu cầu khi đọc kinh là không xen tạp, không gián đoạn. Việc này cũng giống như đánh giặc, như là luyện binh. Việc này nhất định phải cầu được công đức hiệu quả chân thật. Cho nên phải nên biết, bình thường đọc nhiều thì thuần thục, lúc đó có gián đoạn cũng không hề gì, có việc thì đi làm việc, hết việc rồi thì tụng cái đoạn này, thường hay đọc thì sẽ thường được thuần thục nó. Sau khi thuần thục rồi, chân thật gọi là tu hành thì khi đọc kinh mỗi ngày nhất định không được có sự quấy nhiễu.

Lúc trước, tôi đã nói qua với các vị nhiều lần về Giới Định Huệ tam học một lần đầy đủ, khi đọc kinh cũng là hoàn thành một lần Giới Định Huệ. Đây thuộc về công phu tu hành, công đức tu học. Vậy thì do đây mà biết, công đức của việc đọc kinh này lớn hơn so với việc giảng kinh. Thực tế mà nói, giảng kinhtu phước, không phải công đức, đọc kinh mới là công đức. Trong công đứcphước đức, trong phước đức không có công đức, đây là đạo lý nhất định. Trong giảng kinh nếu như muốn có công đức thì đó là một cảnh giới khác. Người xưa thường nói: “tùy văn nhập quán”, đó là công đức. Bạn giảng một đoạn kinh văn này, chính mình xác thực đã thể nhập cảnh giới đó thì đó là công đức. Nếu như không vào được cảnh giới này thì là phước đức. Như vậy theo đây mà biết, công đức hay phước đứctùy thuộc vào chính cá nhân mình.

“Thị nhân mạng chung chi hậu, túc ương trọng tôi, chí ư ngũ vô gián tội, vĩnh đắc giải thoát, sở sanh chi xứ, thường tri túc mạng”. Lợi ích này thì quá to quá lớn, chân thật không thể nghĩ bàn! Có rất nhiều người đọc đến Kinh Địa Tạng thì nói rằng làm sao Kinh Địa Tạng lợi ích lớn đến như vậy? Tạo tác tội nghiệp cực trọng mà chỉ cần đọc một bộ kinh thì có thể làm cho họ thoát khỏi tội nghiệp ngũ vô gián. Như vậy là quá dễ dàng, cho nên không có người nào tin. Bạn không tin tưởng thì khi bạn đọc kinh này sẽ có hoài nghi, khi bạn đọc sẽ còn có vọng tưởng, có xen tạp, cho nên không nhận được hiệu quả. Do đó họ càng tin tưởng rằng kiến giải của họ không sai. Họ đều cho rằng công đức lợi ích trong kinh Phật nói, dường như quá khoa trương, dường như là khuyên người đang đọc, còn trên thực tế thì không có được lợi ích này. Đây là tâm của phàm phu, lấy vọng tưởng phàm phu mà đo lường tri kiến của Phật Bồ Tát. Do vậy mà sanh ra rất nhiều lỗi lầm to lớn.

Tội phước đều ở trong một niệm, bạn chuyển đổi một ý niệm thì liền từ nơi địa ngục chuyến đến cảnh giới Phật. Pháp môn niệm Phật bình đẳng thành Phật chính là đạo lý này. Chúng sanh địa ngục A Tỳ vừa niệm A Di Đà Phật thì đều có thể thành Phật. Then chốt ở đâu vậy? Chính là chuyển đổi được tâm cực ác kia thành tâm rất thanh tịnh. Bạn muốn hỏi, có thể chuyển đổi được hay không? Được! Trên lý luậnnhất định có thể. Vì sao vậy? Vọng niệm là giả, vọng tưởng là giả. Bồ Tát Mã Minh nói rất hay: “bất giác vốn không, bổn giác vốn có”, như vậy thì vì sao không thể chuyển được chứ? Bất giác chính là vọng niệm, địa ngục A Tỳbất giác. Bất giác vốn không, cho nên chỉ cần bạn triệt để giác ngộ thì trong chốc lát sẽ xả được sạch không, chốc lát thì đoạn được tất cả. Và như vậy thì bổn giác vốn đã có liền lập tức hồi phục. Cho nên từ nơi địa ngục liền siêu sanh đến Phật đạo viên mãn đều ở trong một niệm. Vấn đề chính là cái niệm đó của bạn có thể chuyển đổi lại được hay không? Việc này có căn cứ lý luận, không phải tùy tiện nói.

Khi đọc một bộ kinh, nếu chân thật có thể làm được không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, tụng một mạch là xong, thì ngay một niệm này liền chuyển thành Phật đạo. Cho nên trong một niệm này là Giới Định Huệ tam học đều viên mãn. Đem công đức như vậy siêu độ một người nghiệp chướng sâu nặng thì họ chân thật được lợi ích. Thế nên chỗ này đã nói: “khi sanh đến chỗ nào thì thường biết được túc mạng”. Công đức của người đọc kinh đó thì thật là to lớn.

Loại siêu độ này, phước báo mà người được siêu độ nhận được cao nhất chỉ có thể sanh đến trời Đao Lợi. Vì sao vậy? Vì nhờ phước báo của người khác. Hưởng phước của người khác thì chỉ có thể sanh đến trời Đao Lợi. Nếu người đó chính mình tu hành thì chỗ này không hạn chế. Cho nên từ xưa đến nay, chúng ta đã xem thấy, Bảo Chí Công siêu độ phi tử của Lương Võ Đế đến được trời Đạo Lợi. Bảo Chí Công là Bồ Tát Quan Thế Âm tái sanh. Việc siêu độ này mọi người hiện tại làm là lạy Lương Hoàng Sám. Lương Hoàng Sám chính là Bảo Chí Công siêu độ phi tử của Lương Võ Đế sanh đến trời Đạo Lợi. Vậy thì chúng ta ở chỗ này xem thấy, Quang Mục Nữ, Bà La Môn Nữ siêu độ người thân của bà, cũng là sanh đến trời Đạo Lợi. Phước báo lớn nhất chỉ có thể sanh đến trời Đao Lợi. Muốn lên cõi trên trời Đao Lợi thì phải dựa vào công phu tu hành của chính mình. Không có công phu tu hành của chính mình, chỉ dựa vào phước báo của người khác thì không lên trên được.

Người sanh đến Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên thường biết túc mạng, biết đời trước có làm việc tốt rất lớn, biết được chân tướng sự thật của nhân duyên quả báo. Người biết được túc mạng thì nhất định không dám tạo nghiệp ác, bởi vì họ biết, ác có ác báo, thiện có thiện quả, họ sẽ đoạn ác tu thiện, họ biết nỗ lực mà làm những việc tích lũy công đức. Cho nên biết được túc mạng có cái tốt như vậy. Vậy thì do đây mà biết, tu hành phải nhờ khi chính mình khỏe mạnh, khi còn thể lực nên nỗ lực mà làm, chân thật tu công đức của chính mình viên mãn. Nếu chỉ hưởng phước do người khác tu thì chỉ được một phần bảy.

Tốt rồi! Thời gian hôm nay đã hết, chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
Lần cập nhật cuối ( Thứ tư, 10 Tháng 8 2011 09:41 )
(Tịnh Không Pháp Ngữ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10405)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9675)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23598)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11834)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10729)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10068)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28677)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21606)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29399)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11382)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26316)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31011)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25324)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22795)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13044)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21924)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14134)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12430)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11238)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10689)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38051)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13664)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13449)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12340)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12583)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12049)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10719)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12790)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7388)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12613)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12035)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12864)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11937)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10691)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11355)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11648)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10860)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10792)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10367)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10482)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10701)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10626)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11904)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10689)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10802)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11376)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11089)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11623)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10510)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11250)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12296)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11158)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11420)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11500)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11291)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12995)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14168)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11003)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11863)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13153)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11573)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11413)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10929)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11275)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10808)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11054)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10874)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10240)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17102)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10997)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10862)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11384)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11074)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11376)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10350)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12760)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19241)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19675)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20309)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19740)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19021)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20450)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21071)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17915)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21803)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11384)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant