Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

24 Tháng Sáu 201410:12(Xem: 14552)
Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

Giá Trị To Lớn Của Giáo Huấn Này

 

Trao Truyền

Dalai LamaQUYỂN SÁCH NÀY, Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, dĩ nhiên được sáng tác bởi Tổ sư Atisa Dipamkara, một người Bengal đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 11[1]. Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng. Atisa đã sáng tác một luận điển ngắn, Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ hay Bồ Đề Đạo Đăng Luận, với ý định cung cấp một cách bổ sung thành một thể thống nhất những giáo lý đa dạng của Đạo Phật dành cho những hành giả ở mọi trình độ năng lực tinh thần khác nhau[2]. Ngọn Đèn của Atisa đã trở thành tài liệu căn bản cho tất cả mọi giai tầng của con đường Giác Ngộ (lamrim). Trong ý nghĩa ấy, chúng ta có thể xem tác phẩm Đại Luận Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ của Tông Khách Ba như một luận giải mở rộng, hay giải thích, bài luận ngắn của Atisa.

Tôi tiếp nhận sự trao truyền những lời dạy về Đại Luận này từ Trijang Rinpoche và Ling Rinpoche, những vị giáo thọ của tôi. Trijang Rinpoche đã tiếp nhận giáo huấn này từ thầy của ngài là Pabongka Rinpoche. Ling Rinpoche cũng ở trong dòng truyền thừa của Pabongka, nhưng thêm nữa, khi còn rất trẻ, ngài cũng từng được sự trao truyền của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

 ling


Đức Phật

Đại Luận (1:33) mở đầu với sự kính lễ Mạn Thù Thất Lợi[3] bằng Phạn ngữ (Sanskit). Điều này cho thấy truyền thống Tây Tạngtruyền thống Phạn ngữ. Phạn ngữ đã trở thành phương tiện ưu thế mà qua đấy giáo huấn Phật Đà hiện diện trong truyền thống Na Lan Đà. Tập quán này cho thấy kiến thức giáo huấn phát xuất từ những nguồn gốc Ấn Độ bằng việc sắp đặt một sự kính lễ bằng Phạn ngữ vào chỗ mở đầu của những luận điển Tây Tạng.

Rồi thì, trong Tạng ngữ, luận điển khởi đầu với sự kính lễ Đức Phật. Ở đây, Tông Khách Ba đã đảnh lễ Đức Phật bằng việc phản chiếu trên những phẩm chất thân, miệng, và tâm ý của Đức Phật. Trong dòng đầu tiên, ngài phản chiếu những phẩm chất của thân Phật,chỉ ra rằng thân thể vật lý của Đức Phật có được như một kết quả của những nguyên nhân. Đây là một ý tưởng quan trọng, ngay đây. Hóa thân của Đức Phật trong hình sắc là kết quả từ những nguyên nhân đặc thù và Tông Khách Ba đã đồng nhất hóa những nguyên nhân này như những phẩm chất tốt đẹp - qua đó ngài muốn nói đến những hành vi đạo đức. Ngay cả việc đạt đến Quả Phật cũng là kết quả của việc gì đấy; nó sinh khởi từ những nguyên nhân và những điều kiện (nhân duyên). Quả Phật không phải sinh ra bất chợt không từ nơi nào, nó cũng không phải là một thể trạng thường hằng vĩnh cữu sẳn có. Trong một ý nghĩa nào đó, Tông Khách Ba đang lập lại lời của Trần Na thể hiện trong mở đầu của kệ tụng Nhận Thức Luận (Compendium of valid Cognition), ở đấy, trong việc nhận dạng Đức Phật như một nhân vật xác thực, ngài nói rằng Đức Phật đã trở thành một con người như vậy[4]. Bình luận về điều này Pháp Xứng nói rằng nhằm để phủ nhận ý kiếnĐức Phậtsẳn có, Trần Na cố ý sử dụng thuật ngữ "trở thành" (become)[5]. Đức Phật qua một số tiến trình, đã trở thành một con người xác thực đáng tin cậy.

Tông Khách Ba nói về thân Phật như được phát sinh từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân. Những nguyên nhân này được liệt kê trong những tài liệu khác nhau, đặc biệt trong nghiên cứu của truyền thống Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật) nhưng chúng cũng được đề cập rõ ràng trong Tràng Hoa Quý Báu[6] (Bảo Hành Vương Chính Luận) của Long Thọ. Tông Khách Ba nhấn mạnh rằng ngay cả Đức Phật là bậc chúng ta tôn kính, Đấng Thế Tôn, trước đấy cũng là một người bình thường trên con đường trở thành một Đức Phật. Đã có một thời, Đức Phật cũng như chúng ta. Bằng việc tích tập tất cả những nhân duyên liên hệ, ngài đã tiến hóa thành một bậc Giác Ngộ hoàn toàn.

Để thông hiểu trọn vẹn ý nghĩa trọng đại của dòng đầu tiên này - rằng thân Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời - chúng ta phải thấu hiểu những mối quan hệ giữa Bốn Chân Lý Cao Quý[7].Và nhằm để thông hiểu một cách hoàn toàn sự trình bày Bốn Chân Lý Cao Quý, quý vị phải phát triển một sự thấu hiểu giáo huấn về hai chân lý (nhị đế), chân lý tương đối (thế đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế)[8]. Đặc biệt, thật quan trọng đối với quý vị để thấu hiểu vấn đề hai chân lý có cùng bản chất tự nhiên nhưng đặc tính khác nhau. Chúng tôi sẽ giải thích nhiều hơn khi chúng ta thảo luận về những sự thực tậpliên quan đến hành giảnăng lực vừa, bậc trung[9]. Ẩn chứa trong dòng này về vấn đề những phẩm chất của Đức Phật được sinh ra từ một loạt vô số thứ lớp nguyên nhân tuyệt vời là nguyên tắc quan trọng của duyên sinh trong dạng thức của nhân và quả.

Tông Khách Ba viết rằng lời nói của Đức Phật đáp ứng những hy vọng và ngưỡng vọng của vô số chúng sanh, vô tận hàm linh. "Những hy vọng" của vô số chúng sanh muốn nói đến lợi ích của chúng sanh. Lợi ích của chúng sanh bao gồm những lợi lạc tức thời và tạm thời cũng như những lợi ích tuyệt đối lâu dài. Để có thể hoàn thành lợi ích của chúng sanh trong bất cứ ý nghĩa nào, Đức Phật cần một sự thông hiểu sâu xa về những nhu cầu này là gì và vấn đề gặp gở chúng sanh một cách hiệu quả nhất như thế nào. Vì vậy, phẩm chất Giác Ngộ về lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó để đáp ứng những nguyện vọng của chúng sanh.

Trong một số kinh luận chúng ta thấy việc nhắc đến những phẩm chất của Đức Phật trong dạng thức bản chất lạ thường của những phẩm chất ấy; có những phẩm chất diệu kỳ kết hợp với thân thể, lời nói và tâm ý của Đức Phật. Nhiều kinh luận nhận diện những phẩm chất diệu kỳ của thân thể vật lý Đức Phật, phẩm chất diệu kỳ của tâm ý Đức Phật là nó có thể nhận ra tất cả mọi sự kiện. Lời nói của Đức Phật là diệu kỳ trong việc cung ứng những hướng dẫn giúp ích tất cả chúng sanh. Trong ba thứ này, những phẩm chất của Đức Phật về lời nói luôn luôn được xem là quan trọng nhất.

Trong tác phẩm Ca Ngợi Đức Phật Vì Đã Dạy Lý Duyên Sanh, Tông Khách Ba viết - Bạch Đức Thế Tôn - trong tất cả những hành vi Giác Ngộ của Ngài, điều quan trọng nhất là lời nói của Ngài và đấy, trong ấy, lời dạy về giáo lý duyên sanh là quan trọng nhất[10]. Cũng thế, trong những tác phẩm của Long Thọ, những lời mở đầu kính lễ đến Đức Phật thường liên hệ một cách đặc biệt ca tụng việc Đức Phật đã dạy lý duyên sanh[11].

Chúng ta chú ý rằng Tông Khách Ba đã chứng minh những phẩm chất của thân Phật một cách chính yếu từ quan điểm những nguyên nhân của nó. Rồi thì khi nhận diện những phẩm chất lời nói của Đức Phật, thì ngài làm việc này chủ yếu trong dạng thức những kết quả của nó. Và khi nhận dạng những phẩm chất tâm ý của Đức Phật, ngài đã chứng minh phẩm chất Giác Ngộ của tâm ý Đức Phật khi năng lực của nó được thâm nhập trọn vẹn trong việc thân chứng chân lý tuyệt đối trong khi cùng lúc cũng nhận thức tức thời thế giới đa dạng (của chân lý tương đối). Tâm Giác Ngộ này của Đức Phật là minh chứng thật sự của Quả Phật. Cho nên ngài đã ca tụng tâm Phật từ quan điểm tồn tại tính bản nhiên của Quả Phật.

Sau khi đảnh lễ Đức Phật như vị hiền nhân vĩ đại của dòng Thích Ca, trong những dòng kệ tiếp theo Tông Khách Ba đã kính lễ Mạn Thù Thất LợiDi Lặc[12] và rồi thì đến Long ThọVô Trước, hai bậc khai phá tiên phong của Đại Thừa Phật Giáo. Sau đó ngài cũng kĩnh lễ đến Atisa Dipamkara, trong ý nghĩa ngài là vị khai sáng dòng truyền thừa giáo huấn Những Giai Tầng Của Con Đường Giác Ngộ, cũng như những đại đạo sư thủ hộ của dòng này.

 

Sự Thực Hành Hợp Nhất

Tông Khách Ba (1:33) sau đó giải thích động cơ chính yếu của ngài cho việc sáng tác Đại Luận. Điều này vô cùng quan trọng. Ngài nói rằng ngài đã thấy nhiều người tận hiến sâu xa cho việc thiền tập, nhưng đang thiếu kém trong việc học hỏi. Do bởi sự khiếm khuyết này, họ chỉ tập trung trên chỉ một hay hai khía cạnh của một sự thực tập đặc thù. Chỉ với một sự hiểu biết tối thiểu đối với toàn bộ con đường tu tập của Đạo Phật, thế nên họ không thể thực hành trong một thể hợp nhất tất cả những yếu tố then chốt của giáo huấn thiết yếu.

Những ai được học hỏi đôi khi có thể rất giỏi giang trong việc bổ sung hợp nhất các giáo huấn vào trong sự thực tập cá nhân của họ. Nhưng trong những trường hợp khác, những người đã học hỏi chuyên sâu trong những truyền thống luận điển Phật Giáo lại dường như không có nhiều kinh nghiệm thật sự. Họ có thể có rất ít lợi lạc từ tất cả những việc học hỏi giáo pháp của họ. Ngày nay, chúng ta thấy các trường hợp khi mà việc học hỏi nghiên cứu dường như phục vụ xa hơn cho việc củng cố bản ngã của các học giả, tạo ra tính tự phụ, ganh tỵ, và những rắc rối khác. Ngay cả khi những phẩm chất tiêu cực này không hiện hữu, một số vị thầy thế nào đó dường như lạc lối khi đi đến việc áp dụng những gì họ biết vào trong việc thực tập. Đối diện với những không gian mênh mang của giáo lý, sự tiếp cận của họ bị phân tán. Những học giả như vậy thế nào đấy không thể kết hợp các giáo huấn với nhau trong một cấu trúc hợp nhất hữu dụng cho việc thực tập thật sự.

Xa hơn nữa, Tông Khách Ba nói rằng nhiều cá nhân biểu hiện tính cục bộ trong sự nghiên cứu và trong thực hành của họ. Thí dụ, ở Tây Tạng, khi người nào đấy ngẫu nhiên ham thích trong con đường thực hành của Kinh thừa hiển giáo, thế thì họ có khuynh hướng phớt lờ những giáo huấn Mật tông Kim Cương thừa[13]. Nếu ai đấy là một hành giả Kim Cương thừa, rồi thì họ có khuynh hướng lãng quên giáo huấn Kinh thừa Hiển giáo. Nếu ai đấy nhiệt tình với nghiên cứu tri thức luận thì họ có thể chỉ chuyên môn về thứ ấy. Đối với những người khác, có thể là A Tỳ Đạt Ma hay giới luật.

Cho nên có những hành giả thiền tập không được học hỏi, những học giả nghiên cứu rộng rãi nhưng không thể áp dụng sự học tập để thực hành, và cũng có nhiều người khác phiến diện nhiều cách trong việc học hỏithực tập của họ. Tông Khách Ba nói rằng tất cả ba hạng hành giả trên không thể thực tập giáo pháp trong một cách làm vui lòng những bậc trí tuệ. Ngài muốn nói rằng không ai trong ba loại trên có thể thực tập trên căn bản của một sự tiếp cận hợp nhất toàn diện tất cả những yếu tố cốt lõi của con đường Phật Giáo.

Những gì Atisa cho chúng ta trong Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ chỉ là một cách hợp nhất những yếu tố chìa khóa của giáo pháp như vậy cho một hành giả, một người ngồi trên tọa cụ. Cho nên Tông Khách Ba nói rằng lòng ngài vô cùng hoan hỉ trong việc viết ra một sự giải thích rộng rãi Ngọn Đèn của Atisa bởi vì nó cống hiến một cung cách thực tập sẽ làm vui lòng những bậc đại trí. Nó đem đến tất cả những yếu tố thiết yếu của giáo huấn vào trong một cơ cấu mà trong ấy hành giả có thể thực hành tất cả trong những giai tầng (tu tập).

Sự hợp nhất này rất giống với những gì mà Thánh Thiên trình bày trong 400 Kệ Tụng Trung Đạo, ở đấy chúng ta cũng có một chuỗi các giai tầng. Ở trình độ thứ nhất, quý vị phải tránh những hành vi phi đạo đức, quý vị phải chấm dứt việc chấp trước vào tất cả các quan điểm. Người nào thật sự thông hiểu sự tiếp cận này thì thật sự thông tuệ[14].

 

Lắng Nghe Tốt

Trong kệ chào đón sau cùng, Tông Khách Ba (1:34) kêu gọi độc giả, những người có thể lợi lạc từ sự tiếp cận này, yêu cầu họ lắng nghe tốt. Những độc giả như vậy sẽ là những người với tâm thức không bị những suy tư thành kiến che mờ, năng lực tinh thần để phân biệt đúng với sai, và quan tâm trong việc tìm ra ý nghĩa thật sự trong thuận lợi và cơ hội của đời sống con người của họ. Ngài yêu cầu những ai trong chúng ta với may mắn như vậy, "Hãy vui lòng lắng nghe đến những gì tôi nói với sự nhất tâm."

Xét cho cùng, điều này tương tự ấn tượng với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên, trong ấy nói rằng một hành giả của giáo pháp, người lắng nghe giáo huấn cần ba phẩm chất: khách quan, thông minh quả quyết, và một sự quan tâm thật sự đến những gì được giảng dạy[15].

 

Atisa Và Những Giai Tầng Của Truyền Thống Con Đường (Tiệm Tiến)

Tông Khách Ba (1:35:43) sau đó giải thích tính vĩ đại của tác giả mà ngài muốn nói đến là đạo sư Ấn Độ Atisa. Giáo huấn của Atisa xuất phát từ hai dòng truyền thừa chính. Một bắt nguồn từ Long Thọ và gắn liền một cách chính yếu từ giáo huấn của Đức Phật trên quan điểm triết lý về tánh không, nhấn mạnh duyên sinh và mối liên hệ của nó với chân lý tuyệt đối. Thứ đến là dòng truyền thừa Di Lặc, truyền qua Vô Trước đến những đạo sư kế thừa. Ở đây tập trung chủ yếu khía cạnh phương pháp của con đường Đại Thừa, một cách đặc biệt những thực tập liên hệ đến việc trau dồi lòng từ ái, bi mẫn, và tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề (bodhicitta). Hai dòng truyền thừa này thật sự hội tụ trong Atisa.

Tây Tạng, giáo huấn của Atisa phát triển thành ba dòng chính. Một là dòng "Kadam đại điển" của Potowa[16], thấu hiểu những hướng dẫn của Atisa trên căn bản của việc học tập và thực hành sáu tài liệu chính của Ấn Độ. Hai trong số ấy là Những Câu Chuyện Tiền Thân (Jataka Tales), chuyện những kiếp sống quá khứ của Đức Phật, và Sưu Tập Cách Ngôn[17]. Hai bộ sách này được xem như căn bản cho việc trau dồi và làm nổi bật sự hy hiến của hành giả đến Đức Phật. Sau đó Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh của Di Lặc được xem như chính yếu trong dạng thức của những giáo huấn về những thể trạng thiền tập; chúng đối diện một cách rộng rãi với những trình độ đa dạng và những con đường trong sự thực tập Đại Thừa[18]. Và hai tài liệu sau là Toát Yếu Những Kiến Thức Truyền TraoHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Shantideva, trình bày một cách chính yếu những sự thực tập Bồ tát đạo.

Dòng truyền thừa thứ hai - dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" - tiến triển trong những đệ tử của Atisa đặt căn bản của sự thực tập trên những tài liệu trình bày những giai tầng của con đường tiệm tiến (Lamrim) hay những giai tầng của giáo huấn (denrim). Và cũng có sự tiến triển thành dòng truyền thừa thứ ba, "Kamdam, Những Hướng Dẫn Cá Nhân", nhấn mạnh những tài liệu hướng dẫn cá nhân ngắn gọn thiết lập cho những hoàn cảnh đặc thù.

Khi quý vị tiếp cận những giai tầng của giáo huấn con đường tiệm tiến, kể cả Đại Luận của Tông Khách Ba, quý vị có thể thấy tất cả ba dòng truyền thừa này. Tông Khách Ba tiếp nhận giáo huấn của cả ba. Hơn thế nữa, nếu quý vị nhìn vào Đại Luận, hầu hết những tài liệu gốc của nó thật sự ở trong văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện. Trong thực tế, đệ tử của Tông Khách Ba là Gyeltsap đã viết một quyển sách về văn hệ Tuệ Trí Hoàn Thiện mà trong ấy đôi khi ông trích dẫn Đại Luận, vì thế cho thấy sự liên hệ gần gũi của ông [19].

Quý vị chính yếu đang đi theo sự tiếp cận của dòng truyền thừa "Đại Điển Lamrim" nếu quý vị học tập Đại Luận trên căn bản của bảy tài liệu phụ của Tông Khách Ba: Đại Dương Lý Trí, Tư Tưởng Sáng Tỏ, Căn Bản Hùng Biện, bộ phận tuệ giác của Đại Luận, Tiểu Luận,Tràng Hoa Vàng Hùng Biện,Giảng Luận Trang Nghiêm Tâm của Gyelstap. Hay quý vị có thể thay vì theo dõi dòng "Kadam Những Giai Tầng Của Con Đường" thì tập trung chính yếu trong Đại Luận và Tiểu Luận của Tông Khách Ba. Tuy thế, Tông Khách Ba đã nói rằng, vì hiếm có người nào biết áp dụng vào thực hành tất cả những sự giải thích, vì thế nên làm ra những tập toát yếu. Do vậy những môn đồ của ngài đã sáng tác nhiều luận điển hướng dẫn trên những giai tầng của con đường tiệm tiến, cả tóm tắtchi tiết. Có sáu luận điển ngắn trong sưu tập nổi tiếng của tám hướng dẫn lớn đối với những giai tầng của con đường tiệm tiến, nhưng cũng có nhiều tài liệu khác loại này[20]. Nếu sự tiếp cận của quý vị theo những luận điển này, thế thì quý vị đang đi theo dòng truyền thừa "những sự hướng dẫn cá nhân của con đường tiệm tiến lamrim". Cho nên trong phạm vi nghiên cứuthực hành những giai tầng của con đường tiệm tiến, thì quý vị có thể đi theo ba dòng truyền thừa khác nhau, xuất phát từ những môn đồ của Atisa.

 

Atisa Và Bốn Tông Phái Phật Giáo Tây Tạng

Tiếp theo Atisa đến Tây Tạngsáng tác Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ, mỗi một tông phái trong bốn tông phái chính của Phật Giáo Tây Tạng tiếp nhận mô thức và cấu trúc của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến. Thí dụ trong truyền thống Nyingma, tác phẩm Tâm Thanh Thản của Longchenpa trình bày con đường trong một cách theo cấu trúc căn bản của Atisa[21]. Cùng giống như thế đối với Sakya Pandita và tác phẩm Làm Sáng Tỏ Mục Đích của Đức Phật, có thể được xem như một sự hợp nhất của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến (lamrim) và giáo huấn rèn luyện tâm (lojong). Tương tự thế trong truyền thống Kagyu, Gampopa và tác phẩm Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát trình bày cấu trúc căn bản của con đường tu tập trong một mô thức giống như dàn bài của Atisa[22]. Đôi khi thứ lớp những lộ trình hơi khác nhau được thể hiện, nhưng một cách căn bản trong tất cả những truyền thống này về những giai tầng của con đường tiệm tiến là rất giống nhau. Thí dụ, Trân Bảo Trang Nghiêm Giải Thoát nói về vấn đề tâm thức hành giả xa tránh bốn điều. Nếu quý vị nhìn vào bốn điều xa tránh này của tâm thức, chúng lập lại giáo huấn trong những giai tầng của truyền thống con đường tiệm tiến.

 

Hai Nguyện Vọng

Trong một ý nghĩa, giáo huấn của Atisa xuất phát từ một điểm mà Long Thọ đã thực hiện trong Tràng Hoa Quý Báu của ngài[23], Long Thọ giải thích rằng nếu quý vị thẩm tra tất cả giáo huấn của Đức Phật, thì có thể được phân loại thành hai loại nguyện vọng: (1) nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn trong một thế giới cao hơn và (2) nguyện vọng đạt đến sự giải thoát cứu kính hay, như Long Thọ gọi nó là "từ ái minh bạch". Tất cả những giáo huấn của Đức Phật, trong cách này hay cách khác, liên hệ đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

Chúng ta làm thế nào để hoàn thành nguyện vọng đạt được sự tái sinh tốt đẹp hơn? Điều này được hoàn tất qua việc tiếp thu một cung cách sống không gây tổn hại, bất bạo động. Trái tim của sự thực hành ấy là sống một đời sống trên căn bản của niềm tinquả quyết trong luật nhân quả. Cho nên nó đòi hỏi sự trau dồi niềm tin rằng duyên sinh hoạt động theo chiều hướng mà các hành vi của chúng ta có những tác động của nghiệp báo. Sống một đời sống phù hợp với niềm tin ấy là phương pháp chính mà qua đó hành giả tìm cầu để hoàn tất nguyện vọng đạt được một sự tái sinh may mắn.

Nguyện vọng kia là tìm cầu sự giải thoát tối hậu hay Giác Ngộ, và ở đây phương pháp chính là trau dồi một sự thấu hiểu về tính bản nhiên cứu kính của thực tại. Chúng ta hiểu tính bản nhiên cứu kính của thực tại một cách chính yếu qua lời dạy của Đức Phật rằng duyên sinh bao hàm tính không. Hành giả cần trau dồi tuệ trí. Vì vậy, những nhân tố chìa khóa mà hành giả cần trau dồi trong sự thực hành Đạo Phật - niềm tin trong nghiệp quảtuệ trí thông hiểu tính không - cả hai xuất phát từ sự thông hiểuduyên sinh.

Đạt đến sự giải thoát có thể ở trong hai hình thức. Một là sự giải thoát cá nhân, giải thoát khỏi sự tồn tại bất giác. Nhưng cũng có việc đạt đến Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Trước đây chúng ta đã thấy rằng phẩm chất chính của lời nói của Đức Phậtnăng lực của nó đáp ứng nguyện vọng của tất cả chúng sinh. Đây là khuynh hướng của hành giả Đại Thừa, một người được động viên để đem đến lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lợi ích của tất cả chúng sinhmục tiêuhành giả Đại Thừa tìm cầu để đạt đến Quả Phật. Bởi vì động cơ ấy, hành giả cần hoàn tất con đường tuệ trí với tâm bồ đề - bodhicitta, tâm linh của Giác Ngộ. Hai thứ này với nhau sẽ cho phép hành giả đi đến sự thực chứng nguyện vọng sau cùng.

Trong sáu tác phẩm mà môn nhân của Atisa sử dụng để thực tập Những Giai Tầng Của Con Đường Tiệm Tiến trong dòng truyền thừa đại điển của Potowa, Những Câu Chuyện Tiền Thân Sưu Tập Cách Ngôn một cách chính yếuliên quan đến niềm tin trong nghiệp quả. Những Trình Độ Bồ Tát của Vô TrướcĐại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận của Di Lặc có thể được thấu hiểu như liên hệ đến động cơ bi mẫn của hành giả Đại Thừa, và Toát Yếu Kiến ThứcHướng Dẫn Lối sống Bồ tát của Tịch Thiên có thể được thấu hiểu như liên quan với quan điểm tính không. Tôi thấy nhận thức này trong sáu luận điển là lợi lạc nhất.

 

Không Có Mâu Thuẩn Trong Giáo Huấn Của Đức Phật

Những gì chúng ta đã thảo luận cho đến bây giờ đã cho chúng ta một ý thức về sự sâu rộng của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến bằng việc nêu bật tính xác thật về căn nguyên và nguồn gốc của nó. Một cách khác để gây niềm tin trong giáo huấngiải thích về tính rộng lớn của chính nó. Một trong những lý dogiáo huấn của Atisa là to lớn là vì nó cho phép hành giả nhận ra rằng không có sự mâu thuẩn trong tất cả giáo huấn của Đức Phật (1:46.49).

Lời nói của Đức Phật có khả năng đáp ứng những nguyện vọng khác nhau của vô lượng chúng sanh. Vì thế, những chúng sanh được cứu giúp bằng lời nói của Đức Phật không chỉ là vô hạn trong số lượng. Chúng sanh cũng vô lượng trong sự đa dạng theo thiên hướng tinh thần như những cá thể. Để điều tiết thích nghi sự đa dạng của thiên hướng tinh thầntrình độ tinh thần trong thính chúng của ngài, Đức Phật đã ban bố nhiều giáo huấn khác biệt nhau. Tùy thuộc vào trình độ nguyện vọng, mỗi người có thể phân biệt những thứ nào là Đại Thừa từ những Thừa Nền Tảng. Cũng thế, chúng ta có thể phân biệt bốn trường phái Phật Giáo cổ điểnẤn Độ[24] tùy thuộc vào trình độ thấu hiểu giáo huấn tuệ trí. Nếu quý vị chỉ đơn thuần nhìn vào những giáo huấn khác biệt như những kinh luận cá biệt, thế thì trên bề mặt chúng dường như mâu thuẩn với nhau. Tuy nhiên, giáo huấn những giai tầng tiệm tiến của Atisa cho phép chúng ta thấu hiểu sự khác biệt này không chỉ như một sự điều tiết thích nghi đến những cá thể khác nhau, mà cũng hữu dụng đối với từng hành giả riêng biệt khi người ấy tiến triển đến những trình độ khác nhau của thực chứng.

Thí dụ, trong những giáo huấn về tuệ trí có những trình độ vi tế khác nhau trong việc giải thích về vô ngã. Nếu chúng ta liên hệ những giáo huấn này với thể trạng tinh thần của chính chúng ta, như chúng ta nhận thức thế giới như thế nào, rồi thì chúng ta có thể thấy rằng mỗi thứ trong chúng có thể tác động một cách cao độ trong những hoàn cảnh đặc thù. Khi chúng ta quán chiếu tâm thức chúng taxem xét vấn đề chúng ta tưởng tượng tính chất của chính chúng ta như thế nào, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta thường thấy chính chúng ta như sở hữu một loại thực tại nào đó nhất thể, vĩnh cửu, và tự trị - điều gì đấy bên trong mà chúng ta gọi là "tự ngã" hay "linh hồn". Chúng ta bám víu, chấp chặc vào thứ này. Giáo huấn của Đức Phật phủ nhận một tự ngã như vậy rồi thì lập tức giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy một cách thích hợp.

Giống như thế, khi chúng ta thẩm tra vấn đề chúng ta liên hệ đến thế giới bên ngoài như thế nào, thì chúng ta nhận ra rằng chúng ta hành động như thể là thế giới vật lý bên ngoài kia có một loại thực thể nào đấy của tự nó. Dường như nó sở hữu một thực thể riêng biệt hoàn toàn độc lập với nhận thức của chúng ta. Trong trường hợp này, giáo lý Duy Thức - phủ nhận một thế giới khách quan bên ngoài - giúp chúng ta giải quyết loại chấp trước ấy.

Do vậy, nhiều giáo lý dường như mâu thuẩn trên bề mặt nhưng hợp lý trong mối quan hệ đến nhu cầu của một hành giả đang tiến hành trong việc thực chứngđối phó với một loạt những vọng tưởng tinh thần khác nhau. Giáo huấn của Atisa về những giai tầng của con đương tiệm tiến chỉ chúng ta rằng tất cả những giáo lý của Đức Phật là hữu dụng đến từng cá thể một, mà không có một sự mâu thuẩn nào.

 

Tiếp Nhận Tất Cả Những Giáo Huấn Như Những Sự Hướng Dẫn Cá Nhân

Tông Khách Ba (1:50-53) giải thích rằng lợi ích khác nữa của giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu tất cả những giáo huấn của Đức Phật như những sự hướng dẫn cá nhân. Một số người có nhận thức rằng trong giáo lý Đạo Phật có hai loại căn bản khác nhau: (1) một loại thuộc triết học kinh viện thật sự chỉ liên hệ cho việc mở rộng tri thức của chúng ta và (2) những giáo lý khác thì liên hệ với sự thực hành cá nhân. Tông Khách Ba xem sự phân đôi này là sai lầmvô ích.

Nếu chúng ta chấp nhận sự tiếp cận của Atisa, thế thì chúng ta thấy rằng tất cả những giáo huấn của nhà Phật liên hệ trực tiếp đến sự thực hành cá nhân của chúng ta. Tất cả chúng là sự hướng dẫn cá nhân bởi vì không có điều gì trong giáo lý của Đức Phật là không liên hệ, trong cách này hay cách khác, để rèn luyệnthuần hóa tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Khuynh Hướng Cứu Kính Của Giáo Lý Đạo Phật

Một lợi ích khác của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến là nó cho phép chúng ta thấu hiểu khuynh hướng cứu kính của giáo lý nhà Phật (1:53). Khuynh hướng cứu kính của giáo huấn là cho chúng ta phương tiện để hoàn thành nguyện vọng của chúng ta để đạt đến sự tái sinh may mắn và để đạt được sự giải thoát cuối cùng. Giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến cho phép chúng ta thấy tất cả những giáo lý của Đức Phật đều góp phần, cách này hay cách khác, đến việc hoàn thành hai nguyện vọng này.

 

Tránh Sai Lầm Trong Việc Phủ Nhận Giáo Lý Đạo Phật

Tông Khách Ba (1:53-54) đã khám phá ra tính rộng lớn cuối cùng của sự tiếp cận của con đường tiệm tiến như sự ngăn ngừa sai lầm nghiêm trọng của việc phủ nhận giáo huấn của Đức Phật, phủ nhận giáo pháp. Ở đây Tông Khách Ba trích dẫn nhiều kinh luận, kể cả những Kinh Tuệ Trí Hoàn Thiện (bát nhã ba la mật), nơi Đức Phật nói rằng một hành giả phải học hỏi, thấu hiểu, và thật sự thực hành tất cả mọi khía cạnh của con đường tu tập. Nếu chúng ta thật sự khao khát giúp đở hàng tỉ chúng sanh với những xu hướng tinh thần khác nhau, thế thì chúng ta phải thông hiểuthực tập nhiều giáo huấn và những sự tiếp cận khác nhau. Đây là những gì chúng ta chuẩn bị .

Về phương diện lịch sử, có một truyền thống trong những đạo sư Tây Tạnghọc hỏi cũng như thực tập tất cả mọi dòng truyền thừa - Sakya, Kagyu, Geluk, Nyingma - cũng như Jonang[25]. Đây là một kiểu mẫu tuyệt vời. Chúng ta nên tiếp nhận một sự tiếp cận không phân phái, không chỉ học hỏi tất cả mọi dòng truyền thừa nhưng cũng đem những giáo lý này vào thực tập.

 

Câu Hỏi Về Shugden

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, tôi cảm thấy bối rối khi thấy và nghe những môn hạ Shugden phản đối bên ngoài tòa nhà đây[26]. Tôi phải hiểu vấn đề này như thế nào? Xin hãy trình bày về vấn đề này, khi nhiều người đã hiểu sai sự việc.

ĐÁP: Chúng tôi đã có rắc rối này trong 370 năm. Nó đã bắt đầu từ thời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Và từ năm 1951 cho đến những thập niên 1970, chính tôi cũng là người thờ phụng linh thức này. Tôi đã là một trong những hành giả ấy!

Một trong những lý do mà tôi đã từ chối việc thờ phụng Shugden vì rằng nổ lực tối đa của tôi trực tiếp hướng đến việc thúc đẩy không phân phái - một cách đặc biệt trong Phật Giáo Tây Tạng. Tôi luôn luôn thúc đẩy mọi người tiếp nhận giáo huấn từ những đạo sư của các truyền thống khác nhau. Điều này giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, và nhiều đại lạt ma khác, những vị đã tiếp nhận các giáo huấn trong nhiều truyền thống. Vì từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, đến hôm nay, tôi đã từng thực tập điều này.

Một đạo sư Nyingma, Kunu Lama Rinpoche, khởi đầu đã dạy tôi những luận điển của Tịch Thiên. Vị lạt ma này không có tính bè phái, đã tiếp nhận vô số giáo huấn từ những truyền thống khác nhau. Say đấy, tôi muốn tiếp nhận từ vị đại lạt ma này một giáo lý nào đó khác, với truyền thống Nyingma. Tôi đã hỏi vị giáo thọ của tôi, Ling Rinpoche, cho biết rằng tôi đã tiếp nhận một số giáo lý từ vị lạt ma này, nhưng bây giờ tôi muốn tiếp nhận những giáo huấn trong một luận điển mật tông tantra của Nyingma.

Ling Rinpoche hơi thận trọng về điều này bởi vì Shugden. Ngài không bao giờ thờ phụng linh thức, nhưng ngài cẩn trọng về việc ấy. (Vị giáo thọ khác của tôi, Trijang Rinpoche, rất thân cận với sự thực hành tâm linh này). Lời đồn đại quanh quẩn điều này rằng nếu một lạt ma Geluk tiếp nhận giáo huấn từ truyền thống Nyingma thì Shugden sẽ tiêu diệt người ấy. Ling Rinpoche hơi e ngại cho tôi và ngài thật sự cảnh báo tôi phải cẩn thận. Những người thờ phụng Shugden có một tập quán rằng hành giả phải cực kỳ nghiêm khắc về chính truyền thống Geluk đặc biệt của vị ấy.

Thật sự, tôi nghĩ đây là quan điểm tước đi sự tự do tôn giáo của người khác, ngăn cản họ tiếp nhận những giáo lý khác. Trong thực hành, làm nản lòng quan điểm cướp đi sự tự do lựa chọn thật sự là việc quả quyết tự do tôn giáo. Hai lần phủ định là khẳng định.

Khoảng năm 1970, tôi đã đọc những câu chuyện về cuộc đời của những đại lạt ma, chính yếu từ tông Geluk (Hoàng Mạo Phái). Tôi đã có một ý tưởng rằng nếu Shugden là đáng tin cậy, thế thì hầu hết những đại giáo thọ của các Đạt Lai Lạt Ma phải tiến hành việc thờ phụng Shugden. Hóa ra không phải như thế. Do vậy, tôi đã gia tăng nghi ngờ và càng thẩm tra hơn, chuyện đã trở thành rõ ràng.

Thí dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã giải thích rõ ràng vị thế của ngài đối diện với việc thờ phụng linh thức này[27]. Ngài đã giải thích đấy là gì và ngài giải thích những nhân duyên đã làm sinh khởi việc ấy. Ngài đã diễn tả những chức năng tàn phá của linh thức đặc thù ấy. Ngài nói rằng nó đã phát sinh từ động cơ lầm lạc và rằng như một linh thức nó biểu hiện như một kẻ phá hoại lời cam kết. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, chức năng của nó là tổn hại cả giáo thuyết nhà Phật lẫn chúng sanh.

Một khi nhận ra những điều này, trách nhiệm đạo đức của tôi là làm rõ ràng những sự kiện này cho dù quý vị có lắng nghe tôi một cách toàn diện hay không. Từ đầu, tôi đã nói với cả người Tây Tạng và một số người bạn của tôi những gì tôi đã thấu hiểu. Họ tự do để lắng nghe lời khuyên của tôi hay không. Nó như một quyền cá nhân để chấp nhận tôn giáo hay không chấp nhận tôn giáo. Việc chấp nhận tôn giáo này hay tôn giáo nọ hoàn toàn tùy thuộccá nhân.

Sự lựa chọn của tôi là việc thờ phụng Shugden thật sự không phải là việc thực hành Phật Pháp chân chính; nó chỉ đơn thuầnthờ phụng một linh thức phàm tục. Đây là một khía cạnh khác của vấn nạn: theo những gì tôi đã dạy, tôi nghĩ quý vị có thể thấy rằng Phật Giáo Tây Tạng là một sự tương tục truyền thừa thuần khiết của truyền thống Na Lan Đà, là việc dựa vào lý trí chứ không phải niềm tin mù quáng. Thế nên thật đáng buồn rằng những sự thực tập nào đó của Tây Tạng có thể làm cho truyền thống thậm thâmphong phú này trở thành một loại thờ phụng linh thức.

Cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã nghiêm khắc phê phán đối với linh thức này. Vì tôi được xem là tái sinh của các Đức Đạt Lai Lạt Ma thế nên lối sống của tôi phải đi theo các ngài là hợp lý. Người ta có thể nói là nó chứng minh rằng tôi thật sự là một vị tái sinh!

Dường như những người ở ngoài kia (đang biểu tình phản đối) thật sự quá đổi vui thích với việc thờ phụng linh thức này. Tốt thôi, đấy là lối sống của họ; tôi không có gì rắc rối nếu đấy là những gì họ muốn làm. Khi tôi giảng dạy ở Đức Quốc, một số môn hạ Shugden la lối tối thiểu ba đến bốn tiếng đồng hồ. Cuối cùng tôi đã cảm thấy vô cùng quan tâm về vấn đề cổ họng của họ sẽ bị ảnh hưởng do la lối quá nhiều.

 Trích từ quyển "From Here to Enlightenment"

 Ẩn Tâm Lộ ngày 3/6/2014



[1] Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố, không có thắc mắc gì Tông Khách Batác giả của Đại Luận nhưng ngài cho rằng tác phẩm này lả giảng giải rộng của quyển ngọn đèn cho con đường Giác Ngộ của Atisa, nên Atisa cũng là tác giả của Đại Luận.

[2] Atisa cũng như Tông Khách Ba phân chia hành giả thành ba năng lực: nhỏ, vừa và lớn. Những hành giả thuộc nhóm nhỏ tu với mục đích có được một sự tái sanh tốt đẹp trong tương lai; nhóm vừa, tìm sự giải thoát khỏi luân hồi cho chính họ; nhóm lớn, là những người tìm cầu Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

[3] Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi là một vị Bồ táthóa thân tuệ trí của chư Phật

[4] Xem Geshe Wangyal's translation trong The Jewelled Staircase

[5] P 5709

[6] Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích liên hệ đoạn 212: "Một hóa thân sắc tướng của Đức Phật sinh khởi từ việc tích tập của công đức; hóa thân của sự thật, Này đức Vua từ sự tích tập của tuệ trí."

[7] Bốn Chân Lý Cao Quý bao gồm sự thật về khổ đau, sự thật về nguyên nhân khổ đau, sự thật về việc chấm dứt khổ đau, và sự thật về con đường đi đến chấm dứt khổ đau.

[8] Chân lý tuyệt đối là tính tự nhiên tuyệt đối của mọi sự vật như trống rỗng bản chất tự nhiên bên trong; chân lý quy ước bao gồm tất cả mọi sự vật tồn tại khác.

[9] Chủ đề này được giới thiệu khởi đầu từ chương 5 và chi tiết hơn trong chương 7.

[10] Như có thể thấy trong sự chuyển dịch của Gavin Kilty, Sự Huy Hoàng Của Trăng Mùa Thu (The splendor of an autumn moon)

[11] Như một thí dụ, trong 60 kệ tụng của Long Thọ.

[12] Mạn Thù Thất Lợi thượng thủ của dòng truyền thừa thậm thâm, và Di Lặc thượng thủ của dòng truyền thừa rộng lớn. Điều này có nghĩa các ngài là những vị thầy ưu việt của hành vi tuệ trí và bi mẫn. Di Lặc cũng là một vị Bồ tát sẽ thành Phật kế tiếp trong thế giới chúng ta.

[13] Kim Cương Thừa liên hệ với sự thực tập Mật tông Phật Giáo. Kim Cương Thừa căn cứ và đòi hỏi sự thực tập phổ thông của Đại Thừa phát xuất từ Kinh thừa hiển giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma xem Kim Cương Thừa như một hình thức của Đại Thừa Phật Giáo, với cùng mục tiêu (Giác Ngộ tròn vẹn), và những nguyên tắc (tuệ trí và bi mẫn) nhưng với những kỷ năng nổi bật, đặc biệt với kỷ năng bổn tôn du già (deity yoga) liên hệ đến việc quán tưởng tự thân với niềm tin thật sự như đã là một vị Giác Ngộ tròn vẹn mà hành giả đang tầm cầu trở thành.

[14] Tông Khách Ba đã trích dẫn đoạn này từ 400 Kệ Tụng Trung Đạo của Thánh Thiên của Đại Luận 1:141

[15] Trích dẫn của Tông Khách Ba từ với 400 Kệ Tụng của Thánh Thiên.

[16] Potowa Rinchen-sel (1027-1105) là một trong những đệ tử chính của Dromdonpa (1004-1064) và Dromdonpa là một trong những đệ tử chính và kế thừa Atisa.

[17] Pháp cú Tây Tạng.

[18] Đã được Robert Thurman và những người liên hệ dịch ra tiếng Anh.

[19] Gyeltsap (1362-1432)

[20] 8 luận điển của Tông Khách Ba

[21] Đã từng được Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy

[22] Liên hệ ở đây là (1) tránh bị dính măc với kiếp sống này, (2) tránh không bị dính mắc với kiếp sống tương lai trong cõi luân hồi, (3) tránh không bị dính mắc với niết bàn của cá nhân, và (4) tránh khỏi sự si mê về ý nghĩa đạt đến Quả Phật.

[23] Xem bản dịch của Jeffrey Hopkins

[24] Tỳ Ba Sa Luận Sư, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức Tông, và Trung Quán Tông

[25] Jonang liên hệ đến truyền thống được phổ thông hóa bởi Shayrap Gyaltsen (1292-1361)

[26] Shugden là một bổn tôn gây tranh cải phối hợp với dòng Geluk của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong Phật Giáo Tây Tạng. Đức Thánh Thiện đã từ chối sự tôn thờ Shugden trong năm 1975, vì ngài cho rằng việc thờ phụng bổn tôn này đưa đến sự phân phái; ngài không xem Shugden như một vị Giác Ngộ, không giống như sự thừa nhận của những người khác.

[27] Theo tự truyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9986)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9960)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20544)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10386)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9989)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10377)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9968)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34468)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9664)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8732)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9319)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11132)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8555)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9828)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9204)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20504)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19241)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8779)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8894)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12136)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9633)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23033)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9022)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9297)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 10003)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9937)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10656)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10949)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12514)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9374)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9230)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9344)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10475)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22044)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22302)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16643)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9581)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10230)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8423)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8310)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9486)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8865)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8659)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12288)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9161)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9639)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8642)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9492)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8653)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8398)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8508)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10215)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23673)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9601)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9445)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9032)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8384)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8557)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7921)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 8004)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8826)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8965)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10098)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8670)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8655)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30466)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30132)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24212)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9291)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9666)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9541)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9537)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7875)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9106)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28266)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23767)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12269)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8912)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14260)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14123)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9678)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9369)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9681)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30962)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27155)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32778)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34063)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27806)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10607)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12499)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58789)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10686)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9429)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9583)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13974)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14243)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10806)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28223)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23335)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10165)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant