Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Vii: Thuyết Bản Nguyện Tha Lực Của Đàm Loan

12 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4344)
Chương Vii: Thuyết Bản Nguyện Tha Lực Của Đàm Loan
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh
Hán dịch: Thích Ấn Hải Hiệu đính: Định Huệ Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG VII: THUYẾT BẢN NGUYỆN THA LỰC CỦA ĐÀM LOAN

Tiết 1: Sự tích và trứ tác của Đàm Loan

Căn cứ vào quyển hạ trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước, thời Đường, có ghi: “Ở Trung Quốc, những tam tạng pháp sư thích quy ngưỡng Tịnh Độ, tất cả có sáu vị, trong đó có ngài Đàm Loan (sáu vị đại đức là Bồ-đề-lưu-chi, Huệ Sủng, Đạo Trường, Đàm Loan, Đại Hải, Pháp Thượng)”. Ngài Đàm Loan chú thích Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá tụng kệ của bồ-tát Thế Thân trứ tác, Bồ-đề-lưu-chi dịch, ngài cực lực đề xướng yếu nghĩa tịnh độ Tây phươngdựa vào tha lực và thuyết công đức bản nguyện của Phật Di-đà. Hai cương yếu này của tông Tịnh Độảnh hưởng rất lớn đối với hành giả tu Tịnh Độđời sau. Trong Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập của ngài Pháp Nhiên, người Nhật, nói tông Tịnh ĐộTrung Quốc được chia làm ba hệ phái lớn:

1. Lô sơn Huệ Viễn

2. Tam tạng Từ Mẫn

3. Đạo Xước, Thiện Đạo v.v…

Tư tưởng Tịnh Độ do ngài Đạo Xước và ngài Thiện Đạo truyền đều tôn xưng ngài Đàm Loan là thỉ tổ. Vì ngài Lô sơn Huệ Viễn y theo pháp tu Bát-chu tam-muội, lấy kì vọng ở trong định thấy Phật mà được vãng sinh, còn ngài Đàm Loan thì lấy sức công đức bản nguyện của Di-đà Như Lai nhiếp dẫn chúng sinh mà chóng được vãng sinh, đắc quả vị Bất thoái chuyển. Tư tưởng Tịnh Độ và pháp tu hành của ba hệ phái này, từ nghìn năm trăm năm đến nay, ở Trung Quốc đan chéo lẫn nhau truyền bá rộng rãi không bị suy thoái. Ngài Pháp Nhiên người Nhật truyền thừa tư tưởng Tịnh Độ của ngài Thiện Đạo, phát huy rộng rãi ở Nhật, đồng thời tôn ngài Đàm Loan là tổ thứ năm của tông Tịnh Độ, mãi về sau được mọi người sùng ngưỡng.

Tục cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài Đàm Loan là người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây (Đại châu, tỉnh Sơn Tây, hoặc nói ở Vấn Thủy, Tinh châu), do nhà ở gần núi Ngũ Đài nên ngài thường được nghe nói về hóa tích linh cảm ở núi Ngũ Đài; lúc mười tuổi, ngài lên núi du ngoạn, tinh thần cảm thấy vui vẻ, liền phát tâm xuất gia. Ngài học rộng nội điểnngoại điển, nghiên cứu cả bốn bộ luận (Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận, Đại trí độ luận) và các vấn đề về Phật tính. Khi đọc kinh Đại tập, vì từ ngữ nghĩa lí của kinh này sâu kín, khó để khai ngộ, nên ngài phải chú thích. Ngài chú thích được một nửa, đột nhiên ngã bệnh, về sau tuy bệnh thuyên giảm nhưng ngài nghĩ đến thân mạng vô thường, bèn lập chí trước phải học thuật trường sinh của Tiên đạo. Bấy giờ, ngài đi về phương Nam, đến Kiến Khang (Giang Ninh, Giang Tô), giữa niên hiệu Đại Thông, đời Lương Vũ Đế, ngài đến Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Lương Vũ Đế cho mời ngài đến điện Trùng Vân, đồng thời vua thưa hỏi một vài vấn đề về Phật tính. Hôm sau, Lương Vũ Đế ở điện Thái Cực bước xuống bệ lễ tiếp, đồng thời hỏi mục đích của đại sư Đàm Loan đến phương nam. Đại sư Đàm Loan đáp: “Tôi muốn học Phật pháp nhưng tuổi thọ ngắn ngủi, cho nên đến phương nam, tham vấn Đào Ẩn Cư, cầu các tiên thuật”. Lương Vũ Đế giới thiệu đến tham vấn Đào Hoằng Cảnh ở núi Câu Dung, Đào Ẩn Cư thấy ngài đường xa đến tham vấn nên tiếp đãi vui vẻ, bèn đem mười hai quyển kinh Tiên trao cho ngài để đáp lại thâm ý.

Sau khi được kinh Tiên, ngài Đàm Loan muốn tìm một ngọn núi nổi tiếng để tu luyện tiên thuật. Trở về Bắc Ngụy, trên đường qua Lạc Dương, ngài gặp tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người Ấn Độ, liền hỏi: “Trong Phật pháppháp trường sinh bất tử hơn phép kinh Tiên ở Trung Quốc không?”. Tam tạng Lưu-chi khinh thường kinh Tiên và nói: “Dẫu được trường sinh bất tử, cuối cùng cũng luân hồi trong ba cõi mà thôi, nói pháp trường sinh bất tử thì chỉ có đạo Phật của chúng ta mới có”. Nói xong, Tam tạng Lưu-chi trao cho quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ và khuyên ngài Đàm Loan y theo kinh này mà tu hành, sẽ được giải thoát sinh tử, được trường thọ vĩnh cửu. Ngài Đàm Loan nhờ lời khai thị của ngài Bồ-đề-lưu-chi, quyết định thiêu hủy kinh Tiên, chuyên tu pháp môn Tịnh Độ Di-đà của Phật Vô Lượng Thọ. Ngài còn dạy cho rất nhiều tăng tục tu học, tự mình hành, dạy người hành, truyền bá rộng rãi. Đương thời, đế vương Bắc Ngụy tôn trọng đức hạnh của ngài, sắc phong ngài là Thần Loan, đồng thời sắc lệnh ngài trụ trì chùa Đại Nham ở Tịnh châu. Về sau, ngài đến trụ trì chùa Huyền Trung, Thạch Bích, Bắc Sơn, Phần Châu (huyện Giao Thành, tỉnh Sơn Tây), tập hợp chúng chuyên tu pháp môn niệm Phật. Vào tháng 5 niên hiệu Hưng Hòa thứ tư (542TL), thời Đông Ngụy, ngài thị tịch ở chùa Bình Dao Sơn, hưởng thọ 67 tuổi.

Trong lời đối đáp của ngài Đàm Loan lúc gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi và tiếp nhận Quán kinh v.v…như đoạn văn trước đã nói, khiến cho chúng ta đâm ra nghi ngờ. Vả lại, Vãng sinh luận chú do ngài soạn, là lời giải thích luận này, lại thêm vào lời phê bình. Nhưng đặc biệt là ngài chú thích ở phía sau chữ “nhất tầm” với lời bình “Người dịch lấy chữ ‘tầm’ để nói, sao mà tối nghĩa quá”. Nếu Bồ-đề-lưu-chi là vị thầy quy y tịnh độ của Đàm Loan thì đây là câu nói vô lễ. Như thế, vị thầy mà ngài Đàm Loan thụ nghiệp cuối cùng là ai, không thể biết được. Nhưng ngài là người nghiên cứu qua bốn bộ luận: Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luậnĐại trí độ luận. Lại xét theo thứ tự sáu vị đại đức Đạo Trường, Đàm Loan v.v…trong An Lạc tập nêu tên ra thì có lẽ ngài là môn hạ thụ học với ngài Đạo Trường, người nổi tiếng đương thời về giảng giải Trí luận. Lại nữa, ngài Đạo Trường từng thụ trì Ngũ Thông mạn-đồ-la, như trước đã nói, nên ngài Đàm Loan chuyển hướng Tịnh Độ, cũng có lẽ là do sự chỉ dạy của ngài Đạo Trường.

Lại nữa, liên quan đến niên đại nhập diệt của ngài, tuy nhiên Tục cao tăng truyện có ghi ngài tịch vào niên hiệu Hưng Hòa thứ tư, thời Đông Ngụy, nhưng thấy trong bài minh Thái tử tạo tượng được lập vào tháng 2 niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (554TL), thời Bắc Tề có khắc trong hai mươi bảy người, liệt kê có tì-kheo tên Đàm Loan. Nếu tì-kheo Đàm Loan này và ngài Đàm Loan nói ở đây là một người thì niên đại nhập diệt kia phải là vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 5, thời Bắc Tề trở về sau. Lại nữa, Đàm Loan truyện trong quyển hạ Tịnh độ luận của Ngài Ca Tài có ghi: Vào cuối thời Ngụy, đầu thời Cao Tề, ngài vẫn còn tại thế. Đạo Xước truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 20 và Vãng sinh Tây phương tịnh độ thụy ứng san truyện đều có ghi là pháp sư Đàm Loan là người thời Tề. Vậy chúng ta có thể thấy ngài chẳng phải thị tịch vào thời Đông Ngụy.

Những tác phẩm của ngài Đàm Loan để lại đời sau, gồm có bộ Vãng sinh luận chú 2 quyển, Tán Di-đà Phật kệ 1 quyển, Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển. Trong đó, bộ Vãng sinh luận chú giải thích Vô Lượng Thọ kinh luận của bồ-tát Thế Thân. Quyển thượng giải thích hai mươi bốn hàng kệ nguyện vãng sinh, quyển hạ giải thích văn trường hàng, trong luận chú đối với yếu nghĩa Tịnh Độ Di-đà có sự phát huy độc đáo. Tán Di-đà Phật kệ là thơ thất ngôn, tổng cộng một trăm chín mươi lăm bài tụng là căn cứ kinh Vô Lượng Thọ để ca ngợi Phật A-di-đà và công đức trang nghiêm về y báo, chính báo tịnh độ Tây phương của Ngài, cho nên còn có nhan đề là Vô Lượng Thọ kinh phụng tán, hoặc là Đại kinh phụng tán. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa là nói về tịnh độ Tây phương An Lạc chẳng phải ở trong ba cõi, sự trang nghiêm của quốc độ, phẩm vị của người vãng sinh, biên địa, thai sinhnghi hoặc về ngũ trí[6], cho đến các luận nghĩa về mười niệm tương tục.

Trong Vô Lượng Thọ kinh tông yếu 2 quyển của Nguyên Hiểu, người Tân La, đưa ra ví dụ mặc áo hay cởi áo lội qua sông được nêu trong đây được cho là thuyết của ngài La-thập. Pháp hoa huyền nghĩa tư ký quyển thứ 6 của Chứng Chân, người Nhật Bản, cho rằng sách Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa do ngài La-thập trứ tác, nhưng sách này dẫn dụng có Quán kinh, Vãng sinh luận được phiên dịch sau ngài La-thập, vì thế sách này không phải do ngài La-thập soạn thuật, không cần phải hoài nghi. Lại nữa, trong trứ tác của ngài Linh Không Quang Khiêm, người Nhật Bản, có nói Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa 1 quyển, chẳng phải do ngài Đàm Loan soạn, mà nói sách này là ngụy tác của người Nhật Bản nào đó, chứ chẳng phải thật sự do ngài Đàm Loan soạn. Nhưng trong Tịnh độ luận của ngài Ca Tài, quyển hạ có nêu ngoài Vãng sinh luận chúVô Lượng Thọ kinh phụng tán ra, còn có một quyển Vấn đáp (tức An Lạc độ nghĩa). Trong An Lạc tập của ngài Đạo Xước cũng thường dẫn dụng văn của sách này. Không chỉ như vậy, thời cận đại ở động Đôn Hoàng cũng phát hiện bản cổ của sách này, do đó, không phải ngụy tác của Nhật Bản. Ngoài ra, trong Tục cao tăng truyện có đề cập Điều khí luận; Kinh tịch chí trong Tùy thư có nói đến Liệu bách bệnh tạp hoàn phương 3 quyển, Luận khí trị liệu phương 1 quyển; Nghệ văn chí trong Tống sử thì nêu Phục khí yếu quyết 1 quyển, tất cả đều là do đại sư Đàm Loan trứ tác. Chúng ta có thể thấy đại sư Đàm Loan cũng tinh thông về y thuật. Bởi vì, ngài Đàm Loan đã từng bị ma bệnh quấy nhiễu, vì tìm cách tự trị bệnh cho mình, cho nên ngài cũng tinh thông về y thuật.

Tiết 2: Nói về đạo khó hành và đạo dễ hành

Ngài Đàm Loan đề cao giáo nghĩa Tịnh Độ, lấy Vãng sinh luận chú làm chủ yếu, phần Khai tông minh nghĩa ở trong sách này, ngài trích dẫn ở phẩm Dị hành trong Thập trụ Tì-bà-sa luận của ngài Long Thọ, có ghi: “Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí (Bất thoái chuyển), có hai đạo: 1. Đạo khó hành; 2. Đạo dễ hành.

1. Đạo khó hành, nghĩa là ở đời năm trược, thời không có Phật, cầu A-tì-bạt-trí là khó, giống như đi bộ thì khổ nhọc.

2. Đạo dễ hành, chỉ dùng nhân duyên tin Phật để nguyện sinh Tịnh Độ, Phật lực gia trì tức nhập Đại thừa chính định tụ, chính định tức là A-tì-bạt-trí. Vì đời ngũ trược không có Phật, pháp ngoại đạo thịnh hành, quấy rối hành pháp vô tướng của bồ-tát; pháp tự lợi, tự điều phục của Thanh văn Tiểu thừa làm chướng ngại hạnh đại từ bi của bồ-tát, nên khiến cho họ bị thoái chuyển. Lại nữa, người ác không biết nhân quả, phá hoại đức thù thắng của bồ-tát, thiện quả hữu lậu điên đảo, quấy phá phạm hạnh của bồ-tát; không chỉ như vậy, trong thời không có Phật, người tu hành đều dựa vào năng lực của mình, không có Phật lực gia trì, cho nên khó đắc A-tì-bạt-trí; ví như đi bộ thì khó. Trái lại, đạo dễ hành thì nhờ sức bản nguyện của Đức Phật, nhờ nguyện mà vãng sinh. Được Phật lực gia trì thì nhập Đại thừa chính định tụ, rồi trụ Bất thoái chuyển. Đây tức là nương vào tha lực mà đắc A-tì-bạt-trí, ví như đi đường thủy thì ngồi trên thuyền thì thoải mái, nên gọi là đạo dễ hành.

Bởi vì hai đạo khó hành và đạo dễ hành vốn là do ngài Long Thọ khởi xướng. Ngài cho rằng ở cõi này lâu dài, chuyên tu tinh tấn, trải qua nhiều gian nan rồi mới được Bất thoái chuyển, là đạo khó hành; còn xưng niệm danh hiệu mười vị Phật ở mười phương như Phật Thiện Đức ở phương đông v.v…và danh hiệu chư Phật, bồ-tát như Phật A-di-đà, Phật Thế Tự Tại Vương v.v…thì chóng được Bất thoái chuyển, là đạo dễ hành. Vì vậy, ngài cho rằng ở cõi này hai đạo khó hành và đạo dễ hành đều có thể được Bất thoái chuyển.

Nhưng ngài Đàm Loan lại không có quan điểm như thế, ngài cho là ở cõi này tu hành được Bất thoái chuyển là đạo khó hành, chỉ có vãng sinh Tịnh Độ rồi tu hành được Bất thoái chuyển, mới là đạo dễ hành. Cõi này và Tịnh Độ, khó hành và dễ hành là do phân biệt tương đối mà nói.

Lại nữa, bồ-tát Long Thọ nói: “Xưng niệm danh hiệu chư Phật, bồ-tát đều thuộc pháp của đạo dễ hành”. Ngài Đàm Loan lại phản đối thuyết này. Ngài nói: “Chỉ có xưng niệm một danh hiệu Phật A-di-đà mới là đạo dễ hành, vả lại nhờ sức bản nguyện của Phật A-di-đà mới có thể vãng sinh Tịnh Độ, vãng sinh rồi mới được Bất thoái chuyển”. Như thế thì tất cả đều nhờ sức gia trì của Phật A-di-đà mà được, cho nên bất đồng với thuyết của bồ-tát Long Thọ. Những điều này là ngài Đàm Loan căn cứ vào giáo nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ và luận Vãng sinh để rút ra kết luận.

Tuy cách nhìn về yếu nghĩa Tịnh Độ của hai vị có hơi khác biệt nhưng ngài Đàm Loan vô cùng tôn sùng sự vĩ đại của bồ-tát Long Thọ. Ở trong Tán A-di-đà Phật kệ của ngài, có lời tán tụng:

“Đại sư Long Thọ ma-ha-tát

Sinh nhằm thời tượng pháp suy đồi

Đóng bít cửa tà, mở chính lý

Là mắt sáng của châu Diêm-phù.

Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa

Qui hướng Di-đà, sinh An Lạc.

Giống như rồng lượn, mây cuốn theo

Che mát trùm cả châu Diêm-phù.

Nam mô Từ bi Long Thọ tôn

Chí tâm qui mạng đỉnh lễ ngài.……”.

Đây là những lời tán thán chí thành, sùng kính. Trong đó, câu “Xin theo bồ-tát Hoan Hỉ địa v.v…” là y theo phẩm Kệ tụng trong kinh Nhập Lăng-già do Bồ-đề-lưu-chi dịch vào niên hiệu Diên Xương thứ 2 (515TL), thời Bắc Ngụy, để kể lại lời huyền ký về ngài Long Thọ vãng sinh cõi An Lạc. Ngài Đàm Loan nhờ nghiên cứu bốn bộ luận, do đó từ việc này, chúng ta có thể suy đoán ngài là người rất kính trọng bồ-tát Long Thọ. Cho đến khi thấy được lời văn huyền ký trong kinh Lăng-già thì ngài lại càng sinh tâm sùng kính hơn. Ngài Đàm Loan chắc là phải y theo đây mà phát khởi tín tâm qui nhập Tịnh Độ. Không chỉ như thế, trong Dị hành phẩm của bồ-tát Long Thọ còn liệt kê bản nguyện của Phật Di-đà, lại dùng ba mươi hai hàng kệ tụng để tán thán Phật Di-đà và tịnh độ của Ngài.

Thế nên, ngài Đàm Loan tham khảo, nghiên cứu ý kiến sâu kín của bồ-tát Long Thọ, rồi ước định một Đức Phật Di-đà và đặc biệt luận về đạo dễ hành và nói về sự lợi ích lớn lao của việc đắc Bất thoái chuyển sau khi được vãng sinh.

Tiết 3: Thuyết bản nguyện tha lực

Đại sư Đàm Loan nhấn mạnh sự trọng yếu nguyện lực của Đức Phật Di-đà, đó là ngài y theo kinh Vô Lượng Thọ. Nhưng chắc là ngài được sự gợi ý của bồ-tát Long Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ sớm được lưu thông ở phương Nam (đất Lương, thuộc Nam Triều). Trong Cao tăng truyện có ghi: “Như pháp sư Pháp Độ ở chùa Thê Hà, pháp sư Bảo Lượng ở chùa Linh Vị v.v…thường thuyết kinh này. Thế nhưng, họ chưa từng trứ tác sách vở hay lập thuyết, đối với bản nguyện Di-đà cũng chưa có phát biểu ý kiến mới gì cả. Đợi đến khi kinh này được hoằng truyền ở phương Bắc, thì ngài Đàm Loan mới cực lực khởi xướng. Cho nên, ngài Đàm Loan thật sự là người đầu tiên luận về Nguyện lực. Lý luận này có ảnh hưởng rất lớn đối với người tu học pháp môn Tịnh Độđời sau. Trong Vãng sinh luận chú quyển hạ có nói đến sự mạnh mẽ của nguyện lực Di-đà, tu tập ngũ niệm môn để tự lợi lợi tha thì có thể mau đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Đây là nương nhờ duyên tăng thượng của A-di-đà Như Laichứng đắc. Vì vậy, tất cả người vãng sinh Tịnh Độ, cho đến bồ-tát, thanh văn, người, trời, đại chúng tu tịnh hạnh đều nương nhờ bản nguyện của A-di-đà Như Lai. Nếu chẳng phải nguyện lực của Đức Phật gia bị thì bốn mươi tám đại nguyện của Di-đà chỉ thiết lập suông.

Trong bốn mươi tám đại nguyện, ngài Đàm Loan đặc biệt chỉ ra ba đại nguyện mười một, mười tám và hai mươi hai để luận chứng. Y theo ba đại nguyện này tu hành thì có thể vãng sinh Tịnh Độ, có thể đắc Bất thoái chuyển, có thể đắc Chính định tụ cho đến chóng thành Phật đạo. Nguyện thứ mười một nói về trụ Chính định tụ: “Nếu tôi được thành Phật mà người, trời trong nước tôi không trụ Chính định tụ, chắc chắn được diệt độ thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng người nhờ sức bản nguyện này được sinh về nước kia, đều trụ Chính định tụ thì không còn thoái chuyển. Nguyện thứ mười tám: “Nếu tôi được thành Phậtchúng sinh trong mười phương chí tâm tin ưa, muốn sinh nước tôi, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác, chỉ trừ kẻ phạm năm tội nghịchphỉ báng chính pháp”. Ngài Đàm Loan cho rằng nhờ sức bản nguyện này, chúng sinh trong mười phương đều được vãng sinh Tịnh Độ. Nguyện thứ hai mươi hai nói: “Nếu tôi được thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi Phật phương khác sinh đến nước tôi, rốt ráo nhất định đắc Nhất sinh bổ xứ, trừ người có bản nguyện riêng, tự tại biến hóa, vì chúng sinh, mặc giáp hoằng thệ, tích lũy công đức, độ thoát tất cả, đi đến các cõi nước Phật, tu hạnh bồ-tát, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa Hằng sa vô lượng chúng sinh, khiến an lập nơi đạo vô thượng chính chân, vượt qua công hạnh của các địa bình thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu không được như vậy thì tôi không thành Chính Giác”. Ngài Đàm Loan cho rằng nương sức bản nguyện này, nhờ nguyện lực của Phật mà được vãng sinh Tịnh Độ, vượt qua các địa bình thường, nghĩa là vượt qua hạnh của các địa như sơ địa, nhị địa, tam địa v.v…mà mau chứng địa vị Nhất sinh bổ xứ.

Bởi vì, ngài Đàm Loan đã được truyền thừa nguyên ý bất thoái chuyển của bồ-tát Long Thọ, mà lại phát huy thêm thâm ý mau thành Chính Giác. Cho nên, ngài đặc biệt dẫn chứng nguyện mười một, nguyện hai mươi hai. Lại nữa, nhờ vào những nguyện này mà được vãng sinh Tịnh Độ, về sau mới được lợi ích, cho nên ngài nêu thêm nguyện mười tám làm tiền đề. Dùng ba đại thệ nguyện này làm trung tâm để đề xướng bản nguyện luận tha lực: “Đạo khó hành là nương vào tự lực; đạo dễ hành là dựa vào nguyện lực của Phật, nương nguyện vãng sinh, cho đến Phật lực gia trì để mau thành Phật đạo”. Luận chứng thâm ý này đối với giá trị chân chính của giáo lý Di-đà tịnh độtác dụng trình bày và phát huy mạnh mẽ. Đời sau, các ngài Thiện Đạo v.v…đều thừa kế thuyết này và phát huy càng rộng lớn thêm.

Tiết 4: Nói về Ngũ niệm môn

Như trên đã nói, ngài Đàm Loan cho rằng nguyện lực của Phật rất mạnh, nên chúng sinh được vãng sinh, đắc Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo là cương lĩnh của giáo nghĩa Tịnh Độ. Trong đó, Bất thoái chuyển, chóng thành Phật đạo, Phật lực gia trì, nhất định phải do sự nỗ lực tu trì của bản thân hành giả tu Tịnh Độ mới được. Lại nữa, theo luận Vãng sinh của ngài Thế Thân lấy pháp tu Ngũ niệm môn làm pháp vãng sinh Tịnh Độ. Ngũ niệm môn:

1. Lễ bái môn

2. Tán thán môn

3. Tác nguyện môn

4. Quán sát môn

5. Hồi hướng môn.

Ý nghĩa của năm môn trên, chính ngài Thế Thân đã có giải thích, nhưng ngài Đàm Loan còn nói rộng thêm, đặc biệt ngài trình bày, phát huy và giải thích một cách tường tận.

1. Lễ bái môn nghĩa là trong tâm thường khởi nguyện cầu sinh Tịnh Độlễ bái Di-đà Như Lai. Đối với điều này không còn giải thích nào khác.

2. Tán thán mônxưng niệm danh hiệu Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai (Phật A-di-đà). Luận Vãng sinh có ghi: “Miệng tán thán danh hiệu Như Lai ấy, như ánh sáng trí tướng của Như Lai ấy, như danh nghĩa của Ngài, vì muốn tu hành đúng như thật tương ưng với danh nghĩa ấy”. Ngài Đàm Loan giải thích văn này: Ánh sáng của Phật là tướng trí tuệ, cho nên gọi là ánh sáng trí tướng, ánh sáng này chiếu khắp mười phương thế giới, không bị chướng ngại, có thể phá tan bóng tối vô minh cho chúng sinh trong mười phương, lại có thể làm thỏa mãn tất cả chí nguyện của chúng sinh. Tuy xưng danh, ức niệm nhưng vô minh vẫn còn, và sở nguyện không viên mãn, thế nên như thật tu hành tương ưng với nghĩa của danh hiệu Như Lai thì bóng tối vô minh mới bị phá trừ, tất cả chí nguyện mới được viên mãn.

Sao gọi là chẳng như thật tu hành? Là danh hiệu không tương ưng với nghĩa. Thế nào là chẳng như thật tu hành cùng với danh nghĩa chẳng tương ưng? Chẳng biết Như Lai là thân thật tướng, cho là thân vật chất. Lại có ba loại chẳng tương ưng:

a. Tín tâm không thuần, khi có khi không

b. Tín tâm bất nhất, không có tính quyết định.

c. Tín tâm chẳng tương tục, còn xen lẫn tạp niệm.

Vì thế, chẳng thành như thật tu hành cũng tức là danh và nghĩa chẳng thể nương nhau. Trái lại, nếu tín tâm thuần nhất, tín tâm quyết định, tín tâm tương tục thì danh nghĩa, như thật tu hành tương ưng, tất cả chí nguyện ắt thỏa mãn. Bởi vì luận Đại trí độ quyển 34 có ghi: “Phật có hai thứ thân: pháp tính sinh thân Phật và Hóa thân Phật tùy theo chúng sinh ưu liệt mà hiện. Pháp tính sinh thân Phật là không có việc gì không làm được, không có nguyện nào không thỏa mãn”. Căn cứ vào thuyết chỉ nghe danh Phật ấy thì có thể đắc đạo, cho rằng Phật A-di-đà là pháp tính sinh thân Phật. Vì thế, nếu có thể như thật tu hành, tất cả chí nguyện không nguyện nào không viên mãn. Lại nữa, căn cứ vào thuyết nhất tâm quy mạng Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai trong luận Vãng sinh, cho rằng tín tâm quyết định tương tục thì tương ưng với nghĩa của danh hiệu của Như Lai ấy và có thể trừ bóng tối vô minh. Về sau, ngài Thiện Đạo đặc biệt hoằng dương, lấy đây làm chính nhân vãng sinh Tịnh Độ, cho nên rất xem trọng.

Nhưng sự giải thích của đoạn văn này là chủ trương của cá nhân ngài Đàm Loan, e rằng chẳng phải nguyên ý của luận Vãng sinh. Nguyên nhân vì sao ở trong Tán thán môn thì nói đến như thật tu hành tương ưng? Trong Tác nguyện môn thứ ba có như thật tu hành xa-ma-tha, lại trong Quán sát môn thứ tư có như thật tu hành tì-bà-xá-na, nên có thể so sánh mà biết, như thật tương ưng là theo sự tu hành mà nói, bởi vì chữ tương ưng, Trung Quốc dịch từ chữ Du-già. Du-già có bốn loại: giáo, lý, hành, quả, trong đó công đức tán thán Như Lai là quả Du-già; xa-ma-tha, tì-bà-xá-na tức là hành Du-già; y báochính báo trang nghiêm gồm ba loại, hai mươi chín câu là cảnh Du-già. Nhờ đây, chúng ta có thể biết sự sắp xếp của Ngũ niệm môn chủ yếu là y theo giáo nghĩa của Du-già mà thành lập. Vậy thì, ngài Đàm Loan đem sự giải thích này làm nghĩa của danh nghĩa tương ưng, là điều không hợp với nguyên ý của ngài Thế Thân.

3. Tác nguyện mônnhất tâm chuyên niệmphát nguyện vãng sinh cõi An Lạc, muốn như thật tu hành xa-ma-tha tức là tu Chỉ, vì xa-ma-tha Hán dịch là Chỉ. Ngài Đàm Loan giải thích “Chỉ” là nghĩa dứt điều ác, có ba nghĩa:

a. Nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Như Lai, nguyện sinh cõi ấy, nhờ danh hiệu của Như Lai này và danh hiệu của cõi nước kia mà có thể dứt tất cả điều ác.

b. Cõi An Lạc vượt qua ba cõi, nếu người vãng sinh cõi ấy, tự nhiên dứt được điều ác của thân, miệng và ý.

c. Sức trụ trì chính giác của A-di-đà Như Lai tự nhiên ngăn cái tâm của chúng sinh ở cõi kia cầu Thanh văn, Bích-chi-phật.

Ba loại Chỉ này sinh từ công đức như thật của Như Lai, cho nên nói muốn như thật tu hành xa-ma-tha.

4. Quán sát môn là phải chính niệmquán sát ba loại, hai mươi chín câu trang nghiêm của tịnh độ kia, rồi muốn như thật tu hành tì-bà-xá-na tức là tu Quán. Ngài Đàm Loan giải thích Quán có hai nghĩa:

a. Ở cõi này khởi tưởng để quán sát công đức của ba loại trang nghiêm, vì công đức này như thật nên người tu hành cũng được công đức như thậtquyết định được sinh về tịnh độ ấy .

b. Người được sinh về tịnh độ ấy, liền thấy Đức Phật A-di-đà, tuy chưa chứng bồ-tát tâm tịnh nhưng cũng đồng với bồ-tát tâm tịnh được chứng pháp thân bình đẳng. Vì thế, nói như thật tu hành tì-bà-xá-na.

Trong đây, dùng xa-ma-tha để giải thích nghĩa dứt ác, lập riêng ba nghĩa để nói là điều không hợp với nguyên ý. Lại dùng tì-bà-xá-na làm nghĩa sinh về cõi kia, sau đó thấy Phật A-di-đà, cũng không được thỏa đáng và cũng không hợp với ý của bồ-tát Thế Thân. Nhưng lấy Đức Phật làm trung tâm, đứng trên lập trường “Phật lực trụ trì”, mà giải thích ý đồ của tất cả, là đặc trưng giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, đây là chủ trương trước sau như một của ngài.

5. Hồi hướng môn là chẳng đem tất cả công đức thiện căn cầu cho tự thân được an vui mà vì muốn dứt trừ tất cả khổ cho chúng sinh nên phát nguyện nhiếp thủ họ đồng sinh tịnh độ An Lạc. Ngài Đàm Loan nói: “Hồi hướng có hai loại: vãng tướng và hoàn tướng. Vãng tướng là đem công đức của mình hồi hướng cho tất cả chúng sinh, phát nguyện cùng sinh về cõi Phật ấy. Hoàn tướng là sau khi sinh về cõi ấy, đắc xa-ma-tha, tì-bà-xá-na và thành tựu phương tiện lực thì quay về thế giới Ta-bà để giáo hóa tất cả chúng sinh cùng hướng về Phật đạo. Nhưng tâm hồi hướng này là chỉ cho tâm Vô thượng bồ-đề, đã được nói trong ba hạng vãng sinhkinh Vô Lượng Thọ. Tâm Vô thượng bồ-đềtâm nguyện thành Phật; tâm nguyện thành Phật tức là tâm độ chúng sinh; tâm độ chúng sinh tức là nhiếp thủ chúng sinh mà sinh vào cõi có Phật. Vậy thì nguyện sinh tịnh độ An Lạc nhất định phải phát tâm bồ-đề này. Nếu không phát tâm này mà chỉ cầu cho bản thân hưởng thụ cõi An Lạc thì không thể vãng sinh cõi An Lạc. Do đây, vì cầu vãng sinhphát tâm bồ-đề, vì vậy tâm bồ-đề được gọi là chính nhân của vãng sinh Tịnh Độ.

Ở trên, ngài Đàm Loan lấy Ngũ niệm môn làm nhân vãng sinh. Trong đó, ngài y theo nguyên ý của Vãng sinh luận, Quán sát môn lẽ là ra hành môn chủ yếu, như trong Quán sát môn đã nói. Nhưng trong Thập trụ Tì-bà-sa luận thì xác tín rằng danh hiệu là thuyết Dị hành. Lại nữa, trong Tán thán môn nói xưng tán danh hiệu Như Lai đối với công đức xưng danh thì được coi trọng hơn. Lại cho rằng xưng danh hiệu Phật thật có công đức rất sâu, và cổ súy mọi người nên tin theo. Phần đầu của Vãng sinh luận chú nói kinh Vô Lượng Thọ dùng danh hiệu Phật làm thể. Lại nữa, danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai có đại dụng phá trừ bóng tối vô minh. Danh hiệu Như Laidanh hiệu quốc độ của Ngài có năng lực dứt tất cả điều ác. Chúng sinh ở trong sinh tử tuy có vô lượng tội lỗi nhưng dùng bảo châu thanh tịnh chí cực vô sinh của Di-đà Như Lai gieo vào trong tâm ô uế của chúng sinh thì có thể diệt được tội trong mỗi niệm của họ, tâm tịnh thì được vãng sinh. Trong Vô Lượng Thọ kinh phụng tán có ghi: “Người nghe đức hiệu của Di-đà, sinh lòng tin, vui vẻ lắng nghe, cho đến một niệm sinh tâm chí thành, hồi hướng nguyện sinh thì đều được vãng sinh”.

Ngài Đàm Loan căn cứ vào điều nguyện thứ 18 trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm, nếu chẳng vãng sinh thì tôi không thành Chính Giác”. Phần Hạ phẩm hạ sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: nếu xưng Nam mô A-di-đà Phật đủ mười niệm thì tội có thể diệt, được vãng sinh và dùng mười niệm tương tục làm sinh nhân của vãng sinh Tịnh Độ, đồng thời giải thích đó là nhân tố để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Có liên quan ý nghĩa của mười niệm, Vãng sinh luận chú quyển thượng cho rằng nghĩa của ức niệm A-di-đà Phật, hoặc là tổng tướng, hoặc là biệt tướng, tùy theo duyên sở quán vào một tướng nào, tâm khôngý tưởng khác, mười niệm tương tục, gọi là thập niệm. Xưng danh hiệu cũng lại như thế.

Lại nữa, trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu ví dụ mặc áo, cởi áo để qua sông có ghi: “Mười niệm tương tục, giống như có người ở nơi hoang dã bị giặc truy đuổi, do đó nghĩ cách chạy trốn, bỗng thấy trước mặt có dòng sông lớn chắn ngang, nhưng phải vượt qua sông ấy mới có thể thoát được ách nạn. Khi đó, người này chỉ nghĩ vượt qua sông, không có ý nghĩ nào khác. Nói cách khác, khi đó, người này tuyệt nhiên không thể suy đi nghĩ lại là nên mặc áo để bơi qua sông, hay nên cởi hết áo quần để bơi qua sông, nếu mặc áo quần xuống nước thì áo quần sẽ bị thấm ướt, không tiện cho việc bơi lội, e sẽ bị chết chìm; nếu cởi hết áo quần để bơi qua sông thì giặc đuổi đến nơi, thời gian lại không cho phép. Chỉ có một niệm qua sông, lại không có ý niệm khác. Hành giả tu Tịnh Độ nhất tâm chuyên niệm Phật A-di-đà lại không có tâm khác xen tạp trong đó, niệm niệm nối nhau, cho đến mười niệm, đây gọi là mười niệm tương tục. Tức là nói: “Không luận xưng danh hiệu, hay là quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, chỉ cần nhất tâm chuyên chú, tâm khôngý tưởng khác xen tạp, mười niệm tương tục tức gọi là thập niệm.

Hỏi: Chỉ dùng nhất tâm tương tục này chuyên chú quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, như vậy làm sao biết được trước sau tổng cộng có bao nhiêu niệm? Như ban đầu quán tưởng tướng hảo của Phật Di-đà, giữa chừng xen tạp sự duyên khác, đợi sự duyên qua đi, lại nhiếp tâm quán niệm, như thế thì có thể tính ra số lần niệm. Nhưng niệm trước niệm sau có bị gián đoạn, cho nên không thành tương tục. Niệm tức là niệm trước và niệm sau gián đoạn, giữa chừng tương tục không gián đoạn. Ngài Đàm Loan đối với thập niệm này đầy đủ, xác nhận đó là điều then chốt để thành tựu sự nghiệp vãng sinh. Nếu ngưng tâm quán tưởng, lại nương vào đây có thể nhớ kỹ bao nhiêu niệm?

Đáp: Kinh nói thập niệmnói hành nghiệp vãng sinh thành tựu, không cần phải biết số niệm, giống như con ve tuy nó sinh vào mùa hạ và cũng chết vào mùa hạ nên nó không biết có mùa xuân, mùa thu như người hiểu biết tự có thể biết rõ mạng số của nó. Mười niệm tương tục có thể thành tựu tịnh nghiệp vãng sinh, đây tuy là việc không biết của hàng phàm phu chúng ta nhưng nhìn từ lập trường của bậc chứng thần thông thì họ biết rõ ràngthành tựu hay không? Vì thế, hành giả chỉ nhất tâm không loạn, tích niệm tương tục, không duyên việc khác, lại có rãnh rỗi đâu mà đi phân biệt số niệm. Nếu cần biết thì cũng có phương tiện, đó là phải truyền miệng chứ không thể hình dung bằng bút mực. Đây là chuyên niệm tương tục được ngài Đàm Loan đặc biệt xem trọng, và lấy đây làm điều then chốt để thành tựu tịnh nghiệp.

Tiết 5: Luận về tịnh độ Di-đà

Thời ngài Đàm Loan đối với thuyết phân loại Tịnh Độ, hình như còn chưa phân biệt rõ ràng, nhưng y theo Vãng sinh luậnĐại trí độ luận cho rằng Tịnh Độ Di-đà vượt qua khỏi ba cõi. Trong Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa có nêu nước An Lạc nhưng chẳng thuộc trong ba cõi. Luận Đại trí độ cũng có nói Tịnh Độ chẳng thuộc ba cõi. Vì sao? Vì Tịnh Độ không có tham dục nên chẳng phải Dục giới; vì là địa cư nên chẳng thuộc Sắc giới; vì có hình sắc nên chẳng thuộc Vô sắc giới. Lại nữa, Vãng sinh luận chú quyển thượng, khi giải thích câu kệ “Thắng quá tam giới đạo”, ngài Đàm Loan nói: “Xưa sở dĩ Phật nói lên công đức thanh tịnh trang nghiêm này, vì ngài thấy ba cõi là tướng hư ngụy, là tướng luân chuyển, là tướng vô cùng, như con sâu đo tuần hoàn, như con tằm tự ràng buộc mình. Than ôi! Chúng sinh ở trong ba cõi này, điên đảo bất tịnh, Đức Phật vì muốn đặt chúng sinh ở chỗ không hư ngụy, chỗ không luân chuyển, chỗ không cùng tận, được ở chỗ rốt ráo an lạc thanh tịnh, cho nên nói ra công đức trang nghiêm thanh tịnh này”.

 

Lại nữa, khi Đàm Loan nói đến vấn đề thân Phật Di-đà là báo thân hay là ứng thân, thì trong Vãng sinh luận chú, ngài nêu lên bồ-tát Pháp Tạng ở chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn, giai vị này gọi là chủng tính Phật. Ở trong tính này, bồ-tát Pháp Tạng phát bốn mươi tám đại nguyện, mà tu hạnh trang nghiêm tịnh độ tức là tịnh độ An Lạc. Vì thế, cõi này là nhân sở đắc của Ngài. Vì trong quả nói nhân cho nên gọi là tính. Lược luận An Lạc tịnh độ nghĩa cũng nói đến bồ-tát Pháp Tạng ở trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương phát hoằng thệ nguyện, để nhiếp thủ sự trang nghiêm thanh tịnh quốc độ của chư Phật, và đã vô lượng a-tăng-kỳ kiếp phát nguyện tu các ba-la-mật-đa để trang nghiêm vạn thiện được thành tựu viên mãn, rồi chứng đắc Phật đạo vô thượng. Đây tức là do biệt nghiệp mà được, cho nên tịnh độ chẳng thuộc ba cõi, ba thân đầy đủ. Do đây không cần hoài nghi Đức Phật kia không phải là báo thân Phật, tịnh độ Tây phương không phải báo độ. Ở trong Quán kinh nghĩa sớ của Cát Tạng có ghi: “Địa luận sư phương Bắc nói rằng tịnh độ Di-đà chẳng thuộc ba cõi. Lại nữa, khi bồ-tát Pháp Tạng đã chứng địa vị bát địa trở lên, là pháp thân đại sĩ, nên tịnh độ mà ngài trang nghiêm là Thật báo trang nghiêm độ v.v…”. Điều này chỉ cho thuyết của ngài Đàm Loan.

Ngài Đàm Loan lại dẫn kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói: “Tịnh độ Di-đà có vô lượng vô số chúng Thanh văn” và Vãng sinh luận có ghi: “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Hai thuyết này trái nhau, nếu dùng cả hai nghĩa bổ sung cho nhau thì sẽ được dung thông. Hai nghĩa này:

1, Đời ngũ trược, Thích Tôn nơi một phương tiện nói thành ba, Tịnh Độ không có ngũ trược, nên không có sự phân biệt nhị thừa thì Tây phương tịnh độ không có hàng nhị thừa. Kinh Vô Lượng Thọ v.v… nói: có hàng Thanh văn là chỉ cho A-la-hán, thật sự chẳng phải người Thanh văn thừa. Vì A-la-hán đều đã đoạn hoặc, không còn thụ sinh trong ba cõi, nhưng họ chưa được giải thoát hoàn toàn, không cầu vãng sinh tịnh độ ở ngoài ba cõi mà lại cầu đại đạo vô thượng, do đó, trong kinh vẫn gọi là Thanh văn, không hề có sai lầm.

2. Chủng tính Tiểu thừa không được sinh ở tịnh độ ấy, cho nên nói “Chủng tính nhị thừa không sinh”. Ví như ở vùng Giang Bắc tuyệt đối không có cây quýt, mà trong cửa hàng trái cây ở Hà Bắc, Lạc Dương có thể mua được trái quýt. Cũng vậy, trong cõi An Lạc không sinh chủng tính nhị thừa, nhưng không từ chối bậc Thanh văn sinh cõi ấy. Vì thế, nói trong tịnh độThanh văn cư trú. Vấn đề này, đời sau ngài Thiện Đạo v.v…nghiên cứu và thảo luận, phần nhiều y theo thuyết sau để giải thích thật sự trong tịnh độ ấy có Thanh văn. Nhưng theo ý của Thế Thân, cõi ấy thuần là chúng Bồ-tát, mà không có chúng nhị thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10397)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9672)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23588)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11829)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10719)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10063)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28666)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21595)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29389)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11380)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26305)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31008)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25308)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22786)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13038)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21911)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12217)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14124)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12415)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11235)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10686)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38043)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13661)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13448)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12334)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12578)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12047)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10714)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11205)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23348)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33171)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12781)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7381)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12182)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12601)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12029)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12854)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11934)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10684)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11352)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11647)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10851)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10782)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10362)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10470)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10697)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10623)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11900)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10683)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12727)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10793)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11374)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11087)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11618)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10505)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11245)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12292)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11144)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12483)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11411)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11494)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11286)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11572)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12984)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14153)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10997)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11857)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13145)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11557)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11405)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10916)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11271)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10800)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11052)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10868)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10236)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17098)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10994)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10858)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10400)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10744)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11377)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11064)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10563)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11369)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10341)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10652)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12752)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19232)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19668)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21256)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20297)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19720)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19012)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20441)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21059)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17909)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21790)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant