Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I Thiến Là Trí Tuệ Của Sinh Hoạt

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4388)
Chương I Thiến Là Trí Tuệ Của Sinh Hoạt

BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998

CHƯƠNG I

THIẾN LÀ TRÍ TUỆ CỦA SINH HOẠT

THANH TĂNG VÀ MỸ NỮ 

 “Cô mộc hàn nham” có nghĩa là: cây gỗ khô, ghềnh đá lạnh. Trong danh tác “Ngã Thị Miêu” của văn học gia Hạ Mục Sấu Thạch đã xuất hiện thành như thế. 

 Con mèo, vai chính trong tác phẩm, trong một đoạn văn khi bình thuật về người chủ Khổ Sa Di của nó, đã phát triển biểu như sau: 

 “Thường ngày, chủ nhân tôi cứ mang bộ mặt biểu lộ cái tình cảm “cô mộc hàn nham” lạnh lùng như gỗ đá, nhưng thật sự tuyệt đối ông không phải là người lãnh đạm với nữ nhân....” 

 Hạ Mục tiên sinh thường hay sử dụng một từ ngữ khó hiểu, điển hình như “Cô mộc hàn nham”, nhưng dựa trên mặt chữ vẫn thừa sức nhận ra cái ý “Cây khô và ghềnh đá lạnh”. Và xem lại toàn ý của đoạn văn, có thể hình dung ngay thái độ lãnh đạm đối với nữ nhi quả giống như cây khô ghềnh lạnh, khô khốc không một mảy may nhiệt tình nào. 

 Đấy là lối dụng ngữ trên văn đàn, thực tế thì đây là một câu Thiền ngữ. Nguyên lai điển tích như thế nầy: 

 Trước kia, có một vị hoà thượng thanh tu, sống cuộc sống rất thanh tịnh trang nghiêm gần như là cảnh giới thánh nhân. Vì thế, quanh ông không thiếu gì người đeo đuổi, trong đó có một vị lão thái bà, ngưỡng mộ vị Thanh Tăng Nầy hơn ai hết. Liên tục suốt 20 năm liền, bà chưa gián đoạn sự cung dưỡng đối với vị Tăng bao giờ 

 Nhưng, phương thức cung dưỡng của vị lão thái bà nầy tương đối kỳ quặc đặc biệt, bà luôn lựa mấy thiếu nữ xinh đẹp đưa đến để phục dịch hầu hạ vị Thanh Tăng. Nhưng cuối cùng, mỹ nữ đối với Thanh Tăng giống như đồng tiền vàng đối với mèo. Trên căn bản không có tác dụng gì sao? Hay giống như cá khô đối với mèo, có một hấp lực dụ dỗ lôi cuốn mãnh liệt? Đây là việc không thể biết được. 

 Hai mươi năm trôi qua

 “Phải, đã đúng lúc rồi...” Lão bà nghĩ thầm trong lòng 

 Thế là một hôm, bà đặc biệt dạy bảo bọn thiếu nữ cố gắng quyến rủ hoà thượng

 “Lại đây nào! Chịu không nào!” Những thiếu nữ được bà căn dặn, bày lộ tư thái khêu gợi. Bên tai Thanh tăng phát ra những tiếng phát nộ, bấy giờ Thanh tăng lên tiếng

 “Cô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí” 

 Tam đông ý nói gồm Mạnh đông, Trọng đông, Quý đông, tức ba tháng mùa đông. Trong mùa đông vốn đã lạnh lẽo, cây cỏ bám leo theo vách hố thẳm càng lạnh lẽo hơn. Thanh tăng thốt ra lời nầy để bày tỏ rằng: lòng ông đã triệt ngộ nên được trong sạch yên tịnh, không vì sắc đẹp mà giao động thối hoá. Xem ra, thật vị Thanh tăng nầy đã tu đến cảnh giới “như như bất động”...Không, hãy khoan luận đoán bừa bãi, câu trả lời với đám mỹ nữ của Thanh tăng sẽ được đãi ngộ ra sao, đó mới là trọng điểm 

 Sau khi nghe thiếu nữ trở về bẩm báo rõ rành sự việc, lão thái bà đùng đùng nổi giận

 “Á! Tức chết được! Ta đã phí công cung dưỡng người phàm tục nầy suốt hai mươi năm...” Nói xong, bà tức khắc đuổi vị Thanh Tăng ra khỏi lều tranh, rồi phóng hỏa thiêu rụi túp lều 

 Đấy là điển tích của thành ngữ “Cô mộc hàn nham”. 

 Quý độc giả có lãnh ngộ được đạo lý gì từ điển cố này không?

LÀM THẾ NÀO VẸT MÂY ĐỂ THẤY MẶT TRỜI 

 “Xem ra, vị Thanh Tăng này thật đã tu đến cảnh giới “như như bất động”. Ở trên, tôi đã nói thế. Kỳ thực, lời nói này hàm ẩn mùi vị mỉa mai. Bởi vì giống như lão thái bà, đối với thái độ của vị Tăng này tôi cho là không đúng. Vị Thanh tăng có đích thật là thánh tăng, cao tăng? Nhưng cao tăng cũng là người, tại sao trông thấy gái đẹp phải tạo ra tư thái “cô mộ hàn nham”? Tôi lại muốn lột tấm da của quyển Chánh Kinh nghiêm túc nầy để tra tìm cứu cánh

 Nhưng, cần phải hỏi lại, thái độ vị Thanh tăng này có điểm nào không đúng? Mặc dù thái độ của ông gây cho người khác có những phản cảm, nhưng nếu suy ngẫm kỹ, thì không thể bảo rõ chỗ nào là điểm không đúng. Ông là bậc xứng đáng để được khen ngợi? Lý do, ở địa vị bạn, khi một thiếu nữ xin đẹp đến liếc mắt đưa tình để tìm cách rung động lòng bạn, rồi chu mồm nũng nịu thốt lên: 

“Hãy lại đây ôm lấy tôi” – lúc ấy bạn sẽ phản ứng ra sao? Nếu như tôi... Đương nhiên thực tế thì tuyệt đối chẳng có ai ngã vào lòng tôi. Nhưng cứ giả thử có một cô gái xinh đẹp thật sự xuất hiện trước mắt, thì thôi phải làm sao cho chu toàn đây? “Được rồi! nếu không dám tiếp nhận sự mời gọi nồng nàn của mỹ nhân thì không đáng là bậc hảo hán!” – Tôi nghĩ, kết quả chắc phải như vậy thôi – vì dù sao thì mình cũng chỉ là hạng phàm phu tục tử

 Nhưng, một khi vai chánh hảo nam nhân kia đổi thành vị hoà thượng mà làm như thế thì quả thật không nên. Nếu hoà thượng mà ôm lấy đàn bà, thì phải chăng công phu tu hành mấy mươi năm khổ nhọc đã huỷ hoại trong một ngày? Kết quả không những uổng công mà không chừng danh dự còn bị chà đạp! Nhưng, trong cảnh ngộ nầy, hoà thượng phải hành xử thế nào ngoài cách nghiêm trang thốt lên “Cô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí”, không lẽ chẳng còn cách nào khác? 

 Chính vì thế, thoại đề lại quay về khởi điểm. 

 Nếu cứ tiếp tục lập lại mãi thoại đề này một cách trùng phúc theo vòng xoay, thì đây chính là “Công án thiền thoại” nổi tiếng trong Thiền môn (1), nếu quý vị tham khảo và có thể tìm ra đạo lý trong ấy, thì đích thực quý vị đã tri nhận được Thiền. 

“Như thế, thế thì kết quả sẽ ra sao?...” – Đây là phương thức tư khảo cố định của thiền. Hãy dùng công án “Cô mộc hàn nham” (chúng ta thường gọi là “Lão bà đốt am”) này để tham khảo! Muốn giải đáp quý vị cần phải hạ thủ công phu để lãnh ngộ. Có người sẽ thắc mắc: “Nhưng hạ thủ công phu bằng cách nào?” và nếu không tìm ra đáp án chỉ còn có cách: “Thôi hãy tìm đến thiền đường, mời một vị thiền sư cao minh chỉ lối!” Mỗi khi có sự việc liên quan đến phương diện tu thiền, phần đông đều không thoát khỏi câu cả trời đại khái như thế.

ĐỪNG CHO RẰNG MỤC HẠ VÔ NHÂN LÀ “TINH THẦN TỰ TẠI”

 Mặc dù đối với phương thức tu thiền, tôi đã không cho là như thế. 

 -- Miễn toạ Thiền -- 

 Phương thức của tôi, thoạt nghe qua có lẽ có điều chi quái dị, nhưng tôi vẫn cứ thử đề xướng. Đối với những tục gia tu tập tại nhà như chúng ta, cứ nghĩ rằng ngày nào cũng phải đến thiền dường dường như là việc khó có thể được. Chẳng lẽ vì thế mà ngồi nhà không thể tu thiền được sao? 

 “Không thể tại gia”, số người chủ trương như vậy không phải là ít, trước khi, Đạo Nguyên thiền sư là một trong số vị ấy. Tuy khi từ Trung Quốc trỏ về Nhựt Bổn, Ngài khẳng định là người tại gia có thể tu thiền, nhưng về sau Ngài lại chuyển sang chủ nghĩa xuất gia tuyệt đối. Từ diểm này đã biểu hiện tron vẹn tánh cách tuyệt đối không thỏa hiệp đối với sự việc chưa đủ viên mãn của thiền sư 

 Mãi đến nay, chủ trương “không thể tại gia” vẫn chiếm đa số. Chỉ một ít nhân sĩ thiền tôn cho rằng tu tại gia cũng không sao, nhưng những người chủ trương như thế đại khái rất ít. “Nói một cách lý tưởng, phương thức tu thiền chân chính đúng nhất là phải tìm đến đạo trường chuyên tu, thỉnh cầu thiền sư cao minh chỉ đường dẫn lối”, những người chủ trương “không thể tại gia” phát biểu như thế là muốn nêu rõ cái ý: nếu không dựa theo phương thức này, cứ ở nhà xem càn mấy quyển sách mở trí mà lại muốn hiểu rõ về thiền, trên căn bản, đó là việc không thể có được. 

 Có lẽ cá tánh tôi phóng khoáng, thích tiện nghi, nên cảm thấy muốn chống lại chủ thuyết này. Nếu cứ một mực câu nệ hình thức xuất gia hay tại gia, thì đó không phải là xa lìa tinh thần căn bản của thiền sao? Tôi cho rằng “Thiền” là một loại tinh thần rất tự do tự tại, khoáng đạt khai lãng và như thế mới đích thật là thiền. 

 Trước khi thảo luận về phương pháp thiền của tôi, xin có vài lời có thể không được vui thích mấy. Đôi khi, chúng ta phát giác những vị tu thiền có một số người đặc lập, độc hành. Bảo rằng họ bàng nhược vô nhân cũng được, quấy nhiễu người khác vô ý thức cũng vô hại, tóm lại là có một số người “ta làm, mặc ta tồn tại”. Đương nhiên, số này chỉ là thiểu số, và phần lớn vẫn là thiền sưđạo phong tương đối viên mãn

 Cho nên, nếu chúng ta lìa tinh thần căn bẳn của thiền, thì phải chăng đó là một hành động xô đẩy thiền hướng về một loại trí thức chuyên môn? Tuy ở đây, loại người phàm tục như chúng ta mà bàn về thiền, luận thuyết về đạo thì không khỏi khiến người khác có cảm giác rằng chúng ta là kẻ múa rìu qua mắt thợ, nhưng, nếu như chúng ta có thể nắm vững động mạch của Phật pháp thì đối với sự giải thích có chỗ xê dịch cũng không thể tránh được. Điểm này tôi sẽ tường thuật thêm. Ở đây tạm thời gọi thiền là “Tinh thần của tự tại”! Kỳ thực thiền vốn chính là loại tinh thần này, nếu thờ ơ cái tinh thần thực chất mà chỉ nhấn mạnh cái hình thức bên ngoài, thì cho dù ghi dấu thiền là “Tinh thần tự tại”, nhưng khác nào bảo nó chỉ là môn học được chuyên hoá. Đối với điểm này, chúng ta không thể không nghĩ đến một cách sâu thẳm hơn. 

 Lấy công án “Lão bà đốt am” làm điển hình, trọng tâm có thể nói là nằm trong chữ “Thanh Tăng”. Khi chúng ta còn mang tư tưởng hạn hẹp cho rằng “Thanh tăng” phải thề này thế kia, thì sẽ dính quàng rối rắm đến đời sống thường phàm biết bao! Vì thế, xuyên qua mẩu chuyện này, chúng ta có thể lãnh ngộ đích xác thiền có thể mang lại một tư tưởng không gian càng tự do càng thên thang rộng lớn. 

Nhưng nói đi phải nói lại, hiện nay đã có người xe thái độ bàng nhược vô nhân như là một phong thái hào phóng lịch sự mà đặc dị độc hành và lại còn tự cho đó chính là “Thiền” thì quả thật đã làm cho mọi người cảm thấy phân vân mơ hồ khó tả!!

KHẢI THỊ THẤY ĐƯỢC TỪ MỘT TIỂU THIỀN SINH 
DÙNG RỔ TRE ĐỂ HỨNG NƯỚC MƯA 

 Trên thực thế, loại người đạc ập độc hành này đã không chỉ tồn tại trong chốn thiền môn. Thông thường, chúng ta nhìn những vị tu thiền biến thành “Thiền Si” (chỉ sinh hoạt duy nhất trong lĩnh vực thiền), và xem họ như một quái nhân để đối đãi, không ngờ, thực ra ở ngoài tục thế cũng có lắm người giống hệt như vậy đang hiện hữu mà tước danh của họ đang thuộc vào loại hình tướng “chuyên gia” 

 “Chuyên gia”, nói một cách khác, là “chuyên gia mốc”. 

 Ở bậc đại học, loại chuyên nghiệp ngốc này đặc biệt có nhiều. Ví như một số giáo sư toán số học đảng cấp quốc tế, hoặc các bác học đoạt giải thưởng vật lý Nobel, tuy ở phương nào đã thành tựu một cách phi phàng nhưng đối với sự vật trên thế gian thì nhất khiếu không thông, biết bao loại “chuyên gia” như thế đang có mặt khắp nơi! 

 Chỉ nói đến hạng người thông thường1 Như người nào đó lúc mới vào làm trong công ty! chức vị ban đầu chỉ là viên chức nhỏ, nhưng khi chuyển nghiệp hoặc may mắn nhảy rào, đôi khi còn tạo nên tiếng tăm dữ dội. Như loại “chuyên gia” thượng thặng trên xã hội, có rất nhiều loại chuyên nghiệp ngốc này. Do xã hội trước mắt dần dần vào hướng chuyên nghiệp hoá, bởi vậy tất nhiên đã tạo nên cả khối chuyên gia cao thủ ngốc ra đời. Điều đáng buồn là, chúng ta đang bị nắn tạo nên loại chuyên nghiệp ngốc mà không tự biết. 

 Chuyên gia trong thiền môn cũng là thế. 

 Trong xã hội có đầy dãy chuyên gia ngốc khiến cho chúng ta quan niệm trái nghịch lại những thông hiểu sự lý và những ngươì văn võ toàn tài

 Nói ngược lại, thiền thường bảo chúng ta nên đả phá cái “Thường lý” chấp trước của con người thường tình. Nếu chúng ta chỉ dựa vào thường lý thông thường để suy đoán sự vật, thì thiền không cần thiết để tồn tại. Mẫu chuyện dưới đây, có liên quan đến sự tích thất lạc của một vị thiền sư trong thời đại Liềm Thương ở Nhựt Bổn. Vị này, là Quan Sơn Huệ Huyền thiền sư mà sau này được Hoa Viên thượng hoàng phụng thỉnh để sáng lập kiến thiết thôi Diệu Tâm Tự (2). Sự tích thất lạc này, đại khái là mẫu chuyện phát sanh khi ông ẩn cư trong núi Mỹ Nồng (Kỳ Phồi huyện): 

 Môt hôm, trong núi đột nhiên mưa lớn, hạt mưa bằng hột đậu không chút vị tình đổ xuống nóc nhà ngói lâu năm thiếu tu bổ, không lâu, đại điện dã bắt đầu bị mưa dột. 

 “Lấy đồ hứng mưa nhanh lên!” 

 Huệ Huyền thiền sư lớn tiếng ra lệnh. Nhưng, mưa dột đến như thế mà chùa thì lại nghèo đến đỗi đã không có được cái thùng chứa nước. Có thật là không có một vật gì sao?...Chúng đệ tử hè nhau lật rương đổ tráp, bới tìm chí mạng vẫn không sao tìm ra vật gì để hứng nước cả. Đang lúc đám người hốt hoảng lo lắng, bất chợt có một vị tiểu tăng với lấy cái rở tre trong nhà bếp chạy thẳng ra ngoài. 

 Dùng rổ tre hứng mưa? 

 Hành động vô cùng kỳ quái! Đương nhiên là làm một việc vô bổ

 Nhưng sau việc, Huệ Huyền đại sư đã dành nhiều lời ngợi khen vị tiểu tăng này, những đệ tử loay hoay hoảng hốt khi nãy thì bị quở trách nghiêm khắc

Hàm ý của mẫu chuyện này như thế nào quý vị có biết không?

KHÔNG NÊN BIẾN THÀNH TÙ BINH CỦA THƯỜNG THỨC 

 Công án Thiền tôn thật sâu sắc và khó hiểu. Hơn nữa như đã từng nêu ở trước, đã không có bất cứ tiêu chuẩn tuyệt đối nào trong việc giải thích công án, thiền ngữ. 

 Nhưng điểm này xin tạm gác lại, chúng ta hãy theo quan niệm “thường thức” mà tham cứu công án này. Dưới đây là quan điểm cá nhân tôi: 

 Rổ tre không cách nào hứng được nước mưa, ai cũng đều biết sự việc thường thức này cả. Nhưng trong chùa ngoài cái rổ re ra k hông có vật khả dĩ nào khác, đó cũng chính là nguyên nhân làm cho các đệ tử của thiền sư hoảng hốt, bấn loạn cả tay chân. 

 Tay chân lúng túng đã chẳng lợi ích gì trước sự việc, chi bằng lấy rổ tre hứng mưa còn tốt hơn – Tôi nghĩ nếu bảo thế, thì thiền lại rơi vào hý luận. Và trên thực tế, thiền rất cấm kỵ lý luận. Dùng lý luận phân tích sau đó mới quyết định lấy rổ tre hứng mưa thì có lẽ phải bị quở mắng thôi. Vị tiểu tăng sở dĩ được khen thưởng chính vì đã không căn cứ vào quy đoán theo một lý luận nào mà lẹ làng chạy lấy chiếc rổ tre ngay. Đối với vị tiểu tăng lúc bấy giờ trong đầu không có cái ý thức thường thức “Rổ tre không hứng mưa được”. Thà chấp nhận đây là hành vi dị thường, còn hơn bảo rằng vị tiểu tăng chưa bị cục hạn của thường thức mà đã biến thành tù binh của thường thức. Chính vì thế, cho nên vị tiểu tăng rất là “Tự Do”, tự tại. Thiền rất chú trọng đến loại “Tự Do” này nên thường đập vỡ cái bó buộc của thường thức; Nhưng, nó “Phá vỡ sự bó buộc của thường thức”, thì cũng xin đừng ràng buộc bởi câu nói này. Nói cách khác, thiền muốn phá vỡ sự điểm này lại tạo nên thường thức của Thiền. Loại người dễ dàng sanh ra thiên chấp nầy, đã không phải chính là những người đặc lập độc hành trong thiền môn sao? 

 Tóm lại, ở trên, khi chúng ta đàm luận về thiền thì điều cần thiết là nên xác nhận một điểm: Tinh thần căn bản của thiền tự do, không bị hạn chề. 

 Vì thế, nếu có thể cho phép tôi phóng đại lời nói, thì tôi muốn nói là: Nếu như ngồi thiền mà không thể đắc đạo, thì chi bằng không nên ngồi thiền. Tại sao? Bởi vì cứ một câu chấp và hình thức toạ thiền, là trái lại làm mất hẳn tinh thần chân chính của thiền. Dù gì thiền cũng là tự do triệt để, căn bản không câu nệ vấn đề hình thức ngồi hoặc không ngồi. Phù hợp với tinh thần tự do, đây mới chính là điều trọng yếu nhất. 

Vấn đề được đặt ra ở đây, như thế nào mới có thể phù hợp với tinh thần tự do?

THIỀN LÀ THUỐC CÓ CÔNG HIỆU 
ĐẶC BIỆT ĐỂ AN ĐỊNH TÂM THẦN 

 Có lẽ độc giả sẽ nghi ngờ về những lời nói của tôi, nhưng tôi cũng chẳng phải là ngữ bất kinh nhân. Tôi nghĩ rằng muốn dùng nhận xét của tôi để giải thích về thiền, thì tốt hơn nên dùng quan điểm của Phật giáo nguyên thuỷ sẽ chính xác hơn. 

 Cái gọi là “Thiền”, kỳ thực không phải là chiến lợi phẩn của Phật giáo

 Chữ “Thiền”, nguyên là tiếng Ấn Độ. Phạn ngữ của Ấn Độ gọi là dhyana, tiếng palì thì đọc là jhàna, âm Hán ngữ dịch là “Thiền Na’ hoặc “Thiền” 

 Ngoài ra cũng còn gọi là “Thiền định”, lấy cái ý để dịch là “Định”, cộng thêm dịch âm chữ “Thiền” gộp lại thành “Thiền định”. Ý thiền (Thiền định) là một phương pháp điều phục tán loạn, và là một phương thức chuyên nhứt làm cho an định. Cho nên cũng có người phiên dịch chữ “Thiền” là “Tịnh lự”. 

 Theo truyền thuyết, đó là một phong tục tập quán từ ngàn xưa của Ấn Độ. Dựa vào suy đoán của các chuyên gia học giả, thì trước khi dân tộc Nhã Lợi An xâm nhập Ấn Độ (3), dân nguyên quán của Ấn Độ đã có phong tục tập quán này. Từ các di vật văn minh cổ dưới sông Ấn Độ được ngành khảo cổ khai quật, đã phát hiện những hình tượng người đàn ông ngồi thiền, do đó có thể tin tưởng rằng suy đoán đó là chính xác

 Vì thế, không riêng Phật giáo, các tôn giáo khác ở Ấn Độ cũng đã sử dụng phương thức thiền định để tu hành. Trong gia đoạn tu hành của đức Thích Tôn, ngài đã từng tập ngồi thiền với hai vị khổ hạnh tăng, nghĩa là toạ thiền đã có trước khi ngài khai ngộ, chuyện Bồ Đè Ca việc ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề cùng là việc ai cũng biết. Từ đó, chúng ta biết rằng trong thời đại Phật Giáo nguyên thuỷ, ngồi thiền là phương thức tu hành của mọi hành giả thuộc các tôn giáo Ấn Độ chứ chẳng phải chỉ chuyên biệt của Phật giáo đồ. 

 Đã biết thế, tại sao mỗi khi đề cập đến “Thiền” (hoặc ngồi thiền) thì bị cho là pháp riêng của Phật giáo đồ? Đây là một vấn đề hết sức thú vị

 Thực ra, vì do có điển cố

 Phật giáo nguyên thuỷ, đã đem pháp môn tu hành chia ra làm giới, định, huệ, gọi là tam học. Ba loại pháp môn này lấy hoạt động của tâm thức chia ra làm 3 lực vực “Tri, Tình, Ý”, rồi phân biệt từng thứ của ba lãnh vực, và tu hành thêm để đạt đến cảnh giới tối cao. Ý nghĩa đó xin được nêu rõ dưới đây: 

 Giới học – Ý – Pháp môn tu hành của chỉa ác tu thiện

 Định học – Tình -- Bỏ hết tạp niệm, pháp môn tu hành của thống nhất tâm thức 

 Huệ học – Tri -- Đoạn trừ phiền não, pháp môn tu hành của triệt ngộ thế gian chân tượng

 Ba loại công phu tu hành này nếu thiếu một thì không thể được, nó tương phụ tương thành, nhưng chẳng qua vì phương tiện đối với chúng sanh mà nó được chia làm ba. 

Nhưng, cái gọi là thiền trong Phật giáo Trung Quốc (Thiền định, thiền toạ), thông thường không chỉ nói về “Định học trong tam học”, mà còn bao hàm cả sự thống hợp của cả tam học. Có thể nói, thiền không những bao hàm việc mở mang trí huệcông phu toạ thiền, mà hơn thế nữa, sự đi đứng ngồi nằm thường ngày đều cũng có thể tu thiền như nhau. Người đã hoàn thành lý luận này để làm nguyên lý phát biểu, chính là Lục Tổ Huệ Năng đời Đường. Vì thế ở Trung Quốc, có thể nói “Thiền tức là Phật giáo”.

BẢO TRÌ TÂM THỨC KHOÁNG ĐẠT 

 Đề mục về câu chuyện này có lẽ nghiêm túc hơn, nhưng vì mục đích của bút giả là làm thế nào để quý vị có thể hiểu rõ rằng thiền định chẳng phải là pháp môn tu hành riêng của Phật giáo. Huống chi thiền rất chú trọng đến tinh thần không chấp cứ câu nệ, không chỉ chuyên chú vào hình thức ngồi thiền; vì thế trọng điểm học tập của chúng ta là nhắm vào tinh thần không câu chấp này. 

 Mặt khác, xin quý vị tri nhận rằng: Dù thiền tôn của Trung Quốc hay của Nhựt Bổn cũng đều có lối giải thích khác nhau đối với thiền. Nói cách khác, thiền, không chỉ duy nhấtngồi thiền

 Ăn cơm, uống trà cũng là thiền. 

 Thời đại nhà Đường, tương truyền có vị Triệu Châu Tùng Niệm thiền sư sống đến 120 tuổi thọ. 

 Một hôm, trong chùa có một đệ tử mới đến, muốn theo Triệu Châu thiền sư tu hành. Vị này thỉnh giáo thiền Sư

 “Đệ tử là một kẻ mới gia nhập, xin thành tâm đê đầu thỉnh giáo sư phụ về phương pháp tu hành”. 

 Triệu Châu thiền sư trả lời

 “Cháo sáng đã ăn chưa?” 

 “Ăn rồi”. 

 “Thế thì mang chén đi rửa đi!” 

 Sau khi nghe vị thiền sư nhẹ nhàng trả lời mà không nói thêm bất cứ một lời nào, vị đệ tử này nhờ đó mà hoát nhiên khai ngộ, đó tức là thiền. 

 Dường nhu khi chúng ta chỉ cần đề cập đến thiền thì thường cho rằng chắc chắn là phải có đạo lý thâm sâu gì đó, hoặc cần phải trải qua phương thức tu hành đặc biệt nào đó. Kỳ thực không phải thế. 

 Nói cách khác, trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, sáng sớm thức dậy, đánh răng, rửa mặt, đi nhà vệ sinh v.v..., những chuyện lặt vặt bình thường này củng là một loại thiền. Nếu ngay cái đạo lý giản dị như thế mà chúng ta không thể ngộ được thì nói chi đến việc tu hành đặc biệt khác? Lời nói của Triệu Châu thiền sư chính là ý đó, người đệ tử mới cũng vì rõ đạo lý đó mà khai ngộ. Cho nên chỉ cần chúng ta thể ngộ “Đạo ở trong sinh hoạt thường ngày”, thế là đối với thiền, hoặc nhiêù hoặc ít đã có thể ngộ rồi. 

 Bây giờ chúng ta hãy trở lại chính đề. 

Cái gọi là “Thiền”, trọng yếu nhất là tinh thần không câu nệ. Chỉ nắm vững được tinh thần ấy mới hoàn toàn thể ngộ được cái tôn chỉ và ý chỉ của thiền. Vì thế, đối những người có tâm học thiền, ngoài việc đến thiền đường ngồi xếp bằng, cần phải học tập tinh thần “Không bán víu bất cứ hình thức ngồi thiền nào” – đó mới là trọng điểm mà tôi muốn nhắn gởi .

TỈNH GIÁC QUÁN CHIẾU THẾ GIỚI NỘI TÂM

 

 Sở dĩ tôi đề xướng phương thức “Miễn ngồi thiền”, là nhắm vào những đối tượng hằng ngày đi làm, có tâm muốn tu thiền nhưng không có thời giờ rỗi rảnh đến thiền đường ngồi thiền. Cho dù có lợi dụng dăm ba ngaỳ nghỉ, hoặc xin sở lmà nghỉ dài hạn để đến thiền đường tham thiền, ngồi thiền đi nữa, thì chẳng qua tạm thời cho thân tâm được thư thả, nhưng đối với việc thể ngộ được thiền lý thì hiệu ích không lớn. Vả lại cách xin nghỉ pháp cũng không thể kéo dài được. Đối với thiền sư, thì việc hành tập ngồi tham thiền là phải đến thiền đường hằng ngày, và là việc kiên trì liên tục suốt đời. Nếu chúng ta muốn bỏ tất cả mọi thứ để hoàn toàn đầu nhập vào trong ấy thì dường như không thể được. Nói như thế, chẳng lẽ cả đời chúng ta không có cách để thể nghiệm được thiền hay sao? Thành thực, cá nhân tôi không tán thành cách nói “Thiền chỉ có trong thiền đường”. Nếu thiền mà người làm lụng thường ngày không thực hành được, thế thì thiền còn có thể mang tính chân chính? 

 Cho nên ở đây tôi đề xướng “Miễn tọa thiền” 

 “Miễn tọa thiền” là phương thức thế nào? 

 Người thông thường giải thích thiền định là “Thống nhất tinh thần”, cũng là phương pháp làm cho tâm tán loạn lên xuống bất ổn có thể an định lại một cách chuyên nhất. Nhưng trong phương pháp “Miễn toạ thiền”, chúng ta đối với thiền lại có sự giải thích khác; Cái gọi là “Thiền”, tức là muốn để cho tâm chúng ta từ trong dính líu ràng buộcmê vọng khốn đốn nghi nan được giải phóng ra ngoài. Vì thế bước thứ nhất học thiền, là phát hiện thử xem tâm chúng ta đang bị cái gì mắc dính và bó buộc

 Trong sinh hoạt hằng ngày, thông thường người ta không chú ý quan sát đến nội tâm của mình, ví như đôi nam nữ đang yêu nhau cứ mãi tha thiết mù quáng, đến độ không thấy trên mặt người yêu của mình có tàn nhang hay đồng tiền (Tình nhân nhãn lý xuất tây thi); người đi làm việc thì dốc sức mưu cầu được thăng chức, thường nhắm vào sự thăng chức làm mục tiêu trong đời; học sinh vì có khảo thí mà ôn bài không mệt mỏi, sở cầu chẳng qua là để có thể chen vào cánh cửa hẹp để lên lớp. Những người đem lòng truy cầu sự vật ngoại tại đương nhiên càng không chú ý đến nội tâm của mình. 

 Cho nên, người học thiền ngay bước khởi đầu cần thực hiện bằng được, đó là quán sát sự hoạt động tâm thức của mình. Nếu có thể nhận diện được nó, thì tâm thức của mình sẽ được tự do. Ví như nói: Luyến áimù quáng. Cho đến khi nào thấy được sự mù quáng của lòng mình thì lúc bấy giờ lòng dạ hai bên trai gái sẽ được tự do. Bởi vì nó có thể tự do lựa chọn, cho nên hoặc tiếp tục mê luyến, hoặc sẽ dùng nhãn quan lý trí để xử sự vấn đề tình cảm? 

 Do đó, ta có thể biết người nào có thể cảm giác, qún sát và nắm vững nội tâm của mình thì người đó tự do. Cũng có thể nói, hướng thiền đã bước được bước thứ nhất.

KHÔNG NÔNG NỖI VÌ NHÂN TÌNH THẾ THÁI

 Làm thế nào để cảm nhận và quán sát được nội tâm? Ngoài ngồi thiền ra, xin đề nghị quý vị nên nghiên cứu một số ngữ lục thiền môn, hư tâm theo dõi và lắng nghe những bậc tổ sư thiền tôn quá khứ đã tham thiền ngộ đạo ra sao, và bằng cách nào để dạy dỗ đệ tử củ họ tu thiền. Nói cách khác, nghĩa là cần học tập thái độ sinh hoạt, ngôn hạnh và cử chỉ của những đại tổ sư này, kể cả những phương thức khảo sát riêng đối với sự vật của họ v.v... 

 Xin nêu lên một sự tích để quý vị tham khảo

 Trước kia có vị Thủ Sơn Tĩnh Niệm thiền sư (?-993), ngài là một cao tăng dưới đời nhà Tống. Bình sanh ngài luôn trì tụng “Pháp Hoa Kinh” (4) nên còn gọi là “Niệm Pháp Hoa” 

 Một hôm, có một vị tăng hỏi ngài: 

 “Thế nào là Phật” 
 Thiền sư trả lời
 “Tân phụ kỵ lô, A gia khiên” 
 (Tạm dịch: cô dâu trẻ trung cưỡi trên lừa, bà má già yếu dắt dây cương) 

 “A Gia” ý nói là Bà Bà. Câu này có nghĩa giản dị là: cô dâu trẻ mới cưới ngồi thiền trên lưng lừa còn Bà Già thì dắt dây cương đi bộ. Trông như có vẻ hai người đã kết thúc công việc ruộng nương và đang trên đường về! Cái cảnh này thoạt nhìn thấy ấm áp cảm động làm sao! 

 Khoan! Hãy thong thả, tình hình dường như cò điều chi không hợp lỵ Nếu xét sự việc theo thời đại thì sự việc chắc chắn không ổn-- Người làm công thì được ngồi xe sang trọng trong khi ông chủ thì lại đứng xe bus? 

 Đối với quan niệm bình thường, người ta không thể chấp nhận một sự việc ngược đời như thế, di4 nhiên đây là việc của “nhân tình thề thái”, điều được gọi là “Thường lý” 

Như thế, câu trả lời của Thủ Sơn thiền sư là phản ngược “Thường Lý” sao ? Kỳ thực, nều mang nguyên nhân để giải thích, có thể vì cô dâu quá mỏi mệt hoặc có bầu nên Bà Bà thương nàng dâu và đã để cho cô cỡi lừạ Như thế thì có gì không hợp lý ? Thiền tức là để tâm chúng ta thoát ly khỏi mọi ràng buộc nông nỗi của nhân tình thế thái mà tư khảo một cách tự do tự tạị

LÀM SAO ĐỂ CÓ THỂ SINH HOẠT MỘT CÁCH TỰ TẠI

 Nếu có thểhiểu rõ đạo lý của thiền mà sống một cuộc sống không bị ràng buộctự do tự tại là điều rất tốt, nhưng trên thực tế, sự việc không đơn giản như chúng ta tưởng tượng. Trái lại, vì chúng ta càng muốn tránh thoát ràng buộc chừng nào thì càng có cảm giác bị ràng buộc chừng ấy. Dù sao, trong đời sống thực tế đã không cho phép cá nhân chúng ta có thể phát triển một cách tự do. Nếu cứ cố chấp mang cái vốn hiểu biết rất ư thiếu sót về thiền mà phóng ngôn ngữ bừa bãi và thổi phồng ra, thì chắc chắn là sẽ tạo cho người khác những cảm nhận tương phản. 

 Thiền tuy dạy chúng ta không nên câu nệsự lý, nhưng đồng thời cũng không nên tử thủ trong thành trì giáo pháp này mà biến thành ngựa bị sút cương hoặc hành sự buông lung đến nổi không có lấy một tiêu chuẩnnguyên tắc nào. Những lưu ý nêu ra, chẳng qua chỉ để nhắc nhở rằng khi học xong thiền, bối cảnh sinh hoại chung quanh sẽ giống như ảo thuật, chỉ một chớp nhoáng, mọi hiện tượng đã hoàn toàn thay đổi. Từ lâu, tánh ngoan cố và tính lười biếng của chúng ta chẳng khác nào tốc độ vun vút của xe, có dùng sức đạp thắng thế nào, nó tức khắc dừng lại. Nếu cố gắng miễn cưỡng muốn nó dừng gấp lại, không chừng còn có thể xảy ra những sự việc đáng tiếc ngoài ý muốn! 

 Nhưng nói như thế, không có nghĩa là khinh thường bỏ qua. Chỉ cần đầu tư thời giờ tinh tiến nỗ lực tu hành liên tục thì cuối cùng sẽ có ngày có thể đạt đến cảnh giới liễu ngộ

 Trong phương thức tu hành “ Miễn ngồi thiền”, chỉ cần chúng ta không ngừng đọc ngữ lụcliên quan đến thiền, và công án cũng như truyện ký tu hành của thiền tăng thì rất có thể trong bất tri bất giác chúng ta có thể vận dụng trí tuệ của thiền để tư khảo, tất nhiên sẽ đưa đến liễu ngộ đạo lý của thiền 

Chú (1): Công án chỉ vào văn kiện tư liệu của công gia hoặc phán quyết ký lục v.v... thiền tôn công án tức là nói đến sự liên quan của một số lời dạy hay việc khai ngộ của các thiền sư về đối thoại hoặc ký lục của hành nghi khi chỉ đạo cho những người tập thiền. 

Chú (2): Đại đạo trường của Lâm Tế Tôn, toạ lạc tại hoa viên Kinh Khu phía phải chợ kinh đô. Vốn là sở tại ly cung của hoa viên thiên hoàng, sau này vì sau khi Thiên Hoàng thoái vị để quy y tam bảo đốc tín Phật Giáo, nên đã cung thỉnh Quan Sơn Huệ Huyền thiền sư làm khai sơn tổ sư để khởi công kiến lập Diệu Tâm Tự 

Chú (3): Người Nhã Lợi An (Nhơn) là danh xung tổng hợp của sắc dân Ấn Âu, họ đã xâm nhập Ấn Độ, theo tài liệu thì họ đã có sớm khoảng 1,300 năm trước kỷ nguyên. 

Chú (4): Là một đại biểu Đại Thừa kinh điển. Tên chính thức gọi là “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, trong Phật giáo, bộ kinh này được sùng kính mãnh liệt nhất và được xưng tụng với mỹ danh là “Kinh trung chi vương” 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14427)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14139)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39702)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13876)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13917)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37317)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40052)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14633)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14309)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12650)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42611)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13822)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37234)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12662)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11747)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22531)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12506)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12568)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13046)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33228)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12448)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11949)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11930)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13126)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51246)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12378)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6607)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30402)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13308)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30668)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19351)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12474)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11840)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14755)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13189)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30665)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12032)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11826)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12718)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31889)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29403)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11778)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11740)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10418)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11554)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9647)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9972)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35391)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10140)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10091)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10037)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27790)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15481)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9838)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13666)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9835)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18307)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9679)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8698)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8406)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11474)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31717)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12328)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13313)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11931)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9216)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29341)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9067)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33224)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8420)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30595)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31208)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37096)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32240)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9915)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27084)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8440)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19225)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant