Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Cách Hiểu Thuật Ngữ Trong Phật Học

04 Tháng Năm 201300:00(Xem: 5489)
Một Cách Hiểu Thuật Ngữ Trong Phật Học

Gadjin M. Nagao
TRUNG QUÁNDU-GIÀ HÀNH TÔNG
Nghiên cứu về Triết học Trung quán
Thích Nhuận Châu dịch 09-2007

MỘT CÁCH HIỂU THUẬT NGỮ
TRONG PHẬT HỌC

Giáo lý được gọi là Nhị đế[1], gồm chân lý tuyệt đối (paramārtha; absolute)[2] chân lý quy ước (Saṃvṛti convention)[3] là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của triết học Trung quán (Mādhyamika), và cùng lúc, có lẽ là quan trọng đối với toàn bộ giáo nghĩa Phật giáo Đại thừa. Nói chung, Saṃvṛti là chỉ cho sự hiện hữu quy ước, thế tục, phàm trần, thế gian; và ngược với paramārtha; có nghĩa là xuất thế gian, siêu việt phàm trần, tuyệt đối. Tôi đã có thảo luận về đề tài nầy vài nơi[4] cùng với hoàn toàn chính của Phật học và những khái niệm như Duyên khởi (pratītya-samutpāda),[5] tánh không (śūnyatā; e: void-ness) và chân như (s: tathatā; e: suchness). Tuy nhiên ở đây, tôi có ước nguyện thảo luận lần nữa ý niệm Saṃvṛti, rút ra từ những điều đã đề cập ở trên với một vài hiệu chỉnh.

 

1

 

Saṃvṛti, thuật ngữ tương đương trong tiếng Pāli là samuti, từ căn là √man.[6] Samuti có các nghĩa: đồng ý (consent), cho phép (permission); ngoài ra còn có nghĩa: chọn lựa (choice), tuyển chọn (selection).[7] Saṃ-man có nghĩa là ‘xem xét (cùng nhau)–to consider (together)’ hoặc ‘cùng đồng ý hay có chung một ý tưởng’[8] như Dr. Unrai Bunshu Wogihara,[9] đã đề xuất, và do vậy, nghĩa ‘quy ước– convention,’ ‘công nhận–general (popular) acceptance’, ‘ý nghĩa thông tục–common sense,’ từ tiếng Hán tương đương là tục (俗), với nghĩa là thông thường, bình thường, thông tục, phản nghĩa với nhã (雅), với nghĩa là tao nhã, lịch thiệp, tinh tế. Nhưng một khi Samuti từ tiếng Pāli được chuyển sang Sanskrit với dạng Saṃvṛti, và nhiều tác giả Đại thừa bắt đầu tạo ra nhiều ý tưởng mới từ thuật ngữ nầy, ý nghĩa cũng như từ căn của nó dường như đã chịu sự thay đổi dần dần. Sự phát triển của khái niệm Saṃvṛti sẽ được thảo luận, truy cứu những phiên dịch khác nhau như nó đã xuất hiện trong các tác phẩm của Nguyệt Xứng, An Huệ, Nghĩa Tịnh, và Từ Ân.[10] Hầu hết các kinh luận Phật giáo tiếng Sanskrit đều dùng Saṃvṛti để chỉ cho nghĩa ‘quy ước,’ nhưng Saṃvṛti với những ý nghĩa tương tự thì được thấy trong tác phẩm Biện trung biên luận chú[11] của An Huệ.[12] Điểm hơi khác nhau chút ít giữa -vti và -vtti có thể được xem như không biểu thị sự khác biệt thực có của từ ngữ, mà chỉ là lỗi do chép sai hoặc là văn phong riêng của cá nhân.[13] Nhưng cả hai từ Saṃ-vṛ Saṃ-vṛt đều có nghĩa là ‘quy ước– conventionalnhư ý nghĩa nguyên uỷ của nó, và từ chứng cứ như sẽ được dẫn trong đọan văn dưới đây, tôi tin rằng hoàn toàn có khả năng để đưa ra luận điểm rằng các triết gia thời xưa đã dùng cả hai từ căn, nghĩa là Saṃ-vṛ Saṃ-vṛt, họ đã chọn một trong hai từ tuỳ trường hợp đẻ nhấn mạnh ý nghĩa muốn đề cập.

 Từ căn -vṛ, Saṃvṛti trước hết có nghĩa là bao phủ (covering), hoặc che đậy–concealing, sự giả vờ– dissimulation, sự chướng ngại– obstruction... Tuy nhiên, có một ngữ căn khác -vṛ, có nghĩa là ‘chọn lựa–to choose,’ và trong mối tương quan nầy, danh cách (nominal form) của nó, Saṃvṛti có nghĩa là ‘sự tuyển chọn– election’ và ‘sự chọn lựa– choice,’ cùng ý nghĩa với từ samuti tìm thấy trong Pāli. Từ căn khác là -vṛt, hai trong những nghĩa cổ nhất của Saṃvartate là ‘quay lại hay đi tới trước– to turn or go towards,’ ‘chạm trán–'to encounter,’ rồi sau đó có nghĩa ‘hình thành,– to come into being,’ ‘sản sinh –to be produce,’ ‘tồn tại–to be,’ và ‘hiện hữu–to exist.’ Những nghĩa nầy gợi ý một mối quan hệ thân thuộc giữa Saṃvṛti Pravṛtti[14] (xuất hiện, sinh khởi–coming forth), upāda[15] (hiện khởi, hưng xuất–origination, production). Nhưng cùng lúc, được lưu ý rằng Saṃvṛtti ‘thường là (một) cách đọc sai của Saṃvṛti.’[16]

Nghĩa ‘bao phủ (cover) từ Saṃ-vṛ và ‘hiện hữu– to exist’ hay ‘xuất sinh –to come forth’ từ Saṃ-vṛt hoàn toàný nghĩa không liên quan nhau. Tuy nhiên, trong các văn bản Phật học, cả hai nghĩa và từ gốc được chọn dường như đều được dùng.

Trước hết, trong Minh cú luận (s: Prasannapadā) của Nguyệt Xứng,[17] chương XXIV, bài kệ thứ 8, thuật ngữ ‘quy ước– Saṃvṛti’ được định nghĩa theo ba cách:

 

1. samantād varaṇam sarṃvṛtiḥ.

2. paraspara-saṃbhavanaṃ vā saṃvṛtiḥ.

3. saṃvṛtiḥ saṃketo loka-vyavahāra ity arthaḥ.[18]

 

Câu đầu tiên, sarṃvṛti hay ‘quy ước’ được định nghĩa là ‘che phủ khắp’và ‘bị che đậy toàn bộ (ngăn ngại với chân lý).’ Nó được giải thích rằng đó chính là vô trí (ajñāna; not knowing), do vì sự hiện hữucăn bản vô minh–avidyā (có nghĩa là hoàn toàn không biết gì); sarṃvṛti chẳng có gì khác hơn là tattvāvacchādana, có nghĩa là ‘chân lý bị ẩn dấu–the truth concealeđược’ đối với hàng phàm phu; hoặc ‘chân lý không bao giờ tự hiển lộ–the truth never revealing itself.’ Câu samantād varaam chỉ cho một dạng gọi là thông dụng học từ nguyên học (etymology), và ở đây Nguyệt Xứng rõ ràng đã thừa nhận từ căn -vṛ với ý nghĩa bao phủ hoặc che giấu. Giáo sư Theodore Stcherbatsky, đề cập đến saṃvṛti như là ‘hiện tượng luận– phenomenalism’ hoặc là ‘thực tại mang tính hiện tượng– phenomenal reality’ nói chung, ông còn đưa ra cách dịch nôm na ‘sự che phủ’ hay ‘bề mặt che phủ cái Tuyệt đối.’[19] Theo đó, saṃvṛti không chỉ có nghĩa là sự hiện hữu chung hay thông thường, như được gợi ý qua tiếng Pāli hoặc tiếng Hán là saṃmuti hoặc tục (俗), nhưng ý nghĩa chỉ cho sự mê muộingu si. Sự si mê nầy, hoặc là không chân thực, hư vọng, được Nguyệt Xứng sử dụng đối nghịch rõ nét với paramārtha, với nghĩa là tuyệt đối,là thực tại cứu cánh (absolute Reality). Tính lưỡng phân nầy khiến tôi nhớ lời của Thái tử Thánh Đức, Thế gian hư giả, duy Phật thị chân.[20]

Thứ hai, saṃvṛti có nghĩa ‘làm cho mỗi thứ trở nên hiện hữu,’ có thể giải thích khác hơn, đó là anyonya-samāśrayea, có nghĩa là ‘cái nầy tuỳ thuộc vào cái khác.’ Bị ngăn ngại với chân lý, ‘quy ước’ phải thiết yếu phát sinh và hiện hữu trong phạm vi của sinh tử luân hồi (sasāra).[21]

Tuy nhiên, ở đây ý nghĩa ‘che phủ–cover’ đã biến mất và sự nhấn mạnh được đặt nhiều hơn vào cách hiểu từ căn saṃ-√bhū (hiện hữu hoặc trở thành). Ở đây cũng vậy, nếu chúng ta đối chiếu nó qua từ nguyên học, dường như Nguyệt Xứng đã thừa nhận -vṛt là từ căn. Như một toàn thể, ý nghĩa được dùng ở đây gợi ra ý nghĩa Duyên khởi (pratītya-samutpāda; e: origination depending upon one another), vốn thường được giải thích bằng thuật ngữ, paraspara-apekṣā (tuỳ thuộc nhau, liên quan với nhau).

Thứ ba, ‘biểu tượng quy ước’ (saṃketa) và tập tục thế gian (vyavahāra)[22] được gọi là saṃvṛti. Sinh ra trong thế gian nầy, hoặc duyên sinh trong thế gian nầy (định nghĩa thứ hai của sarṃvṛti) có nghĩa là tự mình thể hiện qua một vài dạng của ngôn ngữ, khái niệm, ý tưởng, v.v... Nghĩa của cả hai hai từ vyavahāra và saṃketa không có gì khác hơn là prajñapti (biểu hiện cho biết, ký hiệu),[23] trở lại nó có cùng nội dung như của Duyên khởi (pratītya-samutpāda). Trong ngữ cảnh nầy nó được xác định rằng sarṃvṛti là được xác định hoặc định rõ qua sự khác nhau giữa abhidhāna[24] (gọi tên) và abhideya[25] (được đặt tên).[26]

Như vậy, chúng ta có thể mô tả vắn tắt ba cách hiểu về saṃvṛti của Nguyệt Xứng như sau:

 

  1. Mê lầm do vô minh.
  2. Hiện hữu ngẫu nhiên, không có tự thể.
  3. Thuật ngữ quy ước, cách thức để gọi và danh xưng.

 

Trong ba cách hiểu, saṃvṛti với ý nghĩa ‘biểu tượng quy ước’ dương như thông dụng nhất.[27] Có thể hiểu ra tại sao saṃvṛti với ý nghĩalàm cho các pháp trở nên hiện hữu,’ cũng thường được dùng, vì nó phát xuất dễ dàng từ nghĩa ‘biểu tượng quy ước.’ Hai cách hiểu nầy sẽ miêu tả ý nghĩa rộng rãi thường dùng nhất của saṃvṛti hoàn toàn rõ ràng: saṃvṛti dại biểu toàn diện cho phản nghĩa của paramārtha, sẽ được dùng đến nếu đó là thế giới hữu vi (saṃkṛta), có nghĩa là Duyên khởi (pratītya-samutpāda) hoặc thi thiết (prajñapti). Chân đế (paramārtha) dĩ nhiên là điều gì đó không thể suy tư (acyntya), bất khả đắc (anabhilāpda), và vô vi (asaṃkṛta).

Cách dịch saṃvṛti với ý nghĩa mê lầm do chướng ngại che phủ (bởi vô minh–đã được định nghĩa ở trên), tuy vậy, ít nhiều độc đáo trong ba cách hiểu nầy; và riêng điều ấy, chúng ta có thể chứng tỏ nó là nền tảng và quan trọng nhất trong sự phân tích về thuật ngữ saṃvṛti trong cách diễn dịch Trung quán của Nguyệt Xứng. Khi Nguyệt Xứng ám chỉ đến thuật ngữ nầy trong tác phẩm Nhập trung quán luận (Ma­dh­yamakāvatāra), chương VI, kệ 28 của mình, ngài chỉ đơn giản định nghĩa nó như là ‘mê mờ,’[28] vì nó tạo chướng ngại che mờ chân tánh.[29] Trong chương VI, kệ 23 cùng tác phẩm, saṃvṛti-satya (thế đế) được giải thích như là đối tượng của ‘vọng kiến–mṛṣādṛś.[30] Lối phiên dịch nầy dường như đã được truyền bá sau nầy do các môn đệ của Quy mậu luận chứng phái (Prāsaṅgika).[31] Chẳng hạn, Prajñākaramati với tác phẩm của ngài là Commentary on the Bodhicaryāvatāra, chương IX, kệ 2,[32] đã thừa nhận suy nghĩ nầy khi trích dẫn hai dòng kệ nói trên.

 

II

 

Trong tác phẩm  Trung biên phân biệt luận (Madhyānta-vibhāga) luận giải về tác phẩm ấy[33] của ngài An Huệ,[34] chúng ta có một mô tả khác về ‘quy ước’ hay saṃvṛtti. Những bản văn nầy, có lẽ nó được biết đến, là thuộc về Duy thức tông (Vijñānavāda), mà sau đó đã kéo Trung quán phái vào các cuộc tranh luận thường xuyên. Trước hết, saṃvṛtti được định nghĩa ở đây là vyavahāra (biểu tượng danh ngôn).[35]

 Điều nầy, trở lại bị phân thành ba, phản ánh tuần tự đặc điểm của tam tánh (tri-svabhava).[36] Trong bản văn nầy, các Luận sư thuộc Duy thức tông đã cho rằng tri-svabhāva là mūla-tattva (căn bản chân thật) hoặc là căn bản chân thật, bản thật,[37] không phải là Nhị đế của Trung quán, các thuật ngữ nầy, gọi là saṃvṛtti và paramārtha, được dùng ở đây chỉ với mục đích giải thíchtam tánh (tri-svabhāva), có nghĩa là mūla-tattva (căn bản chân thật).

Ba khía cạnh của saṃvṛtti được đề cập ở đây là:

 

  1. Giả thế tục, lập danh thế đế (prajñapti-

 saṃvṛtti)

2. Thuận thế đế (pratipatti-saṃvṛtti).

3. Hiển liễu thế đế (udbhāvanā-saṃvṛtti).[38]

 

Phạm trù thứ nhất, Giả thế tục, lập danh thế đế (prajñapti-saṃvṛtti), đúng như định nghĩa thứ ba của Nguyệt Xứng, ‘biểu tượng quy ước’ và với ý nghĩa saṃvṛtti nầy, prajñapti thiết lập và xác định các thứ vật (vyavasthāna),[39] và có được tên gọi (nāmābhilāpa).[40] Đây rất có thể là nghĩa của cái gọi là vyavahāra–biểu tượng danh ngôn. Dù thực sự là vô cảnh, vô trần[41] nhưng nó cũng tự biểu hiện (prajāpayati → prajñapti) ra cho chúng ta, nhưng chỉ biểu hiện qua danh xưng.[42] Trong ý nghĩa nầy, chỉ có thế giới quy ước–saṃvṛtti là ‘hiện hữu.’ Ngài Huyền Trang dịch thuật ngữ prajñaptigiả (假 temporary), gợi ra một ý nghĩa rất gần với upacāra,[43] trong khi ngài Chân Đế [44] gọi là lập danh.

Thuật ngữ pratipatti-saṃvṛtti (thuận thế đế), trong phạm trù thứ hai, là chỉ cho ‘hành vi, tập tính, suy nghĩ’ của con người, do vậy, như được định nghĩa trong bản văn, nó chẳng có gì khác hơn vikalpa, có nghĩa là phân biệt (sai lầm).[45] Có nghĩa là do sự phân biệt nầy về thế giới khách quan, người ta dính mắc vào ‘thế giới biểu biệt–thế giới được hiện bày ra’ như thể là thật. Ngài An Huệ gọi nó là: “pratipattichấp trước vào đối tượng bên ngoài (arthābhiniveśa), dù ý nghĩa siêu hình của chúng là không có thật.” Ngài Huyền Trang dịch chữ pratipatti bằng nghĩa thông dụng là hành (行), có nghĩa là đi, tạo tác, hoặc thực hiện. Chân Đế dịch là thủ hành ( 取行), có nghĩa là ‘hành vi chấp trước.’ Mặt khác, chữ vikalpa, ở đây được đồng nhất với ‘hành vi chấp trước,’ trong trường phái nầy luôn luôn xem đó là paratantra,[46] như vậy, trở lại, đó là một thuật ngữ cùng họ với Duyên khởi (pratītya-samutpāda), vừa có nghĩa duyên sinh (dependent origination). Tuy nhiên, với phạm trù ý nghĩa thứ hai, saṃvṛtti rất tương đồng với định nghĩa thứ hai của Nguyệt Xứng ‘cái nầy tuỳ thuộc vào cái kia–one depending upon another.’

Phạm trù thứ ba, udbhāvanā (hiển liễu), tuy vậy, không có nghĩa là tương đương như định nghĩa thứ nhất ‘bao trùmr khắp–cover universally’ và bị che phủ toàn bộ– to beconcealed universally’ do Nguyệt Xứng đưa ra, đúng hơn là nó chỉ cho ý nghĩa ngược lại với nghĩa ấy. Udbhāvanā có nghĩa là biểu hiện, hiển bày (sadarśanā–display) và chỉ ra Thực tại tuyệt đối (saṃsūcanā; absolute Reality), vốn từ đầu, nó đã lìa xa phân biệt (vikalpa). Như vậy, saṃvṛtti là một sự phát biểu, nỗ lực để diễn tả cái Tuyệt đối (Absolute) bất khả tư nghì. Về mặt nầy, saṃvṛtti được nâng lên một vị trí cao hơn hai phạm trù trước đó và đặt nó gần với chân đế (paramārtha) hơn; dường như quả thực có thể thay thế chân đế với Tuyệt đối (Absolute),[47] và dường như có thể tuyên bố là có hạn chế. Như trường hợp một hữu thể có thể so sánh tương ứng với khái niệm về đạo (mārga), một mặt dẫn đến Tuyệt đối (Absolute), và mặt kia hiện khởi lên từ Tuyệt đối. Như vậy, hiển nhiênNguyệt Xứng định nghĩa về sự ‘che phủ– covering’ chân lýbiểu tượng cho hầu như sự trái nghịch hoàn toàn với cách hiểu nầy.[48]

Như đã trình bày ở trên, ba cách khác nhau nầy được thể hiệnmục đích giải thích tam tánh (tri-svabhāva), nghĩa là, không giống như tam vô tính (tri-niḥsvabhāva), một giải thích về nghĩa tích cực của từ ens.- Theo nghĩa đó, tất cả những cách hiểu nầy về saṃvṛtti cũng có mặt tích cực,– saṃvṛtti không hoàn toàn phủ nhận mà thực tế là biểu hiện Tuyệt đối (Absolute). Theo đó, trở nên rõ ràng rằng vấn đề căn để ở đây là -vṛt, trở nên hiện hữuthể hiện hay minh chứng cho sự thật/chân lý (truth). Mặt khác ngữ căn -vṛ che phủ và làm lu mờ chân lý. Khía cạnh tích cực được đề cập ở trên cũng đã được thấy khi saṃvṛtti được định nghĩa trước tiên vyavahāra (tập tục thế gian).

Trong mối liên hệ nầy, ngài An Huệ đi xa hơn khi phát biểu rằng vikalpa của phạm trù thứ nhì của saṃvṛtti, là đồng như y tha (paratantra) và Duyên khởi (pratītyasamutpāda), mới đúng là saṃvṛtti trong bản chất thực sự của nó, vì nó là cái cơ bản nhất; trong khi cách dùng được chỉ rõ trong phạm trù thứ nhất và thứ ba của saṃvṛtti lại có một ý nghĩa thứ yếu hoặc phái sinh.[49] Điều ấy để nói rằng An Huệ không xem parikalpita-svabhāva-phân biệt tánh[50]parinipannasvabhāva–viên thành tự tánh.[51] như là saṃvṛtti trong ý nghĩa chân thực của từ ngữ.

Nguyệt Xứng và An Huệ đồng ý với nhau về nhiều vấn đề, vẫn có nhiều điểm mâu thuẫn nhau giữa ý kiến của Nguyệt Xứng về ‘sự che đậy– covering’ và quyển của An Huệ về ‘sự biểu hiện–manifestation.’ Điểm khác nhau nầy có thể được hiểu một cách thích đáng, do vậy, chỉ khi chúng ta kết luận được rằng các ngài đã dùng lẫn lộn nhau ngữ căn √vṛ hoặc vṛt, từ đó cuối cùng phát sinh vô số cách dùng không giống nhau. Các nhà trung quán dường như thích dùng ngữ căn √vṛ , các nhà Duy thức tông thích dùng ngữ căn √vṛt. Tuy nhiên, điều nầy không muốn nói rằng Nguyệt Xứng và các môn đệ Trung quán hoàn toàn chẳng suy nghĩ gì nghĩa của saṃ-vṛt. Ngược lại, họ còn thường dùng vyavahāra (tập tục thế gian) và các thuật ngữ khác trong ý nghĩa được trình bày ở trên. Hơn nữa, An Huệ và các nhà Duy thức tông khác trong khi không đưa ra định nghĩa ‘sự che đậy–covering’ như là một trong các nghĩa của saṃvṛtti, có lễ họ đã hoàn toàn không có ý thức về sự hiện hữu của thuật ngữ chuyên biệt nầy; có lẽ họ đã không có cơ hội để sử dụng thuật ngữ trong ý nghĩa nầy. Lại nữa, vikalpa luôn luôn được xem nhưabhūtaparikalpa,[52] có nghĩa là ‘vọng tưởng–false imaginings’ như đã được nêu lên suốt chương đầu của Trung biên phân biệt luận  (Madhyāntavibhdga). Cho rằng vikalpa là cao nhất,[53]tuy nhiên, nhận thức đúng đắn sâu sắc nhất, khi nó phản nghĩa với chân đế (paramartha), Tuyệt đối (the Absolute),[54] nó chẳng có ý nghĩa gì khác hơn là không thực, hư vọng, và hư giả, miễn khi nó vẫn còn là vikalpa. Do vậy, còn trong trường hợp An Huệ, saṃvṛtti từ ban đầu, là đóng kín và hiển bày chân lý.

 Thế nên saṃvṛtti có nghĩa là quy ước ngay trong bản chất của nó, nghĩa thông dụng cho cả hai trường phái Trung quán và Duy thức; hữu thể là chướng ngại nếu nó được nhận thức như là sự che phủ chân lý, nhưng đó cũng chính là lúc chân lý cùng hiển lộ. Cả hai cách hiểu, dù được biểu thị ở các cực đối nghịch, cũng đã có từ cách dùng hoặc là ngữ căn √vṛ hoặc vṛt, vốn bị hạn chế không chỉ đối với ý nghĩa từ nguyên học của chúng, mà mở rộng ngay đến nghĩa đối nghịch của chúng.

 

 

 

III

 

Cả hai ngữ căn đều đã được cả hai trường phái sử dụng, và nghĩa quy ước (convention) thường dao động trong diện rộng, từ ‘che phủ’ sang ‘trở nên hiện hữu’ đến ‘biểu hiện,’ có thể trở nên chắc chắn hơn khi chúng ta đề cập đến nguốn tư liệu Trung Hoa như các ghi chép của Nghĩa Tịnh[55]

tác phẩm của Từ Ân.[56]

Ngài Nghĩa Tịnh dịch satya phúc đế (覆 諦 covered truth) hoặc phúc tục đế (覆 俗 諦 covered conventional truth).[57] Ngài còn thêm rằng theo cựu dịchthế tục 世俗, vốn không bao hàm nghĩa che phủ trong đó, không diễn tả theo nghĩa gốc của nó. Ở đây ngài Nghĩa Tịnh cho chúng ta thấy một ví dụ cụ thể về cách hiểu thuật ngữ quy ước, thế tục–convention khi nó phái sanh từ ngữ căn √vṛ (che phủ).

 Đại sư Từ Ân ở Trung Hoa đề ra một phân tích thuật ngữ theo từ nguyên học Ấn Độtuyên bố rằng nó có một ý nghĩa chính thống như được truyền dạy bởi ngài Hộ Pháp.[58] Đại sư Từ Ân mô tả saṃvṛti trong Nhị Đế chương[59] và còn có trong Thành Duy thức luận Thuật ký.[60]

Ở đây, ngài gọi saṃvṛti-satya ẩn hiển đế (隱顯諦 covering-and-manifesting truth), nguyên do được ngài trình bày như sau:

世間隱覆, 可毀壞義.

Thế gian ẩn phúc, khả huỷ hoại nghĩa.

 俗謂顯現,隨世流 義

Tục vị hiển hiện, tuỳ thế lưu nghĩa.

Nghĩa là:

Thế gian thì bị ẩn giấu và che phủ, có nghĩa là dễ bị huỷ hoại.

Tục là sự biểu hiện, có nghĩa là tuỳ thuận với nghĩa lưu hànhthế gian.

Có hai định nghĩa trong đoạn văn nầy,[61] một là định nghĩa chữ Thế và một là là định nghĩa chữ Tục , nhưng hai nghĩa phụ thuộc lại đóng vai trò quan trọng trong định nghĩa thuật ngữ thế tục 世俗.

 1. Nghĩa thứ nhất của Từ Ân về saṃvṛti có nghĩa là ẩn giấu và che phủ, như cách dịch của Nghĩa Tịnh, rõ ràng là phát xuất từ ngữ căn sa-vṛ ( 隱覆 ẩn phúc), và được thay thể bằng phúc chướng (覆 障) trong Thuật ký; chướng có gốc tiếng Sanskrit là āvaraṇ, nghĩa ngăn ngại được nhấn mạnh ở đây. Ở mức độ nào đó, trong cả hai trường hợp. cách dịch đều hoàn toàn gần gũi với định nghĩa thứ nhất của Nguyệt Xứng. Nên lưu ý ở đây rằng cách hiểu nầy có nguồn gốc từ ngài Hộ Pháp, người mà, trong số các học giả Duy thức tông, là một trong những chỉ trích nặng nề hệ thống triết học Trung quán.

2. Nghĩa thứ hai của Từ Ân về saṃvṛti có nghĩa là dễ bị huỷ hoại, Tuy nhiên, như thể nó không được phát sinh từ saṃvṛti hay saṃvṛtti. Nét vẽ đầu tiên có lẽ có nghĩa là ‘phá huỷ (chân lý)’, đặc biệt là nếu đọc từ nghĩa thứ nhất ‘che phủ (chân lý).’ Nhưng đây không đúng với trường hợp nầy, vì chữ khả 可 có khả năng biểu thị cho thể thụ động, vì thế nên dịch là dễ bị huỷ hoại.

Tuy nhiên, tôi có ý tin rằng dù sao ít nhất liên quan đến một hoặc hai định nghĩa của Từ Ân. Dường như dễ bị huỷ hoại là một đặc trưng của saṃvṛti vốn đã có nguồn gốc nơi nào đó. Nhị đế được giải thích trong A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận chương VI.[62] Từ saṃvṛti được nêu ra ở đây cho những thứ dễ bị hủy hoại, chẳng hạn, cái bình làm bằng đất sét, nó sẽ không còn tồn tại khi nó bị vỡ,[63] và đối với những thứ có thể phân tích (anyāpoha),[64] chẳng hạn như nước, vốn có thể giảm trừ thành những thành phần nhỏ hơn, như sắc, thanh, hương, v.v... Chỉ khi nào những thứ nầy vẫn là toàn thể hoặc không thể phân tích được, thì chúng mới được gọi là saṃvṛti. Mặt khác, chân đế (paramārtha) là bất khả phân, nó không dừng hẳn sự tồn tại. Dạng kiến giải theo lối thực chứng (positivistic interpretation) nầy là riêng của tư tưởng tiền Đại thừa (pre-Mahāyānistic), và đó là luật chung cho toàn triết học A-tỳ-đạt-ma. Có lẽ Từ Ân đề cập đến khái niệm nầy trong sự xuất phát nghĩa dễ bị huỷ hoại (destructibility) của ngài.

Lại nữa, trong mối liên hệ nầy, chúng ta được gợi nhớ đến từ thế giới (loka). Nghĩa ‘huỷ hoại’ có đôi lúc được gắn liền với thế giới (loka) ở Ấn Độ, và cách dùng của nó cũng trở nên thông dụng trong Phật học Trung Hoa. Thuật ngữ Tây Tạng tương đương có nghĩa là hoại xứ (abode of destruction).[65] Như trong tiếng Hán, luôn luôn dịch lokathế (世), chắc hẳn rằng nghĩa từ nguyên thông dụng của loka như là ‘huỷ hoại– destruction’ cũng được áp dụng gồm trong nghĩa mở rộng của saṃvṛti.

3. Trong định nghĩa thứ ba của ngài Từ Ân, hiển (顯 appearing) và hiện (現 manifesting), có lẽ chỉ thể hiện nghĩa prajñapti,[66] saketa[67]...do An Huệ đề ra trong phạm trù thứ nhất của saṃvṛtti (có nghĩa là ‘vật thể hiện hữu trên thế gian– things appear in the world). Tuy nhiên, từ sự tương đồng của hai thuật ngữ Hán, có lẽ đúng đắn hơn để hiểu nó với nghĩa hiển liễu 顯–udbhāvanā), có nghĩa là phạm trù thứ ba của saṃvṛtti do An Huệ nêu ra trong trường hợp muốn nêu ra ý nghĩa, ‘chân đế tự biểu hiện chính nó trong thế giới nầy’ như là các sự vật trên thế gian. Đó là sự ‘đi xuống’ hay ‘hạ thấp’ chân đế trong sự hiện hữu quy ước nầy; Tuyệt đối (Absolute) ‘hiển hiện’ trong lớp vỏ của quy ước (convention), và cái một trở thành cái nhiều.

4. Định nghĩa thứ tư của Từ Ân, tuỳ thuận với nghĩa lưu hànhthế gian, cho thấy nghĩa gần nhất với chữ tục (俗) của Trung Hoa. Nhưng ở đây còn có nghĩa là là tuỳ (隨), là theo hoặc tuỳ thuận, có nghĩa là có một cái cao hơn chịu phục tùng một cái thấp hơn chính nó. Đó không phải là tính chất thời lưu chiếu theo tính chất thời lưu [68]chân đế (paramārtha) đã tự hạ mình xuống và theo quy ước thế gian (loka-vyavahāra), có nghĩa là những tập tục đời thường. Vốn tính chất thời lưu mạnh hơn chân đế (paramārtha). Chân đế khước từ đặc quyền của nó và dễ bị tuỳ thuộc vào saṃvṛti; mặt khác, chân đế (paramārtha) sẽ tự tìm thấy chính nó hoàn toàn thiếu thốn cái nghĩa mà nó tự biểu hiện ra chính nó. Do vậy, tuỳ thuận với nghĩa lưu hànhthế gian, có thể là nổi bật với chỉ là thế lưu,[69] có nghĩa là dòng chảy hằng ngày của luân hồi sinh tử vốn hoàn toàn vô tình đối với chân đế (paramārtha). Nếu sự ước đoán nầy không quá sai, saṃvṛti ở đây không chỉ là cuộc sống, mà cuộc sống biểu thị chân đế và phản ánh Thực tại (Reality). Nên nghĩa nầy đồng với thuật ngữ hiển hiện của Từ Ân như đã được trình bày ở trên. Trong cả hai cách hiểu của Từ Ân về hiển hiện tuỳ thuận với nghĩa lưu hànhthế gian, rõ ràng ngữ căn saṃ-vṛt được chọ để nói rõ thế giới quy ước nầy. Do vậy, thuật ngữ ẩn hiển của ngài, chúng ta tìm thấy được trong tổng hợp ẩn của Nguyệt Xứng và hiển của An Huệ.

 

 

 

IV

 

 

Các ví dụ nầy về cách hiểu khác nhau của khái niệm saṃvṛti Ấn Độ và Trung Hoa được thảo luận ở đây không có ý là nói hết mọi vấn đề. Vẫn còn nhiều việc cần làm khi theo đuổi sự phát triển của những khái niệm nầy ở Trung Hoa , Tây Tạng. Và Nhật Bản, nơi ý nghĩa phức hợp mở rộng đã được thêm vào. Tuy nhiên, từ những thảo luận đã đề cập đến, chắc chắn có những thẩm định đã được gợi ý.

Tóm lại, đối với Nguyệt Xứng, saṃvṛti là một khái niệm tiêu cực, trong khi đối với An Huệ thì nó mang một khái niệm tích cực. Những quan niệm bất đồng nầy dường như xuất phát một cách tự nhiên từ sự khai triển mầm mâu thuẫn vốn có trong thuật ngữ saṃvṛti; Nguyệt Xứng đã phát triển một khía cạnh nầy và An Huệ phát triển mặt kia. Cuối cùng, chính ngài Từ Ân là người đã kéo lại hai thái cực với nhau để đưa saṃvṛti về với ý nghĩa toàn diện của nó. ‘Ẩn–hiển’ tất nhiên là sự biểu đạt nghịch lý, nhưng đó chỉ là trong phạm trù mâu thuẫnĐức Phậtchúng sinh có một điểm gặp gỡ chung. Chỉ trong thế giới nghịch lý nầy mà các vị Bồ-tát có thể biểu hiện một cách có hiệu quả công đức của mình; quả thực đó là nền tảng, qua đó, toàn bộ ý tưởng của tác phẩm Bồ-tát đạo,[70] hệ thống căn bản nhất của Đại thừa đã dựa vào.

Nếu quan điểm của Nguyệt Xứng được chấp nhận, saṃvṛti mãi mãi được trù định trước là giữ lại trong hố thẳm tối đen của trần tục, vì paramārthathể không bao giờ được hiển thị; nhìn vào paramārtha là không thấy được điều gì cả. Khi paramārtha được phát huy thành phạm vi hiểu biết tri giác của chúng ta, thì cái gì được nhận biết trong khoảnh khắc đó thành saṃvṛti hay hư vọng–falsehood. Như vậy, saṃvṛti có thể được mô tả như là thường xuyên lìa xa hẳn paramārtha, mãi mãi đi xuống vực thẳm không đáy.

Ngược lại, An Huệ khẳng định giá trị của saṃvṛti như là trung gian duy nhất, qua đó paramārtha có thể tự biểu hiện chính nó. Hoặc là chính xác hơn, chính riêng saṃvṛti có thể phản ánh hình ảnh của paramārtha.[71] Như vậy, nó trở thành một điều đáng giá vô cùng, tiến nhanh về phía Tuyệt đối. Thế nên ở đó không có sự đi xuống, mà chỉ thăng hoa. An Huệ có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sau cùng chỉ có một thế giới, thế giới của saṃvṛti, trong đó chúng ta được sinh ra, làm việc và chết đi. Chẳng có cái gì khác. Không có thế giới nầy, có nghĩa là những gì thế giới nầy phủ định, thì paramārtha cũng sẽ trở nên phi hữu (non-existent).

Đã thảo luận về Nguyệt Xứng và An Huệ, chúng ta có thể tóm tắt về quan điểm của Từ Ân là một điều kéo theo hoặc căn cứ trên tuyên bố của ngài Hộ Pháp (Dharmapāla) rằng ‘ẩn chứa sự thật chính là thể lộ sự thật.’[72] Có nghĩa là, chính bằng vào sự ẩn chứa sự thật và chỉ bằng cách ấy mà sự thật có thể được hiển bày. Ở đây cũng chẳng có sự đi lên nếu không có sự đi xuống; nếu không có phủ định, thì chẳng có xác định.

Lịch sử của thuật ngữ saṃvṛti như được mô tả vắn tắt ở đây cho chúng ta một niềm tin về sự biểu thị phát triển song hành của Đại thừa Phật giáo, vấn đề nan giải đó là Bồ-tát đạo (Bodhisattva-mārga).

Saṃvṛti phát xuất từ gốc Pāli là sammuti, ban đầu có những nghĩa thông thường như quy ước, tập tục... Về sau, nó có nghĩa khác, ẩn–coveringhiện–manifesting; và sau cùng nó kết hợp cả hai nghĩa ẩn-hiện. Ẩn-hiện, vốn diễn tả bản chất nghịch lý của Đại thừa, chủ yếu mô tả thế giới trong đó tâm Đại bi của Bồ-tát phải tìm được ý nghĩa. Nó khác xa với một thế giới viên mãn, nhưng nó chính là biểu hiện của viên mãn. Đó chính là thế giới của vô minh, nhưng nó hưởng được tia sáng ấm áp của trí huệ, Đó chính là công hạnh của hàng Bồ-tát, bởi vì các ngài không an trụ trong niết-bàn, tức ở trong Vô trụ niết-bàn, các ngài trở lại thế gian nầy và ở chính ngay trong phiền não nhiễm ô. Nhưng chính trong đó là sự giác ngộtrí huệ của các ngài; niềm vui của các ngài chính là những hạnh khó làm trong thế giới nầy chứ không phải ở nơi nào khác.

cõi giới của Bồ-tát nầy đầy dẫy những mâu thuẫn, thì chính đó là saṃvṛti, nó cũng nên được phân biệt một cách tự nhiên với thế giới phàm trần của con người.[73]

Sự phân biệt như vậy là đã được giải quyết trong khái niệm paratantra của Duy thức, đó chính là trục mà toàn bộ khái niệm tam tánh–tri-svabhāva xoay quanh, tự phân biệt chính nó với một bên là samsaric parikalpita, và bên kia là với nirvanic parinipanna.[74]

Saṃvṛti của Nguyệt Xứng dường như là cái nhìn thoáng qua để chỉ thể hiện khía cạnh parikalpita. Nhưng Nguyệt Xứng cũng giới thiệu ở đây một thuật ngữ mới, duy biểu (Saṃvṛti-mātra), [75] vốn phân biệt rạch ròi với chân đế (paramartha-satya) cũng như với tục đế (Saṃvṛti-satya) của hệ luỵ nhân sinh, và tương quan với cõi giới của Bồ-tát. Tuy nhiên, mối tương quan giữa các khái niệm nầy, vốn rất thú vị, có thể chưa được đề cập ở đây.


[1] 二諦 twofold truth; twi-satyas; s: vya-vahāra-satya, prajñapti-satya 三種寫法.

[2]真諦,s: paramārtha-satya,p: paramattha-sacca. Còn gọi Thắng nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế 勝義諦、第一義諦

[3]世俗諦, 世諦 S: saṃvṛti-satya,p: saṃmuti-sacca.

[4] G. M. Nagao, "The Fundamental Standpoint of the Mādhyamika Philosophy" (in Japanese), Telsugaku Kenkyū (Journal of Philosophical Studies, nos. 366-371, Kyoto, 1947-1948. Reproduced in Chūkan to Yuishiki. (Tokyo: Iwanami Shoten, 1978).

[5]緣起; pratītya-samutpāda,p: paṭicca sa-muppanna,tib: rten-ciṅ-ḥbrel-bar ḥbyuṅ-ba); e: dependent origination. Còn gọi Duyên sinh.

[6] Wogihara Unrai Bunshu (Collected Works of Dr. U. Wogihara) (Tokyo: 1938), p. 784; F. Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit Dictionary (New Haven: 1953), p. 541.

[7] R. C. Childers, Pali-English Dictionary (London: 1875). p. 436.

[8] E: to give consent to the same or common idea

[9] U. Wogihara, op. cit., cho rằng Saṃ-man là ngữ căn chính xác và đúng với nghĩa ‘bao phủ– covering (hoặc che đậy– concealing); sẽ thảo luận sau, là xuất phát từ ngữ căn khác, Saṃ-√vṛ

[10] 窺 基 Kuiji (632-682) Ngài là vị đầu tiên sáng lập Duy thức tông vào đời Đường Trung Hoa. Là đệ tử thượng thủ của ngài Huyền Trang. Do ngài trú trì chùa Từ Ân ở Trường An nên ngài còn được gọi là ‘Từ Ân Đại sư’. Ngài vốn hoằng dương Duy thức tông nên tông nầy còn được gọi là Từ Ân tông. Gần đây có chủ trương cho rằng chữ Khuy 窺 là do người đời sau thêm vào. Pháp hiệu của ngài chỉ duy nhất một chữ Cơ 基 mà thôi. Ngài có họ Uất Trì 尉遲, là con trai của dòng họ khai quốc công thần Uất Trì.Là người kinh đô Trường An. Từ nhỏ dung mạo khôi ngô, tính tình khí khái hào sảng. Năm 17 tuổi, ngài Huyền Trang độ ngài xuất gia. Do tánh tình thô tháo khinh ngạo, thường hay cãi lại những lời can ngăn, tương truyền phải sau ba lần khích bác của ngài Huyền Trang, ngài mới chịu xuất gia Sau khi xuất gia, ngài theo hầu cận ngài Huyền Trang, được học Phạn ngữ và các bộ luận Duy thức. Năm 25 tuổi ngài tham gia dịch trường của ngài Huyền Trang. Lúc ấy tại đạo tràng phiên dịch, việc trọng yếu nhất là dịch bộ Thành Duy thức luận. Lúc nầy, ngài Huyền Trang cùng với bốn vị: Thần Phảng 神昉, Gia Thượng 嘉尚, Phổ Quang 普光và Khuy Cơ khởi thảo chú thích và dịch Duy thức tam thập tụng của 10 vị đại luận sư Ấn Độ. Ngài Khuy Cơ chủ động sắp xếp đề mụcý nghĩa. Những tác phẩm ngài biên soạnphiên dịch rất nhiều, từng được lời tán thán là ‘Người biên soạn 100 bản luận giải– 百本疏主 Bách bản sớ chủ.’ Trong đó gồm các tác phẩm Duy thức thuật ký 唯識述記, Thành Duy thức luận chưởng trung khu yếu 成唯識論掌中樞要, Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương 大乘法苑義林章, Du-già lược toản 瑜伽略纂, đều là các tác phẩm chủ yếu trong lịch sử tư tưởng Phật giáo.

[11] s: Madhyānta-vibhāga-ṭīkā 辯中邊論注 .

[12] * S. Yamaguchi, ed., Sthiramati, Madhyāntavibhāga-ṭīkā (từ đây sẽ gọi tắt là Sthiramati. Nagoya: Libraire Hajinkaku, 1934. Reprint Tokyo, 1966).

[13] Những ví dụ về sự biến đổi trong chính tả là satva với sattva; upāyya với upāya.

[14] Hán: tiến bộ, xuất hiện, sinh khởi, sản xuất, khởi nguyên, triển khai, hoạt động

[15] Hán: sinh khởi, xuất sinh, hiện khởi, hưng xuất, xuất hiện vu thế.

[16] Từ điển của Sir M. Monier-Williams, Sanskrit-English Dictionary (Oxford: 1899), p. 1116

[17] Nguyệt Xứng 月 稱; S: Candrakīrti; tk. 6-7; Luận sư quan trọng nhất của Trung quán tông sau Long Thụ. Sư quê ở Nam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Nhân lúc đọc các bộ luận của Long Thụ, Sư sáng rõ tâm ý. Sau Sư trở thành viện trưởng của Na-lan-đà và soạn nhiều luận chú thích về các tác phẩm của Long Thụ. Các tác phẩm quan trọng của sư là Minh cú luận (明 句 論), Nhập trung quán luận (入 中 觀 論). Khi hành hoá về phương Nam, Sư đã giáo hoá rất nhiều người. Sư sống rất thọ, nhưng chắc chắn là không thọ đến 300 tuổi như sử sách Tây Tạng ghi nhận.

Các tác phẩm còn lưu lại của Sư (trích): 1. Minh cú luận (s: Prasannapadā), gọi đủ là Trung quán minh cú luận (s: Madhyamakavṛt­ti-pra­­san­napadā), tác phẩm chú giải Trung quán luận (Madhyamaka-śāstra) của Long Thụ (Nā­­gār­juna) duy nhất bằng nguyên văn Phạn ngữTây Tạng; 2. Nhập trung quán luận (Ma­dh­yamakāvatāra), chỉ còn bản Tạng ngữ; 3. Nhập trung luận thích (Madhyama­kāva­tā­ra-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ; 4. Nhân duyên tâm luận thích (Pratī­tya-sa­mut­pāda-hṛ­da­ya-vṛtti), một tác phẩm chú giải Nhân duyên tâm luận tụng (Pratīt­yasa­mut­pāda-hṛ­da­ya-kā­ri­kā), được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ; 5. Thất thập không tính luận thích (Śūn­yatā-sap­tati­vṛtti), chú giải Thất thập không tính luận (Śūn­­ya­tā-sap­tati) của Long Thụ. Long Thụ (và Para­hita) cũng có soạn một tác phẩm dưới tên này. Chỉ còn bản Tạng ngữ; 6. Lục thập tụng như lí luận thích (Yukti-ṣaṣṭhikā-vṛtti), luận giải Lục thập tụng như lí luận (Yukti-ṣaṣṭhikā), một tác phẩm được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ; 7. Bồ-tát du-già hành tứ bách luận thích (Bo­dhi­sattva­yogā­cā­ra-catuḥśa­ta­ka-ṭīkā), chú thích bộ Tứ bách luận (Ca­tuḥśa­ta­ka) của Thánh Thiên (Āryadeva), chỉ còn bản Tạng ngữ; 8. Trung quán luận tụng (Madh­yama­ka-śāstra-stuti).

[18] Louis de la Vallde Poussin , Mūlamadhyamaka-kārikās (St.-Petersbourg: 1913. Bibliotheca Buddhica, IV), p. 492, lines 10-12.

[19] Theodore Stcherbatsky, The Conception of Buddhist Nirvana (Leningrad: 1927). pp. 134. 232.

[20] Shōtoku-taishi (j); 聖德太子 (574-622). E: False and vain is the world; only the Buddha is real.

[21] Từ saṃvṛti trong Mahayana-sutralakara, chương XVI, 41,

được dịch sang tiếng Tây Tạng'khor-ba ( = sasāra) chư không như từ thường dùngkun-rdzob. Cách dùng nầy cũng được thừa nnhận trong tác phẩm của An Huệ nhan đề Commentary (Peking edition Mdo-'grel, vol. XLVII, Tsi, fol. 36a-b. Reprint, cd., vol 109. p. 16). Từ nirvti, cũng xuất hiện trong dòng kệ nầy, vốn được đánh đồng với nirvāṇa không những trong kinh luận Phật học mà còn có trong tiếng Sanskrit thuần tuý. Do vậy, sự đánh đồng thuật ngữ nirvti và nirvāṇa ở đây là không khác lạ, nhưng điều nầy rõ ràng được tuyên bố như một tiền đề, và saṃvṛti ở đây tương đương với sasāra và được dùng thay thế.

[22] Hán: cử chỉ, hành động, phong tục, tập quán, nhật thường sinh hoạt.

E: worldly designations.

[23] Prajñapti. Hán dịch: thi thiết, biểu hiện. e: making known,

 notation.

[24] S: Abhidhāna: Hán: mệnh danh; e: to name.

[25] S: Abhideya: Hán dịch: sở thuyết, sở thuyên. E: to be named.

[26] C. Bendall, cd., Sikṣāmuccaya (St.-P&crsbourg: 1897-1902. Bibilotheca Buddhica. I), p. 257, lines 7-8: saṃvṛti= nāmadheya, saketa, prajñapti.

[27] U. Wogihara, ed., Bodhisattvabhūmi (Tokyo: 1930), p. 49, lines 3-5.

[28] S: moha: e: folly. Hán: mê hoặc, chấp mê, ngu hành, ngộ mậu, vô minh.

[29] s: svabhāvāvaranāt.

[30] E: false view.

Louis de la Vallée Poussin, Ma­dh­yamakāvatāra par Candrakīrti (St-Petersbourg: 1912. Bibliotheca Buddhica IX), pp. 107 and 102.

[31] Được cho là từ Phật Hộ (佛 護; buddhapālita), người đại diện xuất sắc của Trung quán tông. Trong luận giải với tên Phật Hộ căn bản trung quán luận thích (buddhapālita-mūlamadhyamaka-vṛtti), Sư đả phá quan điểm của những kẻ đối nghịch và những kết luận (prasaṅga) sai trái của họ, có thể gọi là »phá tà hiển chính,« nghĩa là không nêu quan điểm của chính mình, chỉ dựa vào những nhược điểm, những mâu thuẫn hiển hiện của đối thủ mà đả phá họ. Sư thành lập hệ phái Trung quán-Cụ duyên (中 觀 具 緣; cũng gọi là Trung quán-Ứng thành tông; 中 觀 應 成 宗; s: prāsaṅgika-mādhyamika) – tên gọi tông này dựa trên phương pháp đó.

Thanh Biện (清 辯; bhāvaviveka) áp dụng luận lí học của Duy thức tôngNhân minh học của → Trần-na (陳 那; dignāga) trong thuyết Trung luận của mình. Sư hay nhấn mạnh đến »tính hợp quy luật«, xây dựng luận thức độc đáo của chính mình và sau đó tiến tới bác bỏ lập luận đối phương. Vì thế nên hệ phái của Sư mang tên là Trung quán-Tự ý lập tông (中 觀 自 意 立 宗) hay Trung quán-Y tự khởi tông (中 觀 依 自 起 宗; svātantrika-mādhyami-ka). Sư cũng phân tích và phê bình các luận sư khác và công kích luôn cả Phật Hộ. Cho Trung quán tông thì việc Thanh Biện đưa những quan niệm trung tâm của Duy thức tông vào – tất nhiên là có biến đổi đôi chút – chỉ làm thêm phong phúthúc đẩy sự phát triển. Tất nhiên qua đó Thanh Biện có nhiều sai biệt với các luận sư khác, như về thể tính của ý thức, sư xem nó chỉ là một phần của thế giới hiện tượng.

Nguyệt Xứng (月 稱; candrakīrti) thì cố gắng trở về với giáo lí nguyên thuỷ của Long Thụ. Sư tự xem mình là người thừa kế Phật Hộ và từ chối quan điểm của Thanh Biện, từ chối đưa ra bất cứ một hệ luận nào vì cho rằng Trung quán tông đích thật không chủ trương một quan điểm nào cả. Sư soạn một bài luận giải tác phẩm Trung quán luận của Long Thụ và trong đây, sư chứng minh hệ thống của Phật Hộ là đúng. Với xác nhận này, sư phản ứng những quan điểm được Thanh Biện đề ra để bài xích một vài điểm trong hệ thống của Phật Hộ. Sư nêu rõ là một người có quan điểm trung dung không nên đề ra Tam đoạn luận (三 段 論 法; e: syllogism) độc lập mà trong đó, cả ba chi của một luận điểm tự lập, tự khởi.

[32] Louis de la Vallée Poussin, ed. Bodhicaryāvatāra of Sāntideva (Calcutta: 1901) (Bibliotheca Indica, N. S. no. 983). pp. 353, 361.

[33] Trung biên phân biệt luận sớ hoặc Biện trung biên luận sớ (s: madhyāntavibhāga-kārikā),

[34] Yamagucchi, Sthiramati, pp.123-125.

[35] verbal designation.

[36] E: three natures.

[37] E: principal truth.

[38] Từ điển Phạn Hán.

[39] Vyavasthāna: Hán: kiến lập, thị hiện, an lập, an trí an trụ, xuất sanh, sai biệt.

[40] Nāmābhilāpa: Hán: đắc danh.

[41] S: arthābhāve; e: non-existence of the world.

[42] S: ahhidhāna-mātreṇa; e: appellations.

[43] Phẩm hạnh, hành trạng, giả lập ngôn thuyết, thi thiết, giả lập, lập danh, giả thuyết.

[44] 真 諦; S: Chân Đế (Paramārtha, 499-569), một vị Cao tăng, chuyên dịch kinh ra tiếng Hán. Sư người Ấn Độ, đến Trung Quốc năm 546. Ban đầu Sư ở Nam Kinh, nhưng không bắt đầu ngay được công trình dịch thuật mà đợi đến khi về Quảng Đông, Sư mới bắt đầu dịch các tác phẩm quan trọng của Duy thức tông (s: Vijñānavāda) như Nhiếp đại thừa luận (s: Mahāyāna-saṃgraha) của Vô Trước (s: Asaṅga), A-tì-đạt-ma câu-xá luận (s: Abhidharmakośa), Duy thức nhị thập luận tụng (Vijñāptimātratāviṃśatikā-kārikā) của Thế Thân (s: Vasubandhu) và dịch Kinh Kim Cương sang chữ Hán. Tổng cộng, Sư dịch 64 tác phẩm với 278 tập. Với các tác phẩm dịch thuật của mình, Chân Đế đã đưa Duy thức tông vào Trung Quốc với tên goi Pháp tướng tông mà người sáng lậpHuyền Trang và Khuy Cơ. Bản dịch Câu-xá luận của Sư đã trở thành giáo pháp của Câu-xá tông tại Trung Quốc.

[45] Hán: Vọng kế, kế chấp, phân biệt; e: (wrong) discrimination.

[46] Y, Y tha, Y tha khởi, Y tha tánh, Duyên khởi, nhân duyên pháp, nhân duyên pháp thể

[47] Saṃvṛtti-satya ở đây hầu như tương đương với Tuyệt đối. Yamaguchi, Sthiramati, p. 124, lines 24-25; Udbhāvanā- saṃvṛttyā pariniṣpannaḥ saṃvṛtti-satyam.

[48] Về điểm nầy, dường như có một cuộc thảo luận về phạm vi triết học Trung quán giữa Thanh Biện thuộc phái Quy mậu luận chứng (Svātantrika) và Nguyệt Xứng đại biểu cho Ứng thành phái (Prāsaṅgika). Với trường phái của ngài Nguyệt Xứng, tuyên bố rằng saṃvṛti chỉ có nghĩa là ‘che phủ’ hoặc ‘chướng ngại’, thì có mối nghi rằng tại sao saṃvṛti lại có sự chính xác để nói là ‘hiển bày’ sự thật. Lại nữa, nếu saṃvṛti có thể tiếp cận với Tuyệt đối (Absolute) của chân đế (paramārtha) nhờ vào sự ‘biểu hiện,’ thì có thể dẫn đến sự hiểu lầm về Nhị đế (Twofold Truth). Thanh Biện, mặt khác có lẽ đã rất gần gũi với Duy thức tông, đặc biệtquan niệm của ngài về tathya- saṃvṛti, có nghĩa là chân lý quy ước (true convention).

[49] Yamaguchi. Sthiramati, p. 124, lines 1; avasara-saṃgraha vyavasthānam, có nghĩa (1) và (3) là được thiết định trên những tình huống khác nhau.

[50] Vọng tưởng tự tánh, Kế vọng tự tánh, Hư vọng Phân biệt danh tự tướng (kinh Lăng-già). Biến kế sở chấp tự tánh (Trung biên thích luận).

[51] Viên thành thật tự tánh, chân thật tánh (kinh Lăng-già).

[52] Hư vọng phân biệt.

[53] Ý nghĩa là như thế nầy: Ngay cả khi vikalpa hoạt dụng với ý nghĩa Luận lý học chính xác nhất, dùng luận thức đúng đắn (tarka), và do vậy, nó vẫn là ‘hư vọng’ và ‘không thật’ đến chừng mực nó vẫn giữ một vikalpa và đối nghĩa với paramārtha.

[54] Điều nầy nhắc cho chúng ta biết rằng paramārtha là tương đương với tūṣṇīṃbhāva (e: being silent). Điều nầy có nghĩa paramārthaatarkagocara, vượt qua lập luận luận lý, hoặc vượt qua vikalpa, một ý tưởng thường được tìm thấy đặc biệt là trong Trung quán tông.

[55] Nghĩa Tịnh; I-ching (635 – 713) Ngài là người huyện Trác, tỉnh Hà Bắc, (có tư liệu khác nói ngài là người Tế Châu, Sơn Đông), họ Trương, tên Văn Minh. Tuổi nhỏ đã xuất gia, tư chất thông minh đĩnh tuệ, tìm học khắp nơi với nhiều vị danh đức. Ban đầu, ngài nghiên cứu về luật qua các sớ giải của ngài Đạo Tuyên, lại cũng học tập các giáo lý khác. Năm 15 tuổi ngài đã hết lòng ngưỡng mộ những chuyến đi sang Ấn Độ của các vị Huyền Trang, Pháp Hiển. Năm 20 tuổi thọ giới cụ túc. Niên hiệu Hàm Hanh thứ 2 (671) đời Đường Cao Tôn, ngài theo đường biển khởi sự từ Quảng Châu đi qua xứ Thất-lỵ-phất-thệ đến Ấn Độ. Ngài đi khắp các nơi chiêm bái tất cả thánh tích Phật giáoẤn Độ, rồi đến Phật học viện Nalanda, lưu lại học tập ở đó 10 năm. Sau lại đến Tô-môn-đáp-lạp học 7 năm nữa, chu du qua hơn 30 nước rồi mới quay về Lạc Dương, Trung Quốc. Ngài mang về rất nhiều kinh điển Phạn ngữ, ước có đến 400 bộ, cùng với 300 hạt ngọc xá-lợi. Võ Hậu nghe tin ngài về đích thân ra tận bên ngoài cửa đông tiếp đón rất trọng thể, thỉnh ngài về chùa Phật Thọ Ký và ở đó phiên dịch kinh điển. Chỉ kể từ niên hiệu Thánh Lịch thứ 2 (699) cho đến niên hiệu Cảnh Vân thứ 2 (711), trải qua 12 năm, ngài đã dịch được 56 bộ kinh, gồm 230 quyển, trong đó các bản kinh thuộc Luật tạng và kinh văn của Nhất thiết hữu bộ chiếm đa số. Ngài cùng với các ngài Cưu-ma-la-thập, Huyền TrangChân Đế được tôn xưng là 4 dịch giả lớn nhất trong việc phiên dịch kinh điển sang Hán văn. Ngoài ra ngài còn có 2 trước tác quan trọng là Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng TruyệnNam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, đều hàm chứa rất nhiều tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu đời sau. Tháng Giêng niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 nhà Đường (713), ngài thị tịch. Thời bấy giờ dựng tháp thờ ngài ở Long Môn, Lạc Dương. Trước tác và dịch phẩm của ngài để lại hiện còn được 66 bộ.

[56] Khuy Cơ.

[57] Nghĩa Tịnh soạn, Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, 4 quyển, Taishō , vol. LIV, p. 228b; J. Takakusu. A Record of the Buddhist Reigion by I-tsing (Oxford: 1896), p. 168.

[58] Hộ Pháp 護 法; S: dharmapāla; P: Dhammapāla; (c: Hu-fa 530-561)

Luận sư của Duy thức tông (s: vijñānavāda), sống trong thế kỉ thứ 6-7 sau Công nguyên, môn đệ của Trần-na (s: Dignāga). Đảm nhiệm Viện trưởng Nālandā. Sau đó Sư đến Giác Thành (Bodh-gayā) và trở thành viện trưởng viện Đại Bồ-đề (s: Mahābodhi). Sư mất năm 32 tuổi. Hầu như mọi tác phẩm của Sư đều thất lạc cả.

Sư viết luận giải về Bách luận (s: śataśāstra) của Thánh Thiên (s: Āryadeva), về Duy thức nhị thập tụng (s: Viṃśatikāvijñaptimātratākārikā) của Thế Thân (s: Vasubandhu). Tư tưởng luận giải của Sư còn được tìm thấy trong tác phẩm Thành duy thức luận của Huyền Trang. Hộ Pháp và các môn đệ nhấn mạnh tính duy tâm (s: cittamātra) tuyệt đối của Duy thức học, cho rằng thế giới ‘không gì khác hơn là sự tưởng tượng.’

[59] E: Chapter on the Twofold Truth ; Đại thừa Pháp uyển Nghĩa Lâm chương, 7 quyển, Taishō , vol. XLV, p. 287c.

[60] E: Commentary on the Vijñānamatra-siddhi. Taishō vol. XLIII,
p. 243c.

[61] Phương pháp lạ kỳ khi phiên dịch tiếng Sanskrit là dùng hai hay nhiều chữ rồi phân tích từng chữ như là một từ nguyên gốc, đó không phải là thông thường đối với các học giả Phật học Trung Hoa . Nhưng tại sao Khuy Cơ (Từ Ân), đệ tử lỗi lạc của Huyền Trang, có lẽ rất thông thạo ngôn ngữ Sanskrit, lại chấp nhận cách dùng quá rối rắm nầy.

[62] Quán đạo A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, 冠導阿毘達磨俱舍論ed., Rev. Kyokuga Sacki (佐伯旭雅 Tá Bá Húc Nhã), vol. 22, p. 10b; Louis de la Vallée Poussin, L’Ahhidharmakośa de Vasubandhu (Paris: 1925), VI; p. 139-40; U. Wogihara, ed.. Yaśomitra: Sphutārthā (Tokyo: 1934), p. 524; P. Pradhan, Abhidharma-kośabhāṣya of Vasubandhu (Patna: 1967), p. 334.

[63] S: bheda: phá hoại, hoại tán, dị, sai biệt.

[64] Trừ biệt, li dư.

[65] Mahāavyutpatti, ed., R. Sakaki, 3061: lujyata iti lokaḥ, jig-pas na 'jig-rten.

 Cách diễn đạt nầy được tìm thấy trong tác phẩm Yaśomitra của Wogihara, p. 23, dòng 6, và trong tác phẩm của P. Pradhan, Abhidharma-koshabhāsya of Vasubandhu (Patna: 1967), p. 5, dòng 16. Xem thêm Wogihara Bunshu, p. 801, nơi các từ được giải thích rõ như sau: loka có gốc là u-loka, đây là dạng sau nầy được hiểu từ gốc Pāli là loga (skt. roga); có nghĩa là tán loạn, chia lìa (breaking up), ngữ căn là luj (skt. ruj).

[66] Hán: Giả lập, giả thi thiết, kiến lập thi thiết, giả danh.

[67] Hán: Giả thuyết, sở hiển, biểu thị, thế lưu bố ngữ, tuỳ tục, giả ngôn thuyết, thế tục.

[68] E: worldliness complies with worldliness.

[69] E: worldly currents.

[70] S: Bodhisattva-mārga; e: The Way of the Bodhisattvas.

[71] Như Long Thụ cũng tuyên bố trong Căn bản trung quán luận tụng . XXIV, 10: "Without recourse to verbal designations (of samvrtt), paramārtha is ineffable."

[72] E: the covering of the truth is the manifesting of the truth.

[73] Prāktako loka, có nghĩa là thế giới thông tục, như đã được mô tả trong Bodhicaryāvatāra-pañjikā, p. 368-369.

[74] Vô Trước (Asaṅga), Nhiếp Đại thừa (Mahāyānasaṃgraha), chương Jñeyalakana.

[75] Thuật ngữ Saṃvṛti-mātra; e: Saṃvṛti-only; tib: kun-rdzob-tsam; xuất hiện trong tác phẩm Nhập Trung quán của Nguyệt Xứng p. 108 (ad VI, 28). Xin xem bài viết của tôi nhan đề "Fundamental Standpoint of Madhyamika Philosophy," Tetsugaku Kenkyu, no. 370, p. 34 ff. (Chukan to Yuishiki. pp. 104, 106). Tông-khách-ba (Tsong-kha-pa)đã trích dẫn đoạn văn nầy tr tác phẩm Lam-rim 'chen-mo, của ngài. fol. 263a, 318a (Peking popular edition).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10402)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9674)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23594)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11834)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10729)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10067)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28675)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29397)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11381)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26312)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31010)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25318)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22795)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13044)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21924)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14132)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12429)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11237)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10687)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38050)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13663)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13449)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12337)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12581)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12049)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10719)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12789)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7387)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12610)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12035)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12863)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11937)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10690)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11355)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11648)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10855)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10790)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10364)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10477)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10701)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10624)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11904)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10687)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10797)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11376)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11088)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11621)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10510)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11250)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12294)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11157)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12488)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11417)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11499)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11289)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12994)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14164)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11002)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11859)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13153)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11571)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11409)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10926)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11275)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10808)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11053)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10874)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10240)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17102)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10995)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10862)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11384)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11073)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11373)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10350)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12759)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19239)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19673)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20309)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19738)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19019)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20445)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21066)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17913)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21795)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant