Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

24 Tháng Sáu 201410:12(Xem: 14449)
Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

 

Trao Truyền

Dalai LamaQUYỂN SÁCH NÀY, Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, dĩ nhiên được sáng tác bởi Tổ sư Atisa Dipamkara, một người Bengal đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 11[1]. Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng. Atisa đã sáng tác một luận điển ngắn, Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ hay Bồ Đề Đạo Đăng Luận, với ý định cung cấp một cách bổ sung thành một thể thống nhất những giáo lý đa dạng của Đạo Phật dành cho những hành giả ở mọi trình độ năng lực tinh thần khác nhau[2]. Ngọn Đèn của Atisa đã trở thành tài liệu căn bản cho tất cả mọi giai tầng của con đường Giác Ngộ (lamrim). Trong ý nghĩa ấy, chúng ta có thể xem tác phẩm Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ của Tông Khách Ba như một luận giải mở rộng, hay giải thích, bài luận ngắn của Atisa.

Tôi tiếp nhận sự trao truyền những lời dạy về Đại Luận này từ Trijang Rinpoche và Ling Rinpoche, những vị giáo thọ của tôi. Trijang Rinpoche đã tiếp nhận giáo huấn này từ thầy của ngài là Pabongka Rinpoche. Ling Rinpoche cũng ở trong dòng truyền thừa của Pabongka, nhưng thêm nữa, khi còn rất trẻ, ngài cũng từng được sự trao truyền của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

 ling


Đức Phật

Đại Luận (1:33) mở đầu với sự kính lễ Mạn Thù Thất Lợi[3] bằng Phạn ngữ (Sanskit). Điều này cho thấy truyền thống Tây Tạngtruyền thống Phạn ngữ. Phạn ngữ đã trở thành phương tiện ưu thế mà qua đấy giáo huấn Phật Đà hiện diện trong truyền thống Na Lan Đà. Tập quán này cho thấy kiến thức giáo huấn phát xuất từ những nguồn gốc Ấn Độ bằng việc sắp đặt một sự kính lễ bằng Phạn ngữ vào chỗ mở đầu của những luận điển Tây Tạng.

Rồi thì, trong Tạng ngữ, luận điển khởi đầu với sự kính lễ Đức Phật. Ở đây, Tông Khách Ba đã đảnh lễ Đức Phật bằng việc phản chiếu trên những phẩm chất thân, miệng, và tâm ý của Đức Phật. Trong dòng đầu tiên, ngài phản chiếu những phẩm chất của thân Phật,chỉ ra rằng thân thể vật lý của Đức Phật có được như một kết quả của những nguyên nhân. Đây là một ý tưởng quan trọng, ngay đây. Hóa thân của Đức Phật trong hình sắc là kết quả từ những nguyên nhân đặc thù và Tông Khách Ba đã đồng nhất hóa những nguyên nhân này như những phẩm chất tốt đẹp - qua đó ngài muốn nói đến những hành vi đạo đức. Ngay cả việc đạt đến Quả Phật cũng là kết quả của việc gì đấy; nó sinh khởi từ những nguyên nhân và những điều kiện (nhân duyên). Quả Phật không phải sinh ra bất chợt không từ nơi nào, nó cũng không phải là một thể trạng thường hằng vĩnh cữu sẳn có. Trong một ý nghĩa nào đó, Tông Khách Ba đang lập lại lời của Trần Na thể hiện trong mở đầu của kệ tụng Nhận Thức Luận (Compendium of valid Cognition), ở đấy, trong việc nhận dạng Đức Phật như một nhân vật xác thực, ngài nói rằng Đức Phật đã trở thành một con người như vậy[4]. Bình luận về điều này Pháp Xứng nói rằng nhằm để phủ nhận ý kiếnĐức Phậtsẳn có, Trần Na cố ý sử dụng thuật ngữ "trở thành" (become)[5]. Đức Phật qua một số tiến trình, đã trở thành một con người xác thực đáng tin cậy.

Tông Khách Ba nói về thân Phật như được phát sinh từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân. Những nguyên nhân này được liệt kê trong những tài liệu khác nhau, đặc biệt trong nghiên cứu của truyền thống Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật) nhưng chúng cũng được đề cập rõ ràng trong Tràng Hoa Quý Báu[6] (Bảo Hành Vương Chính Luận) của Long Thọ. Tông Khách Ba nhấn mạnh rằng ngay cả Đức Phật là bậc chúng ta tôn kính, Đấng Thế Tôn, trước đấy cũng là một người bình thường trên con đường trở thành một Đức Phật. Đã có một thời, Đức Phật cũng như chúng ta. Bằng việc tích tập tất cả những nhân duyên liên hệ, ngài đã tiến hóa thành một bậc Giác Ngộ hoàn toàn.

Để thông hiểu trọn vẹn ý nghĩa trọng đại của dòng đầu tiên này - rằng thân Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời - chúng ta phải thấu hiểu những mối quan hệ giữa Bốn Chân Lý Cao Quý[7].Và nhằm để thông hiểu một cách hoàn toàn sự trình bày Bốn Chân Lý Cao Quý, quý vị phải phát triển một sự thấu hiểu giáo huấn về hai chân lý (nhị đế), chân lý tương đối (thế đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế)[8]. Đặc biệt, thật quan trọng đối với quý vị để thấu hiểu vấn đề hai chân lý có cùng bản chất tự nhiên nhưng đặc tính khác nhau. Chúng tôi sẽ giải thích nhiều hơn khi chúng ta thảo luận về những sự thực tậpliên quan đến hành giảnăng lực vừa, bậc trung[9]. Ẩn chứa trong dòng này về vấn đề những phẩm chất của Đức Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời là nguyên tắc quan trọng của duyên sinh trong dạng thức của nhân và quả.

Tông Khách Ba viết rằng lời nói của Đức Phật đáp ứng những hy vọng và ngưỡng vọng của vô số chúng sanh, vô tận hàm linh. "Những hy vọng" của vô số chúng sanh muốn nói đến lợi ích của chúng sanh. Lợi ích của chúng sanh bao gồm những lợi lạc tức thời và tạm thời cũng như những lợi ích tuyệt đối lâu dài. Để có thể hoàn thành lợi ích của chúng sanh trong bất cứ ý nghĩa nào, Đức Phật cần một sự thông hiểu sâu xa về những nhu cầu này là gì và vấn đề gặp gở chúng sanh một cách hiệu quả nhất như thế nào. Vì vậy, phẩm chất Giác Ngộ về lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó để đáp ứng những nguyện vọng của chúng sanh.

Trong một số kinh luận chúng ta thấy việc nhắc đến những phẩm chất của Đức Phật trong dạng thức bản chất lạ thường của những phẩm chất ấy; có những phẩm chất diệu kỳ kết hợp với thân thể, lời nói và tâm ý của Đức Phật. Nhiều kinh luận nhận diện những phẩm chất diệu kỳ của thân thể vật lý Đức Phật, phẩm chất diệu kỳ của tâm ý Đức Phật là nó có thể nhận ra tất cả mọi sự kiện. Lời nói của Đức Phật là diệu kỳ trong việc cung ứng những hướng dẫn giúp ích tất cả chúng sanh. Trong ba thứ này, những phẩm chất của Đức Phật về lời nói luôn luôn được xem là quan trọng nhất.

Trong tác phẩm Ca Ngợi Đức Phật Vì Đã Dạy Lý Duyên Sanh, Tông Khách Ba viết - Bạch Đức Thế Tôn - trong tất cả những hành vi Giác Ngộ của Ngài, điều quan trọng nhất là lời nói của Ngài và đấy, trong ấy, lời dạy về giáo lý duyên sanh là quan trọng nhất[10]. Cũng thế, trong những tác phẩm của Long Thọ, những lời mở đầu kính lễ đến Đức Phật thường liên hệ một cách đặc biệt ca tụng việc Đức Phật đã dạy lý duyên sanh[11].

Chúng ta chú ý rằng Tông Khách Ba đã chứng minh những phẩm chất của thân Phật một cách chính yếu từ quan điểm những nguyên nhân của nó. Rồi thì khi nhận diện những phẩm chất lời nói của Đức Phật, thì ngài làm việc này chủ yếu trong dạng thức những kết quả của nó. Và khi nhận dạng những phẩm chất tâm ý của Đức Phật, ngài đã chứng minh phẩm chất Giác Ngộ của tâm ý Đức Phật khi năng lực của nó được thâm nhập trọn vẹn trong việc thân chứng chân lý tuyệt đối trong khi cùng lúc cũng nhận thức tức thời thế giới đa dạng (của chân lý tương đối). Tâm Giác Ngộ này của Đức Phật là minh chứng thật sự của Quả Phật. Cho nên ngài đã ca tụng tâm Phật từ quan điểm tồn tại tính bản nhiên của Quả Phật.

Sau khi đảnh lễ Đức Phật như vị hiền nhân vĩ đại của dòng Thích Ca, trong những dòng kệ tiếp theo Tông Khách Ba đã kính lễ Mạn Thù Thất LợiDi Lặc[12] và rồi thì đến Long ThọVô Trước, hai bậc khai phá tiên phong của Đại Thừa Phật Giáo. Sau đó ngài cũng kĩnh lễ đến Atisa Dipamkara, trong ý nghĩa ngài là vị khai sáng dòng truyền thừa giáo huấn Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, cũng như những đại đạo sư thủ hộ của dòng này.

 

Sự Thực Hành Hợp Nhất

Tông Khách Ba (1:33) sau đó giải thích động cơ chính yếu của ngài cho việc sáng tác Đại Luận. Điều này vô cùng quan trọng. Ngài nói rằng ngài đã thấy nhiều người tận hiến sâu xa cho việc thiền tập, nhưng đang thiếu kém trong việc học hỏi. Do bởi sự khiếm khuyết này, họ chỉ tập trung trên chỉ một hay hai khía cạnh của một sự thực tập đặc thù. Chỉ với một sự hiểu biết tối thiểu đối với toàn bộ con đường tu tập của Đạo Phật, thế nên họ không thể thực hành trong một thể hợp nhất tất cả những yếu tố then chốt của giáo huấn thiết yếu.

Những ai được học hỏi đôi khi có thể rất giỏi giang trong việc bổ sung hợp nhất các giáo huấn vào trong sự thực tập cá nhân của họ. Nhưng trong những trường hợp khác, những người đã học hỏi chuyên sâu trong những truyền thống luận điển Phật Giáo lại dường như không có nhiều kinh nghiệm thật sự. Họ có thể có rất ít lợi lạc từ tất cả những việc học hỏi giáo pháp của họ. Ngày nay, chúng ta thấy các trường hợp khi mà việc học hỏi nghiên cứu dường như phục vụ xa hơn cho việc củng cố bản ngã của các học giả, tạo ra tính tự phụ, ganh tỵ, và những rắc rối khác. Ngay cả khi những phẩm chất tiêu cực này không hiện hữu, một số vị thầy thế nào đó dường như lạc lối khi đi đến việc áp dụng những gì họ biết vào trong việc thực tập. Đối diện với những không gian mênh mang của giáo lý, sự tiếp cận của họ bị phân tán. Những học giả như vậy thế nào đấy không thể kết hợp các giáo huấn với nhau trong một cấu trúc hợp nhất hữu dụng cho việc thực tập thật sự.

Xa hơn nữa, Tông Khách Ba nói rằng nhiều cá nhân biểu hiện tính cục bộ trong sự nghiên cứu và trong thực hành của họ. Thí dụ, ở Tây Tạng, khi người nào đấy ngẫu nhiên ham thích trong con đường thực hành của Kinh thừa hiển giáo, thế thì họ có khuynh hướng phớt lờ những giáo huấn Mật tông Kim Cương thừa[13]. Nếu ai đấy là một hành giả Kim Cương thừa, rồi thì họ có khuynh hướng lãng quên giáo huấn Kinh thừa Hiển giáo. Nếu ai đấy nhiệt tình với nghiên cứu tri thức luận thì họ có thể chỉ chuyên môn về thứ ấy. Đối với những người khác, có thể là A Tỳ Đạt Ma hay giới luật.

Cho nên có những hành giả thiền tập không được học hỏi, những học giả nghiên cứu rộng rãi nhưng không thể áp dụng sự học tập để thực hành, và cũng có nhiều người khác phiến diện nhiều cách trong việc học hỏithực tập của họ. Tông Khách Ba nói rằng tất cả ba hạng hành giả trên không thể thực tập giáo pháp trong một cách làm vui lòng những bậc trí tuệ. Ngài muốn nói rằng không ai trong ba loại trên có thể thực tập trên căn bản của một sự tiếp cận hợp nhất toàn diện tất cả những yếu tố cốt lõi của con đường Phật Giáo.

Những gì Atisa cho chúng ta trong Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ chỉ là một cách hợp nhất những yếu tố chìa khóa của giáo pháp như vậy cho một hành giả, một người ngồi trên tọa cụ. Cho nên Tông Khách Ba nói rằng lòng ngài vô cùng hoan hỉ trong việc viết ra một sự giải thích rộng rãi Ngọn Đèn của Atisa bởi vì nó cống hiến một cung cách thực tập sẽ làm vui lòng những bậc đại trí. Nó đem đến tất cả những yếu tố thiết yếu của giáo huấn vào trong một cơ cấu mà trong ấy hành giả có thể thực hành tất cả trong những giai tầng (tu tập).

Sự hợp nhất này rất giống với những gì mà Thánh Thiên trình bày trong 400 Kệ Tụng Trung Đạo, ở đấy chúng ta cũng có một chuỗi các giai tầng. Ở trình độ thứ nhất, quý vị phải tránh những hành vi phi đạo đức, quý vị phải chấm dứt việc chấp trước vào tất cả các quan điểm. Người nào thật sự thông hiểu sự tiếp cận này thì thật sự thông tuệ[14].

 

Lắng Nghe Tốt

Trong kệ chào đón sau cùng, Tông Khách Ba (1:34) kêu gọi độc giả, những người có thể lợi lạc từ sự tiếp cận này, yêu cầu họ lắng nghe tốt. Những độc giả như vậy sẽ là những người với tâm thức không bị những suy tư thành kiến che mờ, năng lực tinh thần để phân biệt đúng với sai, và quan tâm trong việc tìm ra ý nghĩa thật sự trong thuận lợi và cơ hội của đời sống con người của họ. Ngài yêu cầu những ai trong chúng ta với may mắn như vậy, "Hãy vui lòng lắng nghe đến những gì tôi nói với sự nhất tâm."

Xét cho cùng, điều này tương tự ấn tượng với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên, trong ấy nói rằng một hành giả của giáo pháp, người lắng nghe giáo huấn cần ba phẩm chất: khách quan, thông minh quả quyết, và một sự quan tâm thật sự đến những gì được giảng dạy[15].

 

Atisa Và Những Giai Tầng Của Truyền Thống Con Đường (Tiệm Tiến)

Tông Khách Ba (1:35:43) sau đó giải thích tính vĩ đại của tác giả mà ngài muốn nói đến là đạo sư Ấn Độ Atisa. Giáo huấn của Atisa xuất phát từ hai dòng truyền thừa chính. Một bắt nguồn từ Long Thọ và gắn liền một cách chính yếu từ giáo huấn của Đức Phật trên quan điểm triết lý về tánh không, nhấn mạnh duyên sinh và mối liên hệ của nó với chân lý tuyệt đối. Thứ đến là dòng truyền thừa Di Lặc, truyền qua Vô Trước đến những đạo sư kế thừa. Ở đây tập trung chủ yếu khía cạnh phương pháp của con đường Đại Thừa, một cách đặc biệt những thực tập liên hệ đến việc trau dồi lòng từ ái, bi mẫn, và tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề (bodhicitta). Hai dòng truyền thừa này thật sự hội tụ trong Atisa.

Tây Tạng, giáo huấn của Atisa phát triển thành ba dòng chính. Một là dòng "Kadam đại điển" của Potowa[16], thấu hiểu những hướng dẫn của Atisa trên căn bản của việc học tập và thực hành sáu tài liệu chính của Ấn Độ. Hai trong số ấy là Những Câu Chuyện Tiền Thân (Jataka Tales), chuyện những kiếp sống quá khứ của Đức Phật, và Sưu Tập Cách Ngôn[17]. Hai bộ sách này được xem như căn bản cho việc trau dồi và làm nổi bật sự hy hiến của hành giả đến Đức Phật. Sau đó Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh của Di Lặc được xem như chính yếu trong dạng thức của những giáo huấn về những thể trạng thiền tập; chúng đối diện một cách rộng rãi với những trình độ đa dạng và những con đường trong sự thực tập Đại Thừa[18]. Và hai tài liệu sau là Toát Yếu Những Kiến Thức Truyền TraoHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Shantideva, trình bày một cách chính yếu những sự thực tập Bồ tát đạo.

Dòng truyền thừa thứ hai - dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" - tiến triển trong những đệ tử của Atisa đặt căn bản của sự thực tập trên những tài liệu trình bày những giai tầng của con đường tiệm tiến (Lamrim) hay những giai tầng của giáo huấn (denrim). Và cũng có sự tiến triển thành dòng truyền thừa thứ ba, "Kamdam, Những Hướng Dẫn Cá Nhân", nhấn mạnh những tài liệu hướng dẫn cá nhân ngắn gọn thiết lập cho những hoàn cảnh đặc thù.

Khi quý vị tiếp cận những giai tầng của giáo huấn con đường tiệm tiến, kể cả Đại Luận của Tông Khách Ba, quý vị có thể thấy tất cả ba dòng truyền thừa này. Tông Khách Ba tiếp nhận giáo huấn của cả ba. Hơn thế nữa, nếu quý vị nhìn vào Đại Luận, hầu hết những tài liệu gốc của nó thật sự ở trong văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện. Trong thực tế, đệ tử của Tông Khách Ba là Gyeltsap đã viết một quyển sách về văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện mà trong ấy đôi khi ông trích dẫn Đại Luận, vì thế cho thấy sự liên hệ gần gũi của ông [19].

Quý vị chính yếu đang đi theo sự tiếp cận của dòng truyền thừa "Đại Điển Lamrim" nếu quý vị học tập Đại Luận trên căn bản của bảy tài liệu phụ của Tông Khách Ba: Đại Dương Lý Trí, Tư Tưởng Sáng Tỏ, Căn Bản Hùng Biện, bộ phận tuệ giác của Đại Luận, Tiểu Luận,Tràng Hoa Vàng Hùng Biện,Giảng Luận Trang Nghiêm Tâm của Gyelstap. Hay quý vị có thể thay vì theo dõi dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" thì tập trung chính yếu trong Đại Luận và Tiểu Luận của Tông Khách Ba. Tuy thế, Tông Khách Ba đã nói rằng, vì hiếm có người nào biết áp dụng vào thực hành tất cả những sự giải thích, vì thế nên làm ra những tập toát yếu. Do vậy những môn đồ của ngài đã sáng tác nhiều luận điển hướng dẫn trên những giai tầng của con đường tiệm tiến, cả tóm tắtchi tiết. Có sáu luận điển ngắn trong sưu tập nổi tiếng của tám hướng dẫn lớn đối với những giai tầng của con đường tiệm tiến, nhưng cũng có nhiều tài liệu khác loại này[20]. Nếu sự tiếp cận của quý vị theo những luận điển này, thế thì quý vị đang đi theo dòng truyền thừa "những sự hướng dẫn cá nhân của con đường tiệm tiến lamrim". Cho nên trong phạm vi nghiên cứuthực hành những giai tầng của con đường tiệm tiến, thì quý vị có thể đi theo ba dòng truyền thừa khác nhau, xuất phát từ những môn đồ của Atisa.

 

Atisa Và Bốn Tông Phái Phật Giáo Tây Tạng

Tiếp theo Atisa đến Tây Tạngsáng tác Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ, mỗi một tông phái trong bốn tông phái chính của Phật Giáo Tây Tạng tiếp nhận mô thức và cấu trúc của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến. Thí dụ trong truyền thống Nyingma, tác phẩm Tâm Thanh Thản của Longchenpa trình bày con đường trong một cách theo cấu trúc căn bản của Atisa[21]. Cùng giống như thế đối với Sakya Pandita và tác phẩm Làm Sáng Tỏ Mục Đích của Đức Phật, có thể được xem như một sự hợp nhất của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến (lamrim) và giáo huấn rèn luyện tâm (lojong). Tương tự thế trong truyền thống Kagyu, Gampopa và tác phẩm Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát trình bày cấu trúc căn bản của con đường tu tập trong một mô thức giống như dàn bài của Atisa[22]. Đôi khi thứ lớp những lộ trình hơi khác nhau được thể hiện, nhưng một cách căn bản trong tất cả những truyền thống này về những giai tầng của con đường tiệm tiến là rất giống nhau. Thí dụ, Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát nói về vấn đề tâm thức hành giả xa tránh bốn điều. Nếu quý vị nhìn vào bốn điều xa tránh này của tâm thức, chúng lập lại giáo huấn trong những giai tầng của truyền thống con đường tiệm tiến.

 

Hai Nguyện Vọng

Trong một ý nghĩa, giáo huấn của Atisa xuất phát từ một điểm mà Long Thọ đã thực hiện trong Tràng Hoa Quý Báu của ngài[23], Long Thọ giải thích rằng nếu quý vị thẩm tra tất cả giáo huấn của Đức Phật, thì có thể được phân loại thành hai loại nguyện vọng: (1) nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn trong một thế giới cao hơn và (2) nguyện vọng đạt đến sự giải thoát cứu kính hay, như Long Thọ gọi nó là "từ ái minh bạch". Tất cả những giáo huấn của Đức Phật, trong cách này hay cách khác, liên hệ đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

Chúng ta làm thế nào để hoàn thành nguyện vọng đạt được sự tái sinh tốt đẹp hơn? Điều này được hoàn tất qua việc tiếp thu một cung cách sống không gây tổn hại, bất bạo động. Trái tim của sự thực hành ấy là sống một đời sống trên căn bản của niềm tinquả quyết trong luật nhân quả. Cho nên nó đòi hỏi sự trau dồi niềm tin rằng duyên sinh hoạt động theo chiều hướng mà các hành vi của chúng ta có những tác động của nghiệp báo. Sống một đời sống phù hợp với niềm tin ấy là phương pháp chính mà qua đó hành giả tìm cầu để hoàn tất nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn.

Nguyện vọng kia là tìm cầu sự giải thoát tối hậu hay Giác Ngộ, và ở đây phương pháp chính là trau dồi một sự thấu hiểu về tính bản nhiên cứu kính của thực tại. Chúng ta hiểu tính bản nhiên cứu kính của thực tại một cách chính yếu qua lời dạy của Đức Phật rằng duyên sinh bao hàm tính không. Hành giả cần trau dồi tuệ trí. Vì vậy, những nhân tố chìa khóa mà hành giả cần trau dồi trong sự thực hành Đạo Phật - niềm tin trong nghiệp quảtuệ trí thông hiểu tính không - cả hai xuất phát từ sự thông hiểuduyên sinh.

Đạt đến sự giải thoát có thể ở trong hai hình thức. Một là sự giải thoát cá nhân, giải thoát khỏi sự tồn tại bất giác. Nhưng cũng có việc đạt đến Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Trước đây chúng ta đã thấy rằng phẩm chất chính của lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó đáp ứng nguyện vọng của tất cả chúng sinh. Đây là khuynh hướng của hành giả Đại Thừa, một người được động viên để đem đến lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lợi ích của tất cả chúng sinhmục tiêuhành giả Đại Thừa tìm cầu để đạt đến Quả Phật. Bởi vì động cơ ấy, hành giả cần hoàn tất con đường tuệ trí với tâm bồ đề - bodhicitta, tâm linh của Giác Ngộ. Hai thứ này với nhau sẽ cho phép hành giả đi đến sự thực chứng nguyện vọng sau cùng.

Trong sáu tác phẩm mà môn nhân của Atisa sử dụng để thực tập Những Giai Tầng Của Con Đường Tiệm Tiến trong dòng truyền thừa đại điển của Potowa, Những Câu Chuyện Tiền Thân Sưu Tập Cách Ngôn một cách chính yếuliên quan đến niềm tin trong nghiệp quả. Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận của Di Lặc có thể được thấu hiểu như liên hệ đến động cơ bi mẫn của hành giả Đại Thừa, và Toát Yếu Kiến ThứcHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Tịch Thiên có thể được thấu hiểu như liên quan với quan điểm tính không. Tôi thấy nhận thức này trong sáu luận điển là lợi lạc nhất.

 

Không Có Mâu Thuẩn Trong Giáo Huấn Của Đức Phật

Những gì chúng ta đã thảo luận cho đến bây giờ đã cho chúng ta một ý thức về sự sâu rộng của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến bằng việc nêu bật tính xác thật về căn nguyên và nguồn gốc của nó. Một cách khác để gây niềm tin trong giáo huấngiải thích về tính rộng lớn của chính nó. Một trong những lý dogiáo huấn của Atisa là to lớn là vì nó cho phép hành giả nhận ra rằng không có sự mâu thuẩn trong tất cả giáo huấn của Đức Phật (1:46.49).

Lời nói của Đức Phật có khả năng đáp ứng những nguyện vọng khác nhau của vô lượng chúng sanh. Vì thế, những chúng sanh được cứu giúp bằng lời nói của Đức Phật không chỉ là vô hạn trong số lượng. Chúng sanh cũng vô lượng trong sự đa dạng theo thiên hướng tinh thần như những cá thể. Để điều tiết thích nghi sự đa dạng của thiên hướng tinh thầntrình độ tinh thần trong thính chúng của ngài, Đức Phật đã ban bố nhiều giáo huấn khác biệt nhau. Tùy thuộc vào trình độ nguyện vọng, mỗi người có thể phân biệt những thứ nào là Đại Thừa từ những Thừa Nền Tảng. Cũng thế, chúng ta có thể phân biệt bốn trường phái Phật Giáo cổ điểnẤn Độ[24] tùy thuộc vào trình độ thấu hiểu giáo huấn tuệ trí. Nếu quý vị chỉ đơn thuần nhìn vào những giáo huấn khác biệt như những kinh luận cá biệt, thế thì trên bề mặt chúng dường như mâu thuẩn với nhau. Tuy nhiên, giáo huấn những giai tầng tiệm tiến của Atisa cho phép chúng ta thấu hiểu sự khác biệt này không chỉ như một sự điều tiết thích nghi đến những cá thể khác nhau, mà cũng hữu dụng đối với từng hành giả riêng biệt khi người ấy tiến triển đến những trình độ khác nhau của thực chứng.

Thí dụ, trong những giáo huấn về tuệ trí có những trình độ vi tế khác nhau trong việc giải thích về vô ngã. Nếu chúng ta liên hệ những giáo huấn này với thể trạng tinh thần của chính chúng ta, như chúng ta nhận thức thế giới như thế nào, rồi thì chúng ta có thể thấy rằng mỗi thứ trong chúng có thể tác động một cách cao độ trong những hoàn cảnh đặc thù. Khi chúng ta quán chiếu tâm thức chúng taxem xét vấn đề chúng ta tưởng tượng tính chất của chính chúng ta như thế nào, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta thường thấy chính chúng ta như sở hữu một loại thực tại nào đó nhất thể, vĩnh cửu, và tự trị - điều gì đấy bên trong mà chúng ta gọi là "tự ngã" hay "linh hồn". Chúng ta bám víu, chấp chặc vào thứ này. Giáo huấn của Đức Phật phủ nhận một tự ngã như vậy rồi thì lập tức giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy một cách thích hợp.

Giống như thế, khi chúng ta thẩm tra vấn đề chúng ta liên hệ đến thế giới bên ngoài như thế nào, thì chúng ta nhận ra rằng chúng ta hành động như thể là thế giới vật lý bên ngoài kia có một loại thực thể nào đấy của tự nó. Dường như nó sở hữu một thực thể riêng biệt hoàn toàn độc lập với nhận thức của chúng ta. Trong trường hợp này, giáo lý Duy Thức - phủ nhận một thế giới khách quan bên ngoài - giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy.

Do vậy, nhiều giáo lý dường như mâu thuẩn trên bề mặt nhưng hợp lý trong mối quan hệ đến nhu cầu của một hành giả đang tiến hành trong việc thực chứngđối phó với một loạt những vọng tưởng tinh thần khác nhau. Giáo huấn của Atisa về những giai tầng của con đương tiệm tiến chỉ chúng ta rằng tất cả những giáo lý của Đức Phật là hữu dụng đến từng cá thể một, mà không có một sự mâu thuẩn nào.

 

Tiếp Nhận Tất Cả Những Giáo Huấn Như Những Sự Hướng Dẫn Cá Nhân

Tông Khách Ba (1:50-53) giải thích rằng lợi ích khác nữa của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu tất cả những giáo huấn của Đức Phật như những sự hướng dẫn cá nhân. Một số người có nhận thức rằng trong giáo lý Đạo Phật có hai loại căn bản khác nhau: (1) một loại thuộc triết học kinh viện thật sự chỉ liên hệ cho việc mở rộng tri thức của chúng ta và (2) những giáo lý khác thì liên hệ với sự thực hành cá nhân. Tông Khách Ba xem sự phân đôi này là sai lầmvô ích.

Nếu chúng ta chấp nhận sự tiếp cận của Atisa, thế thì chúng ta thấy rằng tất cả những giáo huấn của nhà Phật liên hệ trực tiếp đến sự thực hành cá nhân của chúng ta. Tất cả chúng là sự hướng dẫn cá nhân bởi vì không có điều gì trong giáo lý của Đức Phật là không liên hệ, trong cách này hay cách khác, để rèn luyệnthuần hóa tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Khuynh Hướng Cứu Kính Của Giáo Lý Đạo Phật

Một lợi ích khác của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu khuynh hướng cứu kính của giáo lý nhà Phật (1:53). Khuynh hướng cứu kính của giáo huấn là cho chúng ta phương tiện để hoàn thành nguyện vọng của chúng ta để đạt đến sự tái sinh may mắn và để đạt được sự giải thoát cuối cùng. Giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến cho phép chúng ta thấy tất cả những giáo lý của Đức Phật đều góp phần, cách này hay cách khác, đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

 

Tránh Sai Lầm Trong Việc Phủ Nhận Giáo Lý Đạo Phật

Tông Khách Ba (1:53-54) đã khám phá ra tính rộng lớn cuối cùng của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến như sự ngăn ngừa sai lầm nghiêm trọng của việc phủ nhận giáo huấn của Đức Phật, phủ nhận giáo pháp. Ở đây Tông Khách Ba trích dẫn nhiều kinh luận, kể cả những Kinh Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật), nơi Đức Phật nói rằng một hành giả phải học hỏi, thấu hiểu, và thật sự thực hành tất cả mọi khía cạnh của con đường tu tập. Nếu chúng ta thật sự khao khát giúp đở hàng tỉ chúng sanh với những xu hướng tinh thần khác nhau, thế thì chúng ta phải thông hiểuthực tập nhiều giáo huấn và những sự tiếp cận khác nhau. Đây là những gì chúng ta chuẩn bị .

Về phương diện lịch sử, có một truyền thống trong những đạo sư Tây Tạnghọc hỏi cũng như thực tập tất cả mọi dòng truyền thừa - Sakya, Kagyu, Geluk, Nyingma - cũng như Jonang[25]. Đây là một kiểu mẫu tuyệt vời. Chúng ta nên tiếp nhận một sự tiếp cận không phân phái, không chỉ học hỏi tất cả mọi dòng truyền thừa nhưng cũng đem những giáo lý này vào thực tập.

 

Câu Hỏi Về Shugden

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, tôi cảm thấy bối rối khi thấy và nghe những môn hạ Shugden phản đối bên ngoài tòa nhà đây[26]. Tôi phải hiểu vấn đề này như thế nào? Xin hãy trình bày về vấn đề này, khi nhiều người đã hiểu sai sự việc.

ĐÁP: Chúng tôi đã có rắc rối này trong 370 năm. Nó đã bắt đầu từ thời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Và từ năm 1951 cho đến những thập niên 1970, chính tôi cũng là người thờ phụng linh thức này. Tôi đã là một trong những hành giả ấy!

Một trong những lý do mà tôi đã từ chối việc thờ phụng Shugden vì rằng nổ lực tối đa của tôi trực tiếp hướng đến việc thúc đẩy không phân phái - một cách đặc biệt trong Phật Giáo Tây Tạng. Tôi luôn luôn thúc đẩy mọi người tiếp nhận giáo huấn từ những đạo sư của các truyền thống khác nhau. Điều này giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, và nhiều đại lạt ma khác, những vị đã tiếp nhận các giáo huấn trong nhiều truyền thống. Vì từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, đến hôm nay, tôi đã từng thực tập điều này.

Một đạo sư Nyingma, Kunu Lama Rinpoche, khởi đầu đã dạy tôi những luận điển của Tịch Thiên. Vị lạt ma này không có tính bè phái, đã tiếp nhận vô số giáo huấn từ những truyền thống khác nhau. Say đấy, tôi muốn tiếp nhận từ vị đại lạt ma này một giáo lý nào đó khác, với truyền thống Nyingma. Tôi đã hỏi vị giáo thọ của tôi, Ling Rinpoche, cho biết rằng tôi đã tiếp nhận một số giáo lý từ vị lạt ma này, nhưng bây giờ tôi muốn tiếp nhận những giáo huấn trong một luận điển mật tông tantra của Nyingma.

Ling Rinpoche hơi thận trọng về điều này bởi vì Shugden. Ngài không bao giờ thờ phụng linh thức, nhưng ngài cẩn trọng về việc ấy. (Vị giáo thọ khác của tôi, Trijang Rinpoche, rất thân cận với sự thực hành tâm linh này). Lời đồn đại quanh quẩn điều này rằng nếu một lạt ma Geluk tiếp nhận giáo huấn từ truyền thống Nyingma thì Shugden sẽ tiêu diệt người ấy. Ling Rinpoche hơi e ngại cho tôi và ngài thật sự cảnh báo tôi phải cẩn thận. Những người thờ phụng Shugden có một tập quán rằng hành giả phải cực kỳ nghiêm khắc về chính truyền thống Geluk đặc biệt của vị ấy.

Thật sự, tôi nghĩ đây là quan điểm tước đi sự tự do tôn giáo của người khác, ngăn cản họ tiếp nhận những giáo lý khác. Trong thực hành, làm nản lòng quan điểm cướp đi sự tự do lựa chọn thật sự là việc quả quyết tự do tôn giáo. Hai lần phủ định là khẳng định.

Khoảng năm 1970, tôi đã đọc những câu chuyện về cuộc đời của những đại lạt ma, chính yếu từ tông Geluk (Hoàng Mạo Phái). Tôi đã có một ý tưởng rằng nếu Shugden là đáng tin cậy, thế thì hầu hết những đại giáo thọ của các Đạt Lai Lạt Ma phải tiến hành việc thờ phụng Shugden. Hóa ra không phải như thế. Do vậy, tôi đã gia tăng nghi ngờ và càng thẩm tra hơn, chuyện đã trở thành rõ ràng.

Thí dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã giải thích rõ ràng vị thế của ngài đối diện với việc thờ phụng linh thức này[27]. Ngài đã giải thích đấy là gì và ngài giải thích những nhân duyên đã làm sinh khởi việc ấy. Ngài đã diễn tả những chức năng tàn phá của linh thức đặc thù ấy. Ngài nói rằng nó đã phát sinh từ động cơ lầm lạc và rằng như một linh thức nó biểu hiện như một kẻ phá hoại lời cam kết. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, chức năng của nó là tổn hại cả giáo thuyết nhà Phật lẫn chúng sanh.

Một khi nhận ra những điều này, trách nhiệm đạo đức của tôi là làm rõ ràng những sự kiện này cho dù quý vị có lắng nghe tôi một cách toàn diện hay không. Từ đầu, tôi đã nói với cả người Tây Tạng và một số người bạn của tôi những gì tôi đã thấu hiểu. Họ tự do để lắng nghe lời khuyên của tôi hay không. Nó như một quyền cá nhân để chấp nhận tôn giáo hay không chấp nhận tôn giáo. Việc chấp nhận tôn giáo này hay tôn giáo nọ hoàn toàn tùy thuộccá nhân.

Sự lựa chọn của tôi là việc thờ phụng Shugden thật sự không phải là việc thực hành Phật Pháp chân chính; nó chỉ đơn thuầnthờ phụng một linh thức phàm tục. Đây là một khía cạnh khác của vấn nạn: theo những gì tôi đã dạy, tôi nghĩ quý vị có thể thấy rằng Phật Giáo Tây Tạng là một sự tương tục truyền thừa thuần khiết của truyền thống Na Lan Đà, là việc dựa vào lý trí chứ không phải niềm tin mù quáng. Thế nên thật đáng buồn rằng những sự thực tập nào đó của Tây Tạng có thể làm cho truyền thống thậm thâmphong phú này trở thành một loại thờ phụng linh thức.

Cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã nghiêm khắc phê phán đối với linh thức này. Vì tôi được xem là tái sinh của các Đức Đạt Lai Lạt Ma thế nên lối sống của tôi phải đi theo các ngài là hợp lý. Người ta có thể nói là nó chứng minh rằng tôi thật sự là một vị tái sinh!

Dường như những người ở ngoài kia (đang biểu tình phản đối) thật sự quá đổi vui thích với việc thờ phụng linh thức này. Tốt thôi, đấy là lối sống của họ; tôi không có gì rắc rối nếu đấy là những gì họ muốn làm. Khi tôi giảng dạy ở Đức Quốc, một số môn hạ Shugden la lối tối thiểu ba đến bốn tiếng đồng hồ. Cuối cùng tôi đã cảm thấy vô cùng quan tâm về vấn đề cổ họng của họ sẽ bị ảnh hưởng do la lối quá nhiều.

 Trích từ quyển "From Here to Enlightenment"

 Ẩn Tâm Lộ ngày 3/6/2014



[1] Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố, không có thắc mắc gì Tông Khách Batác giả của Đại Luận nhưng ngài cho rằng tác phẩm này lả giảng giải rộng của quyển ngọn đèn cho con đường Giác Ngộ của Atisa, nên Atisa cũng là tác giả của Đại Luận.

[2] Atisa cũng như Tông Khách Ba phân chia hành giả thành ba năng lực: nhỏ, vừa và lớn. Những hành giả thuộc nhóm nhỏ tu với mục đích có được một sự tái sanh tốt đẹp trong tương lai; nhóm vừa, tìm sự giải thoát khỏi luân hồi cho chính họ; nhóm lớn, là những người tìm cầu Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

[3] Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi là một vị Bồ táthóa thân tuệ trí của chư Phật

[4] Xem Geshe Wangyal's translation trong The Jewelled Staircase

[5] P 5709

[6] Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích liên hệ đoạn 212: "Một hóa thân sắc tướng của Đức Phật sinh khởi từ việc tích tập của công đức; hóa thân của sự thật, Này đức Vua từ sự tích tập của tuệ trí."

[7] Bốn Chân Lý Cao Quý bao gồm sự thật về khổ đau, sự thật về nguyên nhân khổ đau, sự thật về việc chấm dứt khổ đau, và sự thật về con đường đi đến chấm dứt khổ đau.

[8] Chân lý tuyệt đối là tính tự nhiên tuyệt đối của mọi sự vật như trống rỗng bản chất tự nhiên bên trong; chân lý quy ước bao gồm tất cả mọi sự vật tồn tại khác.

[9] Chủ đề này được giới thiệu khởi đầu từ chương 5 và chi tiết hơn trong chương 7.

[10] Như có thể thấy trong sự chuyển dịch của Gavin Kilty, Sự Huy Hoàng Của Trăng Mùa Thu (The splendor of an autumn moon)

[11] Như một thí dụ, trong 60 kệ tụng của Long Thọ.

[12] Mạn Thù Thất Lợi thượng thủ của dòng truyền thừa thậm thâm, và Di Lặc thượng thủ của dòng truyền thừa rộng lớn. Điều này có nghĩa các ngài là những vị thầy ưu việt của hành vi tuệ trí và bi mẫn. Di Lặc cũng là một vị Bồ tát sẽ thành Phật kế tiếp trong thế giới chúng ta.

[13] Kim Cương Thừa liên hệ với sự thực tập Mật tông Phật Giáo. Kim Cương Thừa căn cứ và đòi hỏi sự thực tập phổ thông của Đại Thừa phát xuất từ Kinh thừa hiển giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma xem Kim Cương Thừa như một hình thức của Đại Thừa Phật Giáo, với cùng mục tiêu (Giác Ngộ tròn vẹn), và những nguyên tắc (tuệ trí và bi mẫn) nhưng với những kỷ năng nổi bật, đặc biệt với kỷ năng bổn tôn du già (deity yoga) liên hệ đến việc quán tưởng tự thân với niềm tin thật sự như đã là một vị Giác Ngộ tròn vẹn mà hành giả đang tầm cầu trở thành.

[14] Tông Khách Ba đã trích dẫn đoạn này từ 400 Kệ Tụng Trung Đạo của Thánh Thiên của Đại Luận 1:141

[15] Trích dẫn của Tông Khách Ba từ với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên.

[16] Potowa Rinchen-sel (1027-1105) là một trong những đệ tử chính của Dromdonpa (1004-1064) và Dromdonpa là một trong những đệ tử chính và kế thừa Atisa.

[17] Pháp cú Tây Tạng.

[18] Đã được Robert Thurman và những người liên hệ dịch ra tiếng Anh.

[19] Gyeltsap (1362-1432)

[20] 8 luận điển của Tông Khách Ba

[21] Đã từng được Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy

[22] Liên hệ ở đây là (1) tránh bị dính măc với kiếp sống này, (2) tránh không bị dính mắc với kiếp sống tương lai trong cõi luân hồi, (3) tránh không bị dính mắc với niết bàn của cá nhân, và (4) tránh khỏi sự si mê về ý nghĩa đạt đến Quả Phật.

[23] Xem bản dịch của Jeffrey Hopkins

[24] Tỳ Ba Sa Luận Sư, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức Tông, và Trung Quán Tông

[25] Jonang liên hệ đến truyền thống được phổ thông hóa bởi Shayrap Gyaltsen (1292-1361)

[26] Shugden là một bổn tôn gây tranh cải phối hợp với dòng Geluk của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Phật Giáo Tây Tạng. Đức Thánh Thiện đã từ chối sự tôn thờ Shugden trong năm 1975, vì ngài cho rằng việc thờ phụng bổn tôn này đưa đến sự phân phái; ngài không xem Shugden như một vị Giác Ngộ, không giống như sự thừa nhận của những người khác.

[27] Theo tự truyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23039)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14066)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12997)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55124)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9185)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14454)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14172)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14215)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13894)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36331)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19905)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18181)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19229)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19168)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20293)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17646)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31546)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15952)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15027)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46188)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35953)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21055)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21617)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23413)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34397)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19498)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18954)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22946)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20207)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18378)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19848)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19547)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33438)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34509)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54536)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37742)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21144)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17905)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63672)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17404)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49674)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27494)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20295)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23061)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18901)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16340)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17939)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20964)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17378)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14486)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16872)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16391)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16014)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17498)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21991)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15113)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13512)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14379)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15415)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15013)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12718)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13367)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27413)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12532)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13214)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14495)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16248)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12415)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15430)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12875)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12211)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13206)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21674)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11290)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22742)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15092)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14959)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46204)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22478)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14593)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12635)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18918)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14748)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43876)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56988)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13858)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47512)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13669)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14586)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29026)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33331)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38408)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15414)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31248)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12539)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40401)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43436)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46680)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14426)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant