Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Ii: Phiên Dịch Kinh Điển Về Di-đà Và Tín Ngưỡng Tịnh Độ Thời Kỳ Đầu

11 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4692)
Chương Ii: Phiên Dịch Kinh Điển Về Di-đà Và Tín Ngưỡng Tịnh Độ Thời Kỳ Đầu

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG II: PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN VỀ DI-ĐÀ VÀ TÍN NGƯỠNG TỊNH ĐỘ THỜI KỲ ĐẦU

Tiết 1: Truyền dịch kinh Bát-chu tam-muội

Phật giáo Trung Quốc do các nước Ấn ĐộTây Vực truyền đến, vì thế điều tất nhiên phải lấy sự phiên dịch kinh điển làm đầu. Sự nghiệp dịch kinhTrung Quốc bắt đầu vào đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán (147-167), An Thế Cao là vị Tam tạng pháp sư đầu tiên dịch kinh điển. Vào những năm cuối của đời vua Hoàn Đế, thời Hậu Hán có ngài Trúc Phật Sóc và Chi Sấm (Chi-lâu-ca-sấm) đến Lạc Dương dịch ra rất nhiều kinh điển như kinh Bát-nhã…truyền bá giáo lý Đại thừa.

Vào tháng 10 niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179 TL), đời vua Linh Đế, Chi Sấm cùng với Trúc Phật Sóc dịch kinh Bát-chu tam-muội, do Mạnh Phúc và Trương Liên bút thụ, đây tức là thời điểm mở đầu cho việc truyền dịch kinh điển về đức Phật A-di-đà ở Trung Quốc. Kinh này tuy không thuật lại những sự trang nghiêmliên quan tịnh độ của đức Phật A-di-đà nhưng y theo pháp môn chuyên niệm này có thể thấy Đức Phật A-di-đà ở Tây phương, tán dương pháp Minh thị tam-muội thấy Phật. Có lẽ đây là một bộ kinh biên dịch sớm nhất trong các kinh điểnliên quan tới đức Phật A-di-đà. Kinh A-di-đà và kinh Đại A-di-đà …chính là xuất phát từ kinh này nhưng nói tỉ mỉ và đầy đủ hơn mà thôi.

Kinh này ở trong tạng kinh có bốn bản dịch, trong đó hai kinh cùng một nhan đề là Bát-chu tam-muội. Một bộ chỉ có 1 quyển, gồm 8 phẩm; một bộ có 3 quyển, gồm 16 phẩm, đều thấy có ghi tên người dịch là Chi-lâu-ca-sấm, thời Hậu Hán, nhưng một người thì không thể đồng một lúc dịch một bộ thành hai bộ được. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộdịch kinh Bát-chu tam-muội, 2 quyển, có thể trong đó một bộ do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Lại nữa, có kinh Bạt-pha bồ-tát cũng là bản dị dịch của kinh Bát-chu, kinh này 1 quyển, chưa phân chương phẩm, tên người dịch không truyền, cũng tức kinh Bạt-phi-đà bồ-tát đã ghi ở An công cổ dị kinh lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 3, có thể biết đó là bản cổ dịch vào thời vua Phù Kiên trước đây. Riêng có bộ Đại phương đẳng tập kinh Hiền Hộ phần, một tên là kinh Hiền Hộ, gồm 5 quyển 17 phẩm, ngài Xà-na-quật-đa đã dịch vào đời Tùy, bản kinh này tường thuật rất tinh tế. Lại nữa, Tân tập tục soạn thất dịch tạp kinh lục ở trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có kinh Bát-chu tam-muội niệm Phật chương gồm 1 quyển và kinh Bát-chu tam-muội khác 1 quyển, kinh Niệm Phật chương, cũng có lẽ là từ trong phẩm Hành sao chép ra, tên kinh khác nhưng cũng chỉ là kinh Bạt-pha bồ-tát mà thôi!

Tiết 2: Phiên dịch kinh Đại A-di-đà và kinh Bình đẳng giác

Đến thời Tam Quốc, đầu niên hiệu Hoàng Vũ (222 TL) đến giữa niên hiệu Kiến Hưng (253 TL) thời Ngô, Chi Khiêm dịch truyền rất nhiều kinh điển. Trong đó, kinh Đại A-di-đà 2 quyển, hiện nay kinh này được thấy trong tạng kinh. Bản nước Cao Ly có nhan đề là A-di-đà tam-da tam-phật tát-lâu-phật đàn quá độ nhân đạo. Ba bản thời Tống, Nguyên, Minh gọi tắt là kinh A-di-đà, từ xưa đến nay vì để phân biệt với kinh A-di-đà 1 quyển của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, cho nên gọi kinh này là Đại A-di-đà, cũng tức là bản dịch kinh Vô Lượng Thọ xưa nhất, bộ kinh quan trọng nói về sự phát tâm, phát nguyện của Đức Phật A-di-đà khi còn ở nhân địa và sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Lịch đại tam bảo kỷ và Khai nguyên thích giáo lục đều nói: kinh Vô Lượng Thọ, từ thời Hậu Hán về sau từng có người dịch, tức là lần đầu vào thời Hậu Hán, ngài An Thế Cao dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển. Kế đó, ngài Chi Khiêm dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển (hiện nay chia làm 4 quyển); lần thứ ba vào thời Tào Ngụy, ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch kinh Đại A-di-đà; lần thứ tư, ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển; lần thứ năm cũng vào thời Tào Ngụy, ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác 2 quyển; lần thứ sáu vào thời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Vô Lượng Thọ 2 quyển.

Nhưng 6 bản kinh dị dịch này, Xuất tam tạng ký tập đã ghi lại chỉ có 2 kinh của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô và ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Đông Tấn, hiện tại chỉ còn 2 bộ kinh: Đại A-di-đà và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác. Vì thế, đến thời Tây Tấn là ngưng, kinh Vô Lượng Thọ có thể có 2 lần dịch, nhưng trong 2 bản dịch này, bản kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch thì trong các kinh lục đều nói như nhau và không có dị luận, còn bản kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch thì có dị thuyết cho rằng rất nhiều người dịch. Như 4 bản khác trong 6 bản dị dịch đã nói ở trên, chính là đã nêu ra ở dị thuyết kia. Lương cao tăng truyện quyển 1 nói: Trong niên hiệu Cam Lộ, thời Tào Ngụy (256-259TL), ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác; căn cứ Lịch đại tam bảo kỷ quyển 5, Tấn thế tạp lục của Đạo Tổ thời Lưu Tống và Chúng kinh mục lục của Bảo Xướng ghi: trong niên hiệu Gia Bình, thời Tào Ngụy (249-254TL), ngài Khương Tăng Khải dịch kinh Vô Lượng Thọ; cũng trong Chúng kinh mục lục quyển thứ tư, điều mục nói về ngài An Thế Cao, thời Hậu Hán, căn cứ theo Biệt lục thì có thuyết cho rằng kinh Vô Lượng Thọ do ngài An Thế Cao dịch; cũng trong Chúng kinh mục lục điều mục nói về ngài Chi Khiêm, dẫn dụng thuyết trong Ngô lục của ngài Đạo Tổ có thuyết cho rằng kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch; kì thật những kinh này đều không ngoài dị thuyết mà thôi.

Kinh Vô Lượng Thọ của ngài Trúc Pháp Hộ dịch, còn có một tên nữa là Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác mà trong Xuất tam tạng ký tập quyển 2 có ghi rõ. Vì thế trong các kinh lục hoặc ghi là Vô Lượng Thọ, hoặc ghi là Bình đẳng giác, tên kinh tuy khác nhưng kì thật chẳng qua chỉ là một kinh. Đồng thời, Tấn thế tạp lục cho đến Biệt lục đều là dựa vào Tam bảo kỷ thì điều đó thật có giá trị đáng tin không? Nếu chưa thể lí giải được các dị thuyết về những người dịch cùng một bản kinh mà không có một chút phê phán, cứ dễ dàng nào chấp nhận các thuyết, rồi xét theo thời đạiliệt kê ra thứ tự người nào dịch bản thứ nhất, người nào dịch bản thứ hai, cũng khiến người ta cảm thấy đáng buồn cười, cho là ngu muội.

Hiện có trong tạng kinh, y theo thuyết của Tam bảo kỷ, cho đến thuyết của Khai nguyên lục hiện có kinh Bình đẳng giác do ngài Chi Khiêm dịch vào thời Hậu Hán. Thuyết này vốn y cứ vào Ngô lục của ngài Đạo Tổ, nhưng Ngô lục này, đương thời trong Tam bảo kỷ đã thất lạc không còn truyền, do đó, tác giả của Tam bảo kỷ nói là căn cứ vào Ngô lục thì nhất định có sự nghi vấn, mặc dù, đương thời có thể thấy ở trong các văn hiến khác nhưng có lẽ cũng không ra ngoài đa số dị thuyết của truyền thuyết kia, trong dị thuyết được cho là lý do chính đáng nhất. Trong các Kinh lục hiện còn thì có thể nói niên đại của Xuất tam tạng ký tập là xưa nhất và những việc ghi lại trong đó cũng đủ để đáng tin cậy. Do đó, kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác hiện nay được công nhận là do ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn dịch. Nhưng Lương cao tăng truyện ghi là của ngài Bạch Diên, Bảo Xướng lục ghi là của ngài Khương Tăng Khải, đều là những thuyết được lưu hành vào đời Lương, cho nên khó có thể xác định người dịch. Nội dung kinh này ghi lại hầu như đồng nhất với kinh Đại A-di-đà của ngài Chi Khiêm, bản nguyệnnhân vị cũng đầy đủ hai mươi bốn nguyện, nhưng thứ tự văn nguyện và nội dung có chỗ bất đồng thì có thể biết nó chẳng phải đồng một bản Phạn.

Ngoài ra, thời Tam Quốc và thời Tấn cũng dịch nhiều kinh điển nói về bản sinh của Đức Phật A-di-đà như các kinh Huệ ấn tam-muội, Vô lượng môn vi mật trì do ngài Chi Khiêm vào thời Ngô dịch; các kinh Đức Quang thái tử, Quyết định tổng trì, Hiền Kiếp, Chính pháp hoa, Tề chư phương đẳng học, Sinh Kinh, Quang Thế Âm, Đại Thế Chí thụ ký v.v…do ngài Trúc Pháp Hộ vào thời Tây Tấn dịch. Lại nữa, ở Thất Dịch Tạp Kinh Lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 4 có liệt kê có Di-đà Phật kệ 1 quyển, A-di-đà Phật kệ nay đã thất truyền, nhưng Hậu xuất Di-đà Phật kệ vẫn còn ở trong Tạng kinh, gồm mười bốn hàng kệ theo thể ngũ ngôn, trong đó nêu hai mươi bốn nguyện, phải chăng từ bản Phạn dịch ra hay do người Trung Quốc sáng tác thì không thể biết được, nhưng trước thời Lưu Tống đã có, đây là điều không cho hoài nghi.

Tiết 3: Tín ngưỡng tịnh độ thời kỳ đầu

Như đã nói ở trên, ngài Chi Khiêm thời Ngô, ngài Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn kế tiếp nhau dịch các kinh điển về tịnh độ của Đức Phật Di-đà, sau đó, những người đọc tụng những kinh điển này dần dần nguyện cầu vãng sinh Tây phương. Pháp Uyển Châu Lâm quyển 42 dẫn dụng truyện ký trong Minh tường ký kể về Khuyết Công Tắc và học trò của ông là Vệ Sĩ Độ vãng sinh tịnh độ Tây phương. Như trong văn ghi: Khuyết Công Tắc là người nước Triệu. Ông sống đạm bạc, siêng năng làm pháp sự, vào đời Tấn Vũ (265-274TL) ông qua đời ở Lạc Dương. Đạo tục đồng lòng thiết hội ở chùa Bạch Mã. Đêm ấy, đang tụng kinh bỗng nghe trên không trung có tiếng ca tụng, ngưỡng lên thấy một người thân hình to lớn, uy nghi chỉnh tề, người ấy nói: “Tôi là Khuyết Công Tắc, được sinh về thế giới Tây phương An Lạc, nay cùng với các bồ-tát đến nghe kinh”. Đây có lẽ là người tín ngưỡng Di-đà sớm nhất ở Trung Quốc, hiện còn ghi trong tài liệu lịch sử. Luận Niệm Phật tam-muội bảo vương quyển trung của ngài Phi Tích, đời Đường có ghi: Chi Đạo Lâm và Ngu Hiếu Kính thời Đông Tấn đều có viết bài văn Tán ca ngợi Công Tắc.

Lại nữa, trong Minh tường ký ghi: Vệ Sĩ Độ là người Cấp Quận (huyện Cấp, tỉnh Hà Nam) cũng là cư sĩ khổ hạnh. Ông giỏi văn chương, có viết bài sám Bát quan trai, ông qua đời giữa niên hiệu Vĩnh Xương (322TL), thời Đông Tấn và cũng có xuất hiện điềm lạ, có người tạo tượng, viết truyện thánh hiền ghi đầy đủ việc này, nói Vệ Sĩ Độ cũng được sinh Tây phương. Xuất tam tạng ký tập quyển 2 ghi: Vệ Sĩ Độ sống thời Tấn Huệ Đế, có làm toát yếu về kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đạo hành 2 quyển, đủ cho thấy ông ấy cũng là người tinh thông Bát-nhã.

Lại nữa, năm cuối của thời Tây Tấn có ngài Trúc Tăng Hiển, người đất Bắc, ngài thường lấy sự tụng kinh, thiền định làm sự nghiệp. Cuối niên hiệu Thái Hưng, thời Đông Tấn (321TL), ngài đi về phía nam đến Giang Tả. Sau đó, ngài bị bệnh nặng lâu ngày, vô cùng đau khổ, ngài luôn nghĩ tưởng Tây phương, thấy chân dung Phật Vô Lượng Thọ giáng xuống, ánh sáng chiếu đến thân ngài, sự đau đớn đều thuyên giảm. Sáng hôm sau, ngài ngồi yênthị tịch. Kế tiếp có ngài Trúc Pháp Khoáng, người Hạ Phi (huyện Phi, tỉnh Giang Tô), là đệ tử của sa-môn Trúc Đàm Ấn, sau ngài đến ẩn náu ở thạch thất trong núi sâu, thường cho kinh Pháp hoayếu chỉ của tam hội, kinh Vô Lượng Thọ là nhân của tịnh độ, ngài thường ngâm vịnh hai bộ này, có chúng thì giảng, một mình thì tụng.

Vào niên hiệu Hưng Ninh, thời Đông Tấn (363-365TL), ngài đi về phía đông đến Vũ Huyệt (Núi Uyển Ủy, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) cùng Hi Siêu, Tạ Khánh Tự kết bạn xuất thế. Những người bệnh trong nhân gian đến cầu ngài chữa trị, phần nhiều đều được lành bệnh. Bấy giờ, sa-môn Trúc Đạo Lân tạc tượng Phật Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Khoáng bèn vận động những người có duyên với mình cùng xây dựng đại điện, việc này được ghi ở quyển 5 và quyển 11 trong Lương cao tăng truyện. Trong đó, có nói đến việc Pháp Khoáng giảng kinh Vô Lượng Thọ cho đại chúng nghe. Kinh mà Pháp Khoáng đã giảng, tôi suy đoán có thể là kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác của ngài Trúc Pháp Hộ dịch.

Tóm lại, việc này thật là sự khởi đầu của việc giảng giải kinh điển Di-đà ở Trung Quốc.

Đầu thời Đông Tấn có Chi Độn, tự Đạo Lâm, người Trần Lưu (huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam), vốn có tụng kinh Đạo hành bát-nhã và kinh Huệ ấn tam-muội v.v… cùng với Vương Hiệp, Hi Siêu, Tôn Sước kết bạn xuất thế và ông có trứ tác các sách Tâm du huyền luận, Đạo hành chỉ qui. Thái Hòa nguyên niên (366TL), ông thị tịch, hưởng dương 53 tuổi. Ông đã từng sai thợ tạc tượng Đức Phật A-di-đà, tự soạn bài văn tán, về sau được ghi lại ở quyển 15 trong Quảng hoằng minh tập. Trong bài văn A-di-đà Phật tượng tán và tựa có ghi: “Cuối thời Đông Tấn này có người thờ Phật, giữ giới, tụng kinh A-di-đà, nguyện sinh về nước của Ngài, luôn luôn chí thành, mạng chung có hiện điềm lành, vãng sinh về đó, được thấy Phật, khai ngộ liền đắc đạo”. Đây chính là chỉ cho Chi Độn phúng tụng kinh A-di-đà của ngài Chi Khiêm dịch, y theo kinh này dạy mà phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ.

Lại nữa, tượng Phật của Chi Độn tạc này so với tượng Phật của ngài Trúc Đạo Lân tạc đã nói ở trên, tượng nào tạc trước thì không cách nào phân biệt được. Nhưng tóm lại chỉ biết là từ đầu thời Đông Tấn đã có người tạc tượng Phật A-di-đà.

Lại nữa, văn của Di-lặc bộ trong Pháp uyển châu lâm quyển 16 ghi: “Thời Tấn, nước Tiêu có Đái Quì, tự Đạo An, người nước Tiều trốn sang vùng đất nước Ngô cũ, nghiên cứu Phật giáotạc tượng Phật Vô Lượng Thọ có hai vị bồ-tát đứng hầu, bị nhiều lời bình phẩm nên ông đã gia tâm sửa chữa kỹ càng hơn, suốt ba năm mới thành tựu, một lúc sau thì ông liền nghinh tiếp tượng vào chùa Linh Bảo, ở Sơn Âm (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Hi Siêu ở Cao Bình nghe liền đến lễ bái, về sau tượng này phóng ánh sáng lớn, đạo tục ai thấy đều phát tâm bồ-đề.

Tấn thư quyển 94 ghi: “Vào đời Hiếu Vũ Đế, thời Đông Tấn, Đái Quì nhờ Tán kị thường thị, Quốc tử bác sĩ trình bày nhiều lần, kiên trì nhưng không được nên ông bèn trốn sang nước Ngô. Việc này xảy ra khoảng giữa niên hiệu Thái Nguyên (376-395TL).

Lại nữa. Tục cao tăng truyện quyển 29, Pháp uyển châu lâm quyển 13 có ghi: Tháng tư niên hiệu Ninh Khang thứ 3, thời Đông Tấn (375TL) sa-môn Thích Đạo An ở chùa Đàn Khê, Tương Dương đúc tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng, cao mười tám thước, đến cuối mùa đông năm sau thì thành tựu tốt đẹp, vào tối hôm đó, tượng tự di chuyển ra đứng trước cửa chùa, mọi người đều kinh ngạc, bèn đổi tên chùa là Kim Tượng. Nhưng Quảng hoằng minh tập quyển 15 ghi ngài Thích hòa thượng (tức ngài Đạo An) viết bài tựa ca ngợi tượng Phật mười sáu thước ở Tương Dương thời Tấn, nhưng chẳng thấy có một lời nào nói đến Di-đà và tịnh độ, lại có câu: “Vĩ đại thay Thích-ca! Ngài khéo chuyển pháp luân ở thế gian”, và trong Lương cao tăng truyện quyển 5 chỉ nói tượng đồng, không nêu tên Phật, vì thế tượng này không phải là tượng Phật Vô Lượng Thọ mà là tượng Phật Thích-ca. Sau này, vào đầu niên hiệu Nguyên Hưng, thời Đông Tấn (402TL), ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên xãLô sơn (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), theo văn phát thệ của Lưu Di Dân ghi: “Mọi người ở trước tượng Phật A-di-đà tại tinh xá Bát-nhã Đài lập thệ nguyện”. Điều này có thể thấy, lúc đó ở Lô sơn đã có thờ tượng Phật A-di-đà.

Bởi có liên quan đến việc tạo tượng Phật, kinh Bát-nhã tam-muội, phẩm Tứ sự ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật”. Kinh Đạo hành bát-nhã quyển 10, phẩm Đàm-vô-kiệt bồ-tát ghi: “Sở dĩ tuy tượng Phật không có thần thức nhưng tạc tượng là vì muốn cho người thế gian cúng thờ được phúc mà thôi”. Lại nữa, kinh Bồ-tát bản nghiệp của ngài Chi Khiêm dịch vào thời Ngô cũng ghi:

“Thấy được hình tượng Phật,

Nên nguyện cho chúng sinh

Khắp mười phương đều thấy

Mắt không bị ngăn che”.

Như thế thì việc tạo tượng vào thời đại Tam Quốc đã được sự chú ý của những người tín ngưỡng. Trong đó, kinh Bát-nhã tam-muội đã ghi: “Nếu ai muốn mau đắc tam-muội thì nên tạo hình tượng Phật, ở trước tượng Phật, một lòng quán tưởng thì có thể chóng đắc tam-muội, thấy chư Phật hiện tiền”. Các pháp quán tưởng trong kinh Quán Phật tam-muội hải, quyển 9, phẩm Quán tượngkinh Quán Vô Lượng Thọ v.v... dạy tạo lập tượng Phật rồi quán tưởng cũng đều từ thuyết này mà ra. Tuy nhiên, lúc đó cũng có dựa vào thuyết tạo lập tượng Phật được phước trong kinh Đạo hành bát-nhã, nhưng chủ ý của sự tạo tượng vốn xuất phát từ ý muốn để chóng đắc tam-muội. Y theo kinh Bát-chu tam-muội, nếu mong muốn được thấy Phật, trước cần phải tạo lập hình tượng Phật. Tín ngưỡng Tịnh Độ là thời kì đầu, kế đó tạo tượng Đức Phật A-di-đà tức là dựa vào yêu cầu này. Người đời sau dùng bản tôn qui y nên an trí tượng Phật, cho biểu tượng đó là Phật thật, khiến cho người thấy sinh tâm tôn trọng, cung kính, tự nhiên ý nghĩa của hai trường hợp này không đồng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10309)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11168)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10982)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11214)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11272)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14274)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12498)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26366)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11717)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29297)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11676)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10799)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11106)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10971)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10794)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11332)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10792)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12261)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11302)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10075)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11415)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13427)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11279)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11487)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12711)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13788)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13199)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12825)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12180)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30161)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24915)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10985)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11750)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10689)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11234)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11545)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12922)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12117)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11339)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10229)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11818)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11213)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10912)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13093)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10205)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10888)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10956)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14549)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10706)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21979)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12086)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11442)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30200)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19611)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20590)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12571)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12568)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21212)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13265)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14478)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30446)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28390)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28693)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21970)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21658)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23425)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26415)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23221)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19863)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22957)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19978)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15435)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14140)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26085)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22528)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22571)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22899)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13224)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23206)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13187)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28983)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30517)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14255)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26278)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33247)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8654)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13328)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22153)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant