Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Những Công Cụ Tinh Thần

08 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6953)
Phần 2: Những Công Cụ Tinh Thần


VÔ NIỆM VIÊN THÔNG YẾU QUYẾT

Thích Minh Thiền
Phật Lịch 2536 - 1992

PHẦN THỨ HAI
NHỮNG CÔNG CỤ TINH THẦN


Người xưa có nói: Muốn cho công việc được khéo léo thì dụng cụ cần phải sắc bén. Trong công cuộc hạ thủ công phu để tiến về con đường vô thượng viên thông giải thoát, trên phương pháp và kỹ thuật bắt buộc phải có những công cụ tinh thần như sau:

1. BIỆN CHỨNG NGHỊCH LÝ:
 
Sao gọi là biện chứng nghịch lý: là một cách nhìn thẳng vào bề trái của cuộc đời, áp dụng một thứ biện chứng để biến tất cả những tệ bạc không còn ai muốn dùng, cho trở thành những công cụ lợi ích to tát cho việc điều tâm. Thí dụ: Cảnh nghịch là thứ thiên hạ không kham, nhưng đối với ta thì cảnh thuận nghịch dù trẻ con cũng dễ dàng thức tỉnh.

Cho nên đối với ta, cảnh nghịch là cây thương đâm trước mặt, dù có to lớn cũng dễ thấy, dễ đề phòng. Còn cảnh thuận như mũi tên bắn sau lưng, tay nhỏ nhưng khó đỡ gạt. Ở trong cảnh nghịch mặt thật của sự đời ta dễ thấy, còn cảnh thuận như mũi tên bọc nhung rất khó lường. Bồ Đề Đạt Ma có nói: “Không phiền não không lấy đâu để sanh trí tuệ, không trí tuệ không lấy đâu để diệt phiền não”. Khổng Tử nói:”Không có sự dồn ép thì không có sức nổi dậy”. Nếu ta thấy được như thế, thì ta sẽ thấy cảnh nghịch là thiện tri thức đắc lực đối với ta, và dù không có cảnh nghịch thì cảnh thuận cũng không sao. Nếu không thấy như thế, thì cảnh nghịch đã nguy mà cảnh thuận càng nguy hơn nữa.
 
Người có lưu tâm đến biện chứng nghịch lý này thì khi gặp cảnh thuận thích luôn luôn tự cảnh giác, để nhìn thấu tới bề trái của nó. Lúc gặp cảnh trái chướng, luôn luôn biết sách tấn mình để mạnh dạn tiến bước trên con đường giải thoát.
 
Lại như hiện nay, thiên hạ đều lao nhao than thở cho là thời kỳ qủy vương mạt pháp. Nhưng nếu thông qua ống kính biện chứng nghịch lý, thì đây là một cơ hội ngàn năm một thuở để cho ta giáp mặt với sự thật, thấy rõ trò đời mộng huyển không một mảy may hiện tượng vật chất nào được mãi mãi trường tồn, chứng thẳng cái vô sở đắc ngay giữa cuộc đời bằng xác thịt, bằng giác quan, bằng gia đình, bằng chính thân ta, như trong tâm kinh đã nói. Có như thế mới khỏi bị than thở rằng:

 “Tuồng huyển hóa đã bày ra đấy
 Kiếp phù du trông thấy mà đau”
 
Như Ôn Như Hầu tiên sinh đã thở ra lúc nọ. Mà trái lại tựa như chuyên gia hàng hải cưỡi thuyền buồm dạo chơi nơi biển cả, sóng dậy ba đào, mượn cảnh phong ba để điêu luyện mình càng ngày càng tinh xảo khả năng lèo lái. Được như thế thì còn gì thú vị cho bằng!

2. THÂN GIÁC:
 
Thế nào là thân giác: Sở dĩ có hai chữ này là vì phần đông đều bị một thứ thức giác nhận định sai lầm về xác thân, nên thấy xác thân là nguồn tội lỗi, bày ra những trò tự đánh tự đập, hoặc khổ hạnh đọa đầy, hoặc đốt tay đốt than, hoặc tự thiêu tự tử. Qúa hơn nữa có kẻ nhìn thân là thứ mãi mãi hằng có để trau giồi, o bế, đam mê theo dục lạc thường tình.

Thế thì đam mê theo nó hay quy tội cho nó đều đủ gì để biết nó?! Có lần đồ đệ của Phật bạch Phật rằng: Để bộ phận sinh dục nó đòi hỏi đủ thứ không thể tiến tu, xin Phật cho phép thiến đi để dễ bề điều khiển. Phật nói: Xét kỹ xem, tại nó hay tại mình? Người ấy trầm ngâm giây lát thứ: tại mình chớ đâu phải tại nó. Phật nói: thế sao không thiến mình lại thiến nó?
 
Lại nữa, một vị tăng đến trình với một vị tổ: Bạch tổ sư, xin chứng cho con đi khổ hạnh để đày đọa xác thân này cho nó không còn sức đòi hỏi thèm khát mới có thể tu trì. Tổ hỏi: con bò không chịu kéo xe, vậy ta nên đánh xe hay đánh bò?
 
Do thác giác này mới kiến lập ra danh từ thân giác, bao gồm cả 3 ý nghĩa:

Xác thân này không thể khởi niệm.
• Xác thân này không thể có vọng niệm.
• Xác thân này tuyệt đối yên lặng.
 
Nó chẳng qua chỉ là một công cụ phương tiện như radio, tivi hay máy xay lúa chẳng hạn. Nếu tách khỏi động lực thì chỉ là một khối vật chất vô tình. Hành giả phải nhận định kỹ, hiểu rõ như thế, và nhớ lấy 3 đặc điểm này để đợi đến phần kỹ thuật sẽ có cơ đắc dụng. Đây sẽ là một hóa chất để biến hóa vọng niệm cho trở lại chính thường một cách vô cùng đắc lực, là một diệu dược để chữa bệnh vọng tâm.
 
Nếu chỉ nhìn riêng phần thân giác, thì bề ngoài trông qua chẳng có chút giá trị gì, nhưng sự thực khi áp dụng rồi mới thấy quả là diệu dược.
 
Điểm này xét ra chẳng chút khó khăn gì, chỉ sợ người học thấy quá đơn giản mà hóa ra xem thường, không để ý chú trọng mà thôi. Nên thận trọng.

3. NHẬP LƯU HƯỚNG NỘI
 
Thế nào là nhập lưu hướng nội? Do đâu và tại sao có lập ra câu nói này?
 
Trong bao la này nếu nhìn suốt, vốn nó không bớt không thêm nhưng nếu để ý về cõi hiện tượng thì ta thấy khoáng và thực vốn vô tình, chỉ có hữu tình mới cựa quậy. Đành rằng vốn nó cũng nằm tròn trong cái bất tăng bất giảm, sắc không phải sắc, không có trong ngoài, nhưng khi vừa nứt mắt ra thì mỗi cái nứt mắt đều nhìn nhau, nhìn ra đến sự vật, để tạo thành ý tứ TA, NÓ, MÌNH, NGƯỜI, đây kia, được mất, hơn thua, lợi hại, ghét yêu, vui khổ … nhứt nhứt đều theo ánh sáng nhìn ra của tâm thức mà tất cả đều trở thành chi ly phân hóa rồi đồng thì yêu, khác thì ghét, thuận thì theo, nghịch thì chướng, dồn dập bốn bề, gây duyên đảo lộn. Thế là nằm trong cảnh không có trong ngoài và chính mình cũng là sắc không phải sắc, mà chúng sinh cựa quậy, tự tạo thành cái phóng vọt nhìn ra đã thành có không có sắc, có trong có ngoài, có khổ có vui, có sống có chết. Thế là vì tâm hướng ngoại mà tạo thành đà hấp dẫn theo sinh tử luân hồi.
 
Thầy thuốc là con đẻ của bệnh nhân, chúng sinh là mẹ đẻ ra ông Phật. Vì có bệnh nên mới có nghiên cứu chế ra thuốc chữa. Vì có hướng ngoại tạo thành ưu bi khổ não, trì kéo hấp dẫn, sinh tử luân hồi, và ai ai cũng rập khuôn giống hệt như nhau một kiểu, mà lại còn có người đổ cho trời khiến, hay tự nhiên, nên nhà Phật mới lập ra từ danh từ chánh điên đảo.
 
Đã có bị đau khổ hệ lụy vì hướng ngoại mà có tên là chánh điên đảo. Nay nếu muốn chữa lại bệnh khổ đau hệ lụy này, tất không thể không kiến lập phép hướng nội, mà lập thành danh từ “Chánh Biến Tri”. Cho nên tu hành chẳng qua là một thứ y đạo siêu đẳng, chỉ vì truyền nối nhiều đời mà hóa ra một việc làm không hiện thiện, không thể thực hiện.
 
Có ai ngờ khi tinh thần của chúng ta xoay theo chiều hướng ngoại thì ý niệm về Tôi càng được thắt chặt để cái Tôi trở thành trên hết. Từ đây cái Tôi trở thành một dụng cụ chứa đựng rồi theo đó tất cả những vọng niệm, những bóng dáng của trần cảnh đều được thu vào, cấu kết lẫn nhau, mắc liền với xác thân một cách vô cùng chặt chẽ, càng ngày càng thu nhập đầy nhóc.

Lại còn có cách lưu truyền từ muôn đời lũy kiếp đến bây giờ để trở thành một bài toán cộng vĩ đại, và có khả năng hoạt động ngoài ý muốn của ta. Không những thế thôi, mà còn gây thêm hệ lụy cho thân xác một cách vô cùng khít khao tế nhị mà trên đời không mấy kẻ ngờ. Chính vì nó mà tế bào trong thân này xảy ra phát triển theo chiều hướng mất chánh thường để tạo thành bịnh ung thư (nham, cancer) là cho giới Y khoa ngày nay phải bó tay kinh khiểp. Qúa quắt hơn nữa, tất cả những tôn giáo tín ngưỡng, qủy thần oai quyền, chủ nghĩa, chính sách, nó đều có thể đẻ ra được hết.
 
Vì thế nên khi xoay chiều hướng nội, tất cả 6 căn đều chú ý xoay trở vào thì trước nhất cái Tôi bắt đầu chuyển mình rạn nứt để đi đến một mức độ vỡ tung và tất cả khối vọng tâm hoạt động ồn ào cũng theo đó mà bắt đầu bị phân hóa, để lần lượt đi đến ổn định, trả cuộc sống con người về với tự nhiên một cách tự nhiên như nhiên. Do đó nên trong làng hướng nội hạ thủ công phu có những trường hợp bịnh ung thư được chữa khỏi.

Về điểm này mong rằng các nhà khoa học kỹ thuật vật chất, cũng như Y khoa ngay nay nên bình tâm mà kiểm nghiệm. Có một điều ta cần nhớ về pháp hướng ngoại chánh điên đảo của chúng sinh, nó khít khao tế nhị hệt như tự nhiên. Cho nên nói đến phép hướng nội để trở thành chánh biến tri cũng phải khít khao tế nhị như thế, thì thuốc với bệnh mới cân xứng, mới có khả năng đón đầu bịnh.

Về điểm này nếu ta có chút sơ hở là bệnh cũng the đó có thể lọt kẻ, làm cho thuốc sẽ trở thành không công hiệu. Như thế đủ biết nhập lưu hướng nội qủa là công cụ sắc bén nhưng cũng phải biết áp dụng mới hẳn là món thuốc hay. Nếu không thì khi một niệm không sanh sẽ là chìm vào nước chết, chớ không phải là toàn thể hiện, và nước cực lạc ta xây dựng chẳng qua chỉ là một thứ sự nghiệp nương nhờ đất đai của ông hỗn độn vô ký mà thôi. Không gian nay không khỏi có nhiều mây mù tuyết phủ!

4. DÙNG NHIỆM NHIẾP NIỆM:
 
Thế nào là dùng niệm nhiếp niệm?
 
Như đã nói từ trước, khối vọng tâm trong mỗi người có vô số chủng loại, vô số hình thức nếu ta không có cách biến hóa và thanh lọc nó thì tâm ta không bao giờ trở về với thanh tịnh sáng sạch. Nhưng đặc tính của nó đã là vọng nên khi gặp vọng nó sẽ ráp vào. Do đó ta có thể chế tạo một hình thức niệm bền bỉ cố định, cho chúng nó làm trụ cốt, bâu rúc vào thành một khối, rồi ta sẽ hóa nó chứ không chỏi ngược với chúng nó. Vì thế nên ta phải tạo ra một thứ niệm thuần nhất hơn, tươi đẹp hơn, êm ả hơn.
 
Thí dụ như: dùng câu A DI ĐÀ PHẬT hoặc DƯỢC SƯ NHƯ LAI hay QUAN ÂM NHƯ LAI hay 1, 2, 3, 4 gì cũng được. Nhưng câu có ý nghĩa như câu A DI ĐÀ PHẬT vẫn có giá trị sâu xa hơn. Trong khi áp dụng công cụ này là phải theo hình thức tĩnh tọa đóng hết 6 căn, không dùng chuỗi, mắt không mở, miệng không động, chỉ ghi nhớ mặc niệm một câu như A DI ĐÀ PHẬT chẳng hạn. Cứ mặc niệm đều đều không gấp không hưỡn, đồng thời soi trở vào trong thân một cách tỉnh táo tìm lấy tướng của làn sóng động niệm.

Nếu tìm chưa thấy thì phải tìm cho kỳ được cho đến bao giờ thấy. Đến đó thì tất cả đám lao xao trong thân đều qui tụ về một niệm. Như thế là ta đã biết dùng công cụ này rồi đó. Công cụ này là một pháp vô cùng đắc lực, là vua của tất cả pháp tham thoại đầu khác. Độc giả nên tỉ mỉ nhận định hầu áp dụng được hết khả năng, để đạt đến mức thẳng tắc chính xác.

5. DÙNG NIỆM HÓA NIỆM
 
Thế nào là dùng niệm hóa niệm?
 
Trước kia đã kiến lập khái niệm về thân giác, giờ đây dùng thân giác để tạo thành một ý niệm “nghi tình” hầu đối lập giao lưu với vọng niệm đã phân hóa và giải tán tựa như dùng chất hóa học để phân hóa các vật chất. Hai chữ “nghi tình” không có nghĩa là hoài nghi hay nghi ngờ, mà có nghĩa tình bị nhưng hóa trong đó bao hàm tác dụng thú vị, thanh lương an lạctrí tuệ, như màn mây được vén, như tối gặp sáng ra.

Nó có khả không tài nào gỡ được. Do đó ta có thể dùng nó để biến hóa cái nhứt niệm trước kia, ta dùng quy tụ muôn niệm, cho cùng với nước tâm được hòa đồng trong suốt tựa như biển lặng sóng yên, chỉ có một màu trời nước, mặt biển lắng trông không còn lờ mờ vẫn đục nữa. Áp dụng công cụ này trong việc thanh lọc vọng tâm, nó cũng tựa như đánh phèn để lóng nước, không bắt buộc nhứt luật phải dừng liền theo với công cụ dùng niệm nhiếp niệm mà ta có thể dùng nó đơn độc trong những trường hợp vọng niệm chưa đến nỗi như sóng dậy ba đào, cứ áp dụng thẳng vào là có kết qủa. Sau này đến phần kỹ thuật sẽ giải thích tường tận hơn.

6. DÙNG GIÁC CHIẾU PHÁ VI TẾ VỌNG:
 
Thế nào là dùng giác chiếu phá vi tế vọng? 
 
Nếu khi ta tịnh tọa đã đến mức tương đối thuần thục, khối vọng niệm trong thân không còn hùng dũng ba đào nữa, thì phép dùng niệm để nhiếp niệm hết cần. Tiến xa chút nữa nếu khối vọng niệm không còn hết đoàn lao xao thì phép dùng thân giác nghi tình, lấy niệm hóa niệm cũng không còn cần nữa. Nên chỉ khi vọng niệm chỉ còn thỉnh thoảng lẻ tẻ, chi li, nho nhặt chớp nhoáng lơ tơ mơ, không còn rõ là thứ hình thức gì, chỉ như cụm sương mù thưa thớt, thì ta chỉ cần tịnh tọa, nhắm khít con mắt thịt lại mà con mắt tâm phải mở bét thật tỉnh táorõ ràng để hồi quang phản chiếu đến tận đáy của vọng niệm vi tế, thì đám sương mù lập tức tan đi. Thế gọi là dùng giác chiếu phá vi tế vọng.

HẾT PHẦN HAI
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13426)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11714)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11214)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11943)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10264)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29251)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11958)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11948)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10958)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19629)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7344)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11372)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35329)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12872)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12224)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11484)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22113)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11849)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15927)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14109)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12612)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13227)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13667)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20016)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14424)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13559)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12349)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34739)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13411)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13735)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31994)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13209)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13073)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13431)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13319)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18052)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14935)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15746)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14886)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15864)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20809)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21326)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35163)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27551)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43954)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37922)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15143)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15078)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12997)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12670)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15627)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27745)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14975)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11420)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53203)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16546)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13184)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20706)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12637)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15609)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15510)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14784)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15626)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13052)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11779)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12312)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12586)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13497)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12486)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11994)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12765)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11624)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13762)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14121)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12929)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12759)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13024)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13936)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13010)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13624)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12467)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14458)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13317)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13785)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14639)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11872)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12731)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28304)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11804)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12654)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15072)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12011)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11788)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12887)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11996)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11532)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant