Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phải Nên Phát Nguyện, Nguyện Sanh Nước Kia

04 Tháng Hai 201507:00(Xem: 8396)
Phải Nên Phát Nguyện, Nguyện Sanh Nước Kia


PHẢI NÊN PHÁT NGUYỆN, NGUYỆN SANH NƯỚC KIA

(Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm toàn tập)


Người giảng: Lão Hoà thượng Tịnh Không

Địa điểm: Học Viện Tịnh Tông Úc Châu

Thời gian: Khải giảng tháng 05 năm 2003

********



Phat A Di DaXin chào các vị đồng vị đồng tu!

Mời xem đoạn thứ hai: “một đời thành Phật”, xem tiết thứ hai, kinh nói rằng “Di Đà Niết Bàn, Quán Âm tức bổ Phật vị hiệu Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, quốc danh chúng bảo phổ tập, trang nghiêm kỳ Phật diệt hậu, Đại Thế Chí Bồ Tát tức bổ Phật vị hiệu Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai”.

Đoạn này là nói thế giới Tây Phương Cực Lạc, thực tế mà nói là thù thắng không gì bằng, đích thực là không hề giống với các cõi nước chư Phật khác. Phật ở các cõi nước khác sau khi diệt độ, luôn có một khoảng thời gian …, thời gian này dài ngắn không như nhau. Thông thường nói, như thế giới Ta Bà của chúng ta, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ rồi, Bồ Tát Bổ Xứ hiện tại vẫn đang ở trời Đâu Suất. Khi thọ mạngtrời Đâu Suất hết rồi thì sẽ đến thế giới này thị hiện thành Phật. Thọ mạngtrời Đâu Suất rất dài, chúng ta biết một ngày ở trời Đâu Suất là 400 năm nhân gian chúng ta. Phật ở trên kinh nói với chúng ta, một ngày ở trời Đao Lợi là 100 năm nhân gian chúng ta, tuổi thọ ở cõi trời Đao Lợi là 1000 tuổi. Tuổi thọ ở trời Dạ Ma thì gấp đôi, một ngày ở trời Dạ Ma là 200 năm ở nhân gian chúng ta, tuổi thọ là hai ngàn tuổi. Trời Đâu Suất lại gấp đôi, một ngày của trời Đâu Suất là 400 năm của nhân gian chúng ta, tuổi thọ là 4000 tuổi. Các vị thử tính xem thì liền biết được, một ngày bằng 400 năm, một năm cũng tính là 365 ngày, tuổi thọ là 4000 tuổi. Cho nên trong kinh Di Lặc Hạ Sanh nói, đại khái tuổi thọ của trời Đâu Suất, nếu nói tuổi tác của người thế gian chúng ta là 56 ức 7 ngàn vạn năm. Sau 56 ức 7 ngàn vạn năm, Bồ Tát Di Lặc từ trời Đâu Suất giáng sanh đến thế gian này của chúng ta, thị hiện thành Phật. Đâu Suất là trời tri túc, nơi chốn của Bồ Tát Bổ Xứ ở. Cho nên thế giới này của chúng ta, thành thật mà nói là thời gian có Phật rất ít, thời gian không có Phật ở đời thì rất dài. Bạn xem, pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ có 12 ngàn năm, Bồ Tát Di Lặc phải 56 ức 7 ngàn vạn năm mới giáng sanh. Trong khoảng thời gian đó đêm dài mù mịt, chúng sanh rất khổ. Thế nhưng Phật Bồ Tát rất từ bi, sau khi pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật diệt, trước khi Bồ Tát Di Lặc chưa xuất hiện, vào lúc này phải làm thế nào?

Chúng ta xem thấy trong Kinh Địa Tạng, Thích Ca Mâu Ni Phật đã uỷ thác cho Bồ Tát Địa Tạng thay Phật hoá độ chúng sanh. Sứ mạng của Bồ Tát Địa Tạng thật là quá lớn, trong thời gian dài đến như vậy giúp cho những chúng sanh khổ nạn này. Vậy thì chúng ta có thể thấy, thế giới Tây Phương Cực Lạc khác biệt quá lớn so với chúng ta nơi đây. Khi A Di Đà Phật thị hiện nhập Niết Bàn, Quán Thế Âm Bồ Tát liền lập tức thị hiện thành Phật. Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật, thế giới đó không gọi là thế giới Cực Lạc, mà gọi là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm thế giới, đức hiệu của Bồ Tát Quán ÂmPhổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra lời tiên đoán với chúng ta, đó là việc vô lượng kiếp về sau. A Di Đà Phậtvô lượng tuổi, A Di Đà Phật thành Phật đến hiện tại mới có mười kiếp, hay nói cách khác mới thành Phật chưa bao lâu. Thế giới Cực Lạc quá thù thắng, Quán Thế Âm Bồ Tát đó là thị hiện thành Phật. Sau khi Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập diệt rồi, Bồ Tát Đại Thế Chí tiếp theo thị hiện thành Phật. Lúc đó không gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí, mà gọi là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai. Chân thật Công Đức Bảo Vương thù thắng không gì bằng. Bạn xem, vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp tu tích công đức, đây là thị hiện tấm gương cho chúng ta xem, tại vì sao chúng ta không thể nổ lực đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức? Tuy là pháp thân Bồ Tát đã chứng được tột đỉnh của tâm tánh, vẫn cứ vì tất cả chúng sanh thị hiện tu đức, đây là từ bi đến tận cùng. Các Ngài dạy bảo chúng ta, làm ra tấm gương để cho chúng ta xem, nếu như chúng ta không giác ngộ, chúng ta không thể thể hội, làm sao có thể xứng đáng đối với Phật Bồ Tát đã vì chúng ta thị hiện diễn nói?

Lại xem một đoạn phía sau “phục thứ Thích Ca Nhất Đại thời giáo”, nói Thích Ca Mâu Ni Phật 49 năm giảng kinh nói pháp, “duy Hoa Nghiêm minh tánh nhất sanh viên mãn, nhi nhất sanh viên mãn chi nhân, tắc mạt hậu Phổ hiền hạnh nguyện trung, thập đại nguyện vương đảo quy Cực Lạc, thả dỉ thử khuyến tấn Hoa Tạng hải chúng, tư chi, tư chi”.

Tôi cũng đã từng nói qua với các vị nhiều lần, tỉ mỉ mà tư duy thì tôi không phải là thiện căn, không phải là lợi căn, miễn cưỡng nói thì tôi là căn tánh bậc trung. Thực tế mà nói, được Phật Bồ Tát gia trì cho tôi tuổi thọ, nếu như không có tuổi thọ, ngay đời nầy của tôi có thể nói không có thành tựu. Tại vì sao vậy? Năm xưa tôi theo lão sư Lý, lão sư Lý hết lời khuyên bảo tôi tu tập pháp môn Tịnh Độ, thậm chí nói đến ông xem rất nhiều tổ sư đại đức xưa nay, đức hạnh, đạo hạnh, học vấn của các Ngài, thực tế mà nói chúng ta không thể so sánh, đây là việc thật. Yếu giải của Đại sư Ngẫu Ích, chúng ta không thể viết ra được, Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì, chúng ta cũng không thể viết ra được. Những người đại trí tuệ, những người đại đức hạnh này, các Ngài đều niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đây là lão sư Lý nêu ra thí dụ để nói cho chúng ta nghe, nếu như pháp môn này không phải chân thật, thì sao nhiều tổ sư đại đức, nhiều đại thiện tri thức đến như vậy đều đi con đường này? Lão sư Lý nói, chúng ta cũng sai mà không hề thấy lỗi. Nói ra như vậy để mà khuyên tôi, tôi rất cảm kích, thế nhưng tuyệt nhiên không hết lòng hết dạ tu học pháp môn này.

Tôi hết lòng hết dạ tu học pháp môn này thực tế là vào năm Dân quốc 60, tôi ở Đài Bắc giảng kinh Hoa Nghiêm. Vào lúc đó cũng thường hay đi ra nước ngoài, cho nên ở Đài Loan giảng kinh Hoa Nghiêm không ngừng bị gián đoạn. Tôi nhớ được không ngừng bị gián đoạn nên dường như đã giảng mười mấy năm, kinh này chỉ giảng được phân nữa, cũng không giảng được viên mãn. Hàn Quán trưởng vãng sanh rồi, kinh Hoa Nghiêm liền tạm ngưng giảng. Mỗi lần trở lại Đài Loan, thì tôi tiếp tục giảng kinh Hoa Nghiêm. Có một hôm đột nhiên nghĩ đến Thiện Tài Đồng Tử tu pháp môn gì? Bởi vì tôi ở Đài Loan giảng đồng thời Hoa Nghiêm 80 và 40. Một tuần lễ giảng ba lần, hai lần giảng Hoa Nghiêm 80, một lần giảng Hoa Nghiêm 40, hai quyển này đều là khi giảng đến phân nữa thì dừng lại. Khi tỉ mỉ mà tra xét trong kinh, xem xét thật kỹ thì thật không thể ngờ, Thiện Tài Đồng Tử tu pháp môn niệm Phật. Thầy của Thiện Tài Đồng TửBồ Tát Văn Thù cũng phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Ngài phát nguyện giống với nguyện của Bồ Tát Văn Thù, gần như là hoàn toàn giống nhau. Văn Thù, Phổ Hiền đều cầu sanh Tịnh Độ, Thiện Tài là học trò đắc ý của Văn Thù, học trò đắc ý nếu như không thể kế thừa nguyện vọng của lão sư, vậy thì không phải đệ tử truyền pháp. Tỉ mỉ mà quan sát Thiện Tài Đồng Tử đi ra ngoài tham học, gặp được vị thứ nhất là tỳ kheo Kiết Tường Vân (Hoa Nghiêm 80 gọi là Đức Vân, Hoa Nghiêm 40 gọi là Kiết Tường Vân) dạy cho Ngài pháp môn niệm Phật. Phương thức tu tập của tỳ kheo Kiết Tường Vân chính là hiện tại chúng ta gọi là Ban Chu Tam Muội, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thiện tri thức thứ nhất, ý nghĩa của biểu pháp này rất sâu. Người xưa thường nói, tiên nhập vi chủ, Thiện Tài Đồng Tử việc thứ nhất chính là tu pháp môn niệm Phật, “tiên nhập vi chủ”. Lại xem việc sau cùng, ở sau cùng 53 tham vấnBồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực Lạc. Tôi liền hiểu rõ, tỳ kheo Kiết Tường Vân mở đầu, Bồ Tát Phổ Hiền thì sau cùng, từ đầu đến cuối Thiện tài tu pháp gì? Tu pháp môn niệm Phật. Cho nên vào lúc đó tôi mới hết lòng hết dạ, không còn nghi hoặc, không còn do dự, tôi hiểu rõ rồi.

Lại huống hồ Văn Thù, Phổ Hiền khuyên bảo 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ của thế giới Hoa Tạng, đó là hải chúng Hoa Tạng, đều cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Lại xem thấy Tỳ Lô Giá Na Như Lai, đều là thị hiện cho chúng ta xem, Tỳ Lô Giá Na Như Lai hoan hỉ. Ngài không hề nói, Văn Thù, Phổ Hiền, sao mấy ông lôi đồ chúng của ta đi hết vậy? Họ bỏ đi hết rồi, đem người trong đạo tràng của ta đi hết rồi, thảy đều đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc hết, vậy thì thành ra cái gì? Ở thế giới này của chúng ta khẳng định sẽ xảy ra hiểu lầm này, không cần nói bạn đem hết người của người ta đi, mang đi một hai người cũng không tha thứ cho bạn rồi, nhất là người thông minh lanh lợi dụng công tu hành, nếu bạn mang họ đi mà không được sự đồng ý của lão hoà thượng chùa này, vậy thì bạn đã làm sai rồi. Thế nhưng ở thế giới Hoa Tạng, chúng ta tin tưởng Văn Thù, Phổ Hiền, nhất định được sự đồng ý của Tỳ Lô Giá Na Phật, được Tỳ Lô Giá Na Phật cho phép mọi người đều nên đi. Vì sao vậy? Đến thế giới Cực Lạc thành Phật nhanh, nhanh hơn nhiều so với thế giới Hoa Tạng, rút ngắn được thời gian. Tỳ Lô Giá Na Phật không có lòng riêng tư, Phật Phật đạo đồng, chư Phật chỉ có một nguyện vọng là hy vọng mọi người mau chóng thành Phật. Mau nhất không gì hơn là đến thế giới Cực Lạc thân cận Phật A Di Đà. Cho nên Văn Thù, Phổ Hiền dẫn đầu 41 vị pháp thân đại sĩ vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, Phật Tỳ Lô Giá Na hoan hỉ. Đây là chúng ta cần phải hiểu rõ cái đạo lý này. Nếu như ta biết được, các đạo tràng khác có thiện tri thức chân thật, ta không bằng như họ, đồng tu chúng ta phải đến thân cận họ, ta phải hoan hỉ, các vị thân cận là đúng, không sai chút nào.

Năm xưa tôi giảng kinh ở Đài Bắc, có một số đồng tu, học trò lớp đại chuyên, ở nơi tôi nghe giảng hết hai đến ba năm. Họ đến nói với tôi, Pháp sư ơi! Tôi muốn đến thân cận lão sư Lý. Tốt quá! Con người này thông minh! Tôi học được từ lão sư Lý, các vị có thể thân cận thầy của tôi, vậy tôi có cầu cũng không được. Đây chính là Như Lai chân thật có cái duyên phận này, phải nên thân cận thiện tri thức nhất đẳng. Trong các cõi nước chư Phật, việc này tất cả chư Phật đều công nhận, thiện tri thức bậc nhất là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật quang trung cực tôn, vua trong các Phật, cho nên chỉ cần bạn phát tâm thân cận A Di Đà Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc, thì tất cả chư Phật Như Lai đều cỗ vũ, bạn thật thông minh, bạn chọn đúng rồi. Tôi nói lời nói này với các vị, mỗi câu đều là lời thật, cho nên cái đoạn khai thị này, chúng ta phải suy xét nhiều.

Đoạn phía sau, “Ngẫu Công thán viết”, đại sư Ngẫu Ích than thởthan ôi! Phàm phu liệt chứng bổ xứ, kỳ xướng cực đàm, bất khả trắc độ”. Trước tiên chúng ta nói câu này, đại sư Liên Trì chú giải khi viết đến chỗ này, chính mình rất cảm thán, rõ ràngphàm phu, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, mang nghiệp vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cho dù đã liệt chứng bổ xứ nhưng họ không phải thật được bổ xứ, họ cùng ở chung với Bồ Tát Bổ Xứ. Không phải Bồ Tát Bổ Xứ thì không thể ở chung, họ là phàm phu vì sao cùng ở chung với Bồ Tát Bổ Xứ? Cùng ở chung với Bồ Tát Bổ Xứ thì cũng gần giống như Bồ Tát Bổ Xứ. “Kỳ xướng cực đàm”. Chữ “kỳ” này là hiếm lạ, chưa hề nghe nói qua, chưa thấy qua, quả nhiên thế giới Cực Lạc có sự việc này. Chữ “đàm”, đàm kinh nói đạo, đến điểm cùng cực, tán thán của đại sư Ngẫu Ích là chân thật có sự việc này, không phải là giả.

“Hoa Nghiêm sở bẩm, khước tại thử kinh”. Chư Phật nói ra tất cả kinh, Bồ Tát tu hành pháp môn đệ nhất. Trong đây có hai câu là tôi viết, tôi ở ngay chỗ này cũng có được một chút xíu tỏ ngộ. Chúng ta đọc được ở trong kinh Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm đến sau cùng là mười đại nguyện vương quay về Cực Lạc, quy Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ, người xưa nói, chính là trung bổn của kinh Hoa Nghiêm. Tịnh Độ ba kinh, kinh Vô Lượng Thọ là kinh đệ nhất. Nếu như chúng ta dùng ba phần để nói là phần tựa của kinh điển, chánh tông phần, lưu thông phần, thì kinh Vô Lượng Thọ là chánh tông phần của Tịnh Tông, kinh A Di Đà là phần lưu thông của Tịnh Tông. Kinh này Thế Tôn bốn lần khuyên chúng ta phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, chân thật không thể nghĩ bàn. Người xưa thường nói, một rồi hai, hai rồi ba, ba rồi bốn, bốn lần khuyên bảo vãng sanh. Quy về sau cùng của kinh Hoa Nghiêm là đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Kinh Di Đà chính là tiểu bổn kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọđại bổn kinh A Di Đà. Cư sĩ Vương Long Thư hội tập kinh Vô Lượng Thọ, liền gọi là kinh Đại A Di Đà, đề kinh của ông chính là cùng cái đề này. Cho nên đích thực là chư Phật nói ra đệ nhất kinh, pháp môn đệ nhất của Bồ Tát tu.

“Nhi thiên hạ cổ kim, tín khiên nghi đa, dư duy hữu bội tâm liệt huyết nhi kỷ”. Đây là lời nói của đại sư Ngẫu Ích, chân thật là cảm khái đau lòng mà nói ra. Thiên hạ xưa nay người tin rất ít, người hoài nghi nhiều, đại sư Ngẫu Ích chân thật nói đến chỗ này, nghĩ đến cái chỗ này, chân thậtđau lòng đến cùng cực. Rõ ràng bạn ngay trong đời này có thể vĩnh thoát luân hồi viên thành Phật đạo, không cần đợi đời thứ hai, mà ngay trong đời này, một đời viên mãn, bởi vì bạn vãng sanh. Vãng sanh là sống mà ra đi, không phải chết mà ra đi, cho nên tôi thường nói, pháp môn này gọi là pháp môn không chết, nó chân thật là không chết. Bạn thấy, khi thời tiết nhân duyên chín mùi, người vãng sanh thấy được A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, cáo từ với mọi người, “Phật đến rồi, tôi theo Ngài đi đến thế giới Cực Lạc”, vậy thì liền đi, sống mà ra đi. Sau khi đi rồi thì thế nào? Cái túi da thối này không cần nữa thì bỏ đi, triệt để buông bỏ, đi đến Thế Giới Cực Lạc, họ đổi một cái thân, vừa đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc thì hoa sen hoá sanh. Hoa sen này là do chính mình trồng, không phải người khác trồng. Bao gồm tất cả chúng sanh, chỉ cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen. Tín nguyện của bạn kiên cố, niệm Phật chuyên cần, hoa này trong ao sen càng nở càng lớn, càng lớn càng to. Khi thọ mạng hết rồi, A Di Đà Phật liền cầm hoa sen này đến tiếp dẫn bạn. Hoa này là của chính bạn, không phải do người khác làm ra, trên mặt hoa còn có tên họ, nhất định không thể sai.

Bạn vừa bước vào hoa sen thì thân tướng của bạn giống y như Phật, không phải là từ đứa bé dần dần lớn lên. Thế giới Tây Phươngpháp giới bình đẳng, nhục thân xả bỏ thì được cái thân gì vậy? Sắc thân vàng thật kim tử ma, tướng hảo quang minh, cùng Phật và Bồ Tát Bổ Xứ không hề khác nhau, thật bình đẳng. Đây là do A Di Đà Phật ngày trước trong nhân địa hành Bồ Tát đạo, việc này chúng ta ở trong Kinh Vô Lượng Thọ đọc qua cái đoạn lịch sử này, Ngài đã từng tham phỏng qua 210 ức cõi nước Phật. 210 ức là biểu pháp không phải số tự, là trong Mật tông biểu thị đại viên mãn, chính là nói khắp pháp giới hư không giới, tất cả cõi nước chư Phật, không sót lọt cõi nào, Ngài thảy đều tham học qua. Ưu điểm của mỗi thế giới, Ngài thảy đều học tập, khuyết điểm thì Ngài thảy đều bỏ đi, cho nên thành tựu của thế giới Cực Lạc là tập hợp ưu điểm khắp pháp giới hư không giới tất cả cõi nước chư Phật, thế giới Cực Lạc không có khuyết điểm. Việc này đã cho chúng ta khải thị rất to lớn, A Di Đà Phật kiến tạo thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải bế môn tự tạo, không phải ở trong nhà nghĩ tưởng thiết kế, mà là do tham học mà được. Đây là học vấn chân thật, chân thật có học vấn, tất nhiên thế giới Ta Bà chúng ta, Ngài nhất định đã đi đến.

Thế giới Ta Bà, tất cả chúng sanh sanh ra tướng mạo không như nhau. Tướng mạo tốt thì phiền não hiện tiền. Phiền não gì vậy? Ngạo mạn. Tướng mạo không tốt, phiền não cũng hiện tiền. Phiền não gì vậy? Cảm giác tự ti rất nặng. Việc này chúng ta đều rất rõ ràng. Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà biết được điểm này, nên nơi đó của Ngài bao gồm hết tất cả những người vãng sanh, tuyệt đối không có cái phiền não này. Vì sao vậy? Mọi người tướng mạo như nhau, không có người nào có tướng mạo tốt được như họ, cũng không có chút khuyết điểm nào, thảy đều như nhau, thể chất như nhau, cao thấp như nhau, mập ốm như nhau, tướng hảo như nhau. Nếu như vậy mà nói, chúng ta lại có vấn đề. Vấn đề gì vậy? Vậy khi chúng ta muốn tìm một người nào đó, ta làm sao biết được ai là ai vì lớn lên đều như nhau. Việc này chúng ta có nhiều lo lắng, tại vì sao vậy? Chúng ta không có trí tuệ, không có huệ nhãn, không có thần thông, nhưng người thế giới Tây Phương Cực Lạc mỗi người đều có thần thông, cho nên nhất định không thể nhận sai người. Bao gồm tất cả mọi người, tướng mạo đều giống y như Phật A Di Đà, nhưng họ nhất định không thể nhận sai người. Mỗi một người vãng sanh, tướng mạo cũng như nhau, họ cũng sẽ không nhận sai người. Thật không thể nghĩ bàn. Cho nên xem xong đoạn này thì phải nên phát nguyện, đó là trên kinh Phật nhiều lần khuyên bảo chúng ta, phải nên phát nguyện vãng sanh, phải nên vãng sanh về nước kia.

Lại xem đoạn phía sau, trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, kinh Hoa Nghiêm có đoạn lời nói như vầy: “thị nhân dục lâm chung thời, nhất thiết chư căn, tất giai bại hoại, dỉ chí thân thuộc oai thế tượng mã trân bảo đẳng, tất giai tán diệt”. Chúng ta nói đoạn này trước, đoạn này là nói việc gì? Một con người khi thọ mạng đến, khi lâm chung, tất cả các căn tất giai bại hoại, chính là không khởi tác dụng. Người chết rồi thì mắt không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể hít thở, lưỡi cũng không thể động, thân thể cũng không thể động. Đó là tất cả các căn thảy đều bại hoại, không có tác dụng, năng lực của sáu căn đều bị mất hết, đây là tự thân của bạn. Vật ở ngoài thân của bạn thì sao? Thân thuộc của bạn, thân bằng quyến thuộc của bạn, bạn cũng phải rời khỏi. Oai thế là nói địa vị của bạn, quyền lực của bạn, cho dù địa vị quyền lực của bạn đạt đến tốt đỉnh, bạn làm đến quốc vương, nhưng vào lúc đó bạn làm quốc vương cũng không được, tuổi thọ của bạn đến rồi, quốc vương cũng phải buông bỏ, quyền lực cũng phải buông bỏ. Tượng mã là công cụ giao thông vào thời xưa, công cụ giao thông mà bạn sử dụng, công cụ giao thông của hiện tại, bạn có xe hơi, có du thuyền, thậm chí nhà bạn có máy bay riêng cũng đều không thể mang đi, thảy đều không thể mang đi được. Trân bảo tiền tài của bạn, bạn đã thu tập được rất nhiều trân bảo, nhưng không có thứ nào có thể mang đi được, thảy đều tán diệt. Đối với bạn mà nói, tất cả đều không thể mang đi, đều là của người khác, việc này cần phải giác ngộ.

Ở trên kinh luận, Phật thường hay nhắc nhở chúng ta là “không mang theo được thứ gì, chỉ có nghiệp theo mình”. Tất cả vật ngoài thân, nếu bạn chính mình rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, biết được nhất định không phải là của chính mình, ta không có bất cứ thứ gì, ngay thân thể này cũng không có, thân thể phải hư hoại, cho nên ở cái thế gian này, trên kinh Bát Nhã nói rất hay, “tất cả pháp không sở hữu, thảy đều không, không thể được”, đó là chân tướng sự thật. Nếu như bạn cho rằng là có được, còn phải đi tranh giành, thì bạn sai rồi. Nếu bạn tranh giành được, tương lai lại không mang đi được, lại tạo thêm vô lượng vô biên nghiệp chướng, người thế gian này có mấy người giác ngộ, có mấy người chân thật bổng chốc tỉnh ngộ? Người giác ngộ thế gian pháp này thảy đều xả hết, bao gồm cả thân thể cũng không ngoại lệ, nhất định không có lưu luyến.

Duy hữu nguyện vương, bất tương xả ly, nhất thiết thời trung, dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát na gian, tức đắc vãng sanh thế giới Cực Lạc”. Chỗ này nói việc gì vậy? Thứ bạn có thể mang đi được là thiện nghiệp, ác nghiệp, tịnh nghiệp, ba loại nghiệp này sẽ đi theo bạn. Người chân thật giác ngộ thì đoạn dứt ác nghiệp, và tuy là tu thiện nghiệp, quyết định không chấp trước. Không chấp trước liền biến thành tịnh nghiệp, chấp trước thì liền biến thành thiện nghiệp. Chấp trước thì quả báo ở ba đường thiện, không chấp trước bạn phải hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, quả báo của bạn liền siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới, thù thắng không gì bằng.

Mười đại nguyện vương dạy chúng ta việc gì? Bạn phải biết việc thứ nhất dạy chúng ta cung kínhlễ kính chư Phật. Điều thứ hai dạy chúng ta xưng tán. Xưng tán thiện, quyết không nói lỗi lầm, xem thấy bất cứ lỗi lầmtuyệt nhiên không nói, phải bồi dưỡng thiện tâm, thiện ý, thiện hạnh của chính mình, không hề lỗi miệng. Đây là xưng tán Như Lai. Việc thứ ba dạy chúng ta bố thí cúng dường, “quảng tu cúng dường”. Việc thứ tư dạy chúng ta sám hối nghiệp chướng. Chính ta có nghiệp chướng phải biết sám hối. Thứ năm dạy cho chúng ta tùy hỉ công đức. Tùy hỉ công đức rất là quan trọng, tất cả chúng sanh đều có tâm đố kỵ, tùy hỉ công đức là phá đi cái tâm đố kỵ, xem thấy người khác có chỗ tốt, thường không có chút tâm đố kỵ, tùy tâm tùy lực giúp đỡ họ, thành tựu cho họ, đó là tùy hỉ công đức. Họ có công đức bao lớn, ta tùy hỉ công đức thì cũng giống y như họ, công đức của họ tuyệt nhiên không hề bị giảm ít. Cũng giống như họ là một cây đèn sáp đang cháy sáng, ta có một cây đèn sáp chưa thắp sáng, ta tiếp cái ánh sáng đó của họ thắp sáng cây nến của ta thì ánh sáng của cây đèn nến của họ không hề bị tổn thất chút nào, sau khi tôi thắp sáng cây đèn này rồi, ánh sáng chiếu nhau, tùy hỉ công đức.

Thứ sáu là thỉnh chuyển pháp luân. Thứ bảy là thỉnh Phật trụ thế. Thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế không phải là vì chính mình, mà vì lợi ích chúng sanh. Ta gặp được chân thiện tri thức, chúng sanh không biết được, ta biết được, ta biết được thì ta thỉnh thay, ta phải vì chúng sanh khu vực này mà thỉnh, thay chúng sanh thế gian này lễ thỉnh thiện tri thứcchúng ta giảng kinh nói pháp. Nhân duyên chín muồi, chúng ta phải mời thiện tri thức này thường trụ ở khu vực này của chúng ta. Thiện tri thức thường trụ ở khu vực này, thì người ở nơi đây có phước. Chân thiện tri thức thì chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ, họ ở ngay nơi đây, chẳng phải mọi người được hưởng nhờ hay sao, không phải đều có phước báo hay sao? Đây là người phải chân thậttrí tuệ, người phước đức chân thật hiểu được khải thỉnh.

Mười nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, trên thực tế nguyện chỉ có bảy điều, bảy điều này là nguyện. Hiện tại thỉnh chuyển pháp luân thuận tiện hơn thời trước nhiều, hiện tại chúng ta có thể lợi dụng những khoa học kỷ thuật cao này, lợi dụng đường truyền quốc tế, đường internet, lợi dụng truyền hình vệ tinh để mời pháp sư, mời thiện tri thức giảng kinh nói pháp. Chúng ta mang những đĩa kinh này, băng ghi âm cho đăng tải trên internet, phát trên truyền hình vệ tinh làm lợi ích cho chúng sanh toàn thế giới. Đó là gì vậy? Đó đều là thuộc về thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế. Hiện tại hai việc này có thể hợp thành một để làm, hai nguyện hợp thành một để làm, rất không thể nghĩ bàn.

Ba điều phía sau đều là thuộc về hồi hướng. Thường tùy Phật họchồi hướng Bồ Đề, hằng thuận chúng sanhhồi hướng chúng sanh, phổ giai hồi hướnghồi hướng pháp giới, hồi hướng pháp tánh. Cho nên ba nguyện sau cùng là thuộc về hồi hướng, viên mãn tròn đầy. Việc này có thể mang đi, mười nguyện này dẫn đạo cho bạn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Hiện tại thời gian hết rồi. A Di Đà Phật!

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9963)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9937)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20517)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10353)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9957)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10349)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9937)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34428)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8718)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9281)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11103)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8521)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9806)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9183)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20460)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19202)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8761)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8872)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12114)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9606)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23010)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9004)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9269)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9976)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9904)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10630)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10928)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12492)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9341)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9201)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9325)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10460)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22011)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22255)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16611)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9541)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10206)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8402)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8631)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12275)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9139)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9615)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8623)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9456)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8634)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8360)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8480)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10194)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23642)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9578)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9404)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9011)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8350)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8534)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7887)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7983)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8808)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8941)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10069)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8633)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30419)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30092)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24185)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9640)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9520)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9510)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7862)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9076)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28228)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23727)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12250)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8888)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14244)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14115)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9659)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9348)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9648)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30908)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27127)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32727)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34017)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27772)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10578)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58693)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10661)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9406)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9568)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13948)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10770)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28172)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23282)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10133)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant