Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận Giải Về Phật Giáo Kim Cương Thừa

26 Tháng Sáu 201407:55(Xem: 12036)
Luận Giải Về Phật Giáo Kim Cương Thừa


LUẬN GIẢI VỀ PHẬT GIÁO KIM CƯƠNG THỪA,

CÁC TRUYỀN THỐNG TẠNG TRUYỀN

TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SHUCHI, NHẬT BẢN

Phúc Cường

Ngày 10, tháng tư năm 2014

Đại học Shuchi có nguồn gốc là một Trường đào tạo Nghệ thuật và Khoa học, được Bậc Thầy Kobo Daishi, người sáng lập của truyền thống Phật giáo Shingon Nhật Bản, thành lập vào năm 828 trên nền của ngôi chùa Toji ở Kyoto. Đây là cơ sở giáo dục đầu tiên tại Nhật Bản mở cửa cho tất cả mọi sinh viên không phân biệt địa vị xã hội hay kinh tế. Trường đại học Shuchi hiện nay được thành lập lại vào năm 1949. Hoà thượng Suguri Kouzui, hiện đang là hiệu trưởng đại học Shuchi, đồng thời cũng trụ trì của ngôi chùa Nakayama Dera.

Đức Đạt lai Lạt ma đã an tọa phía dưới bức tượng đức Phật Tỳ-lô-giá-na, hai bên được an trí hai mandala theo đúng truyền thống Phật giáo Đông Mật.

kim cang thua 1

"Quý vị đã thỉnh cầu tôi chia sẻ về pháp môn Kim cương thừa hay Chân ngôn thừa. Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo. Đức vua đã kết hôn với hai vị công chúa, một người Trung Quốc và một người Nepal. Hai vị công chúa đã mang theo các tôn tượng Phật tới Tây Tạng, khởi nguồn cho việc tìm hiểutu học giáo pháp của đức Phật trên khắp đất nước. Sau đó, đức vua Trisong Deutsan nhận ra rằng Phật giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ và ngài đã chuyển hướng tìm hiểutu học trực tiếp từ Ấn độ. Đức vua đã thỉnh mời đại Phương trượng Shantarakshita từ Đại học Nalanda và ngài đã bắt đầu đảm nhận trọng trách hoằng dương Phật giáo rộng khắp miền đất tuyết. Ngài là một học giả vĩ đại, bậc sáng lập nên truyền thống Yogachara – Svatantrika - Trung Quán luận, truyền thống đã hợp nhất tri kiến của đạo sư Long ThọVô Trước với logic học và nhận thức luận của ngài Pháp Xứng. Ngài cũng bắt đầu dự án dịch văn học Phật giáo Ấn Độ sang ngôn ngữ Tạng, hệ thống này được kết tập trong các bộ Kangyur và Tengyur. Ngài trước tác các bộ luận “Tràng hoa lý Trung đạo” và "Thực tại Tập luận” mà ngày nay chúng tôi vẫn tiếp tục tu học; công trình đầu tiên bàn về các vấn đề triết họccông trình thứ hai về vấn đề logic và nhận thức luận Phật giáo.

Đệ tử của đại Phương trượng Shantarakshita là ngài Kamalashila, một học giả uyên bác, cũng đã được thỉnh mời tới hoằng pháp sau đó. Ngài đã trước tác bộ luận “Ngọn Hải đăng của truyền thống Trung đạo” và một bộ luận về tác phẩm "Thực tại Tập luận” của bậc thầy mình. Hai đạo sư này đóng vai trò chính cho việc thiết lập Phật giáoTây Tạng. Quý ngài đã thành lập giới luật là nền tảng của giáo lý tại đây.

kim cang thua 2

Đức Đạt lai Lạt ma luận giải rằng, Đạo sư Liên hoa sinh (Guru Padmasambhava) có vai trò khiển trừ và điều phục các thế lực gây chướng ngại cho sự phát triển của Phật giáo. Ngày nay ngài cùng với đại Phương trượng Shantarakshita và đức vua Trisong Deutsan được tôn kính là ba vị đặt nền móng cho các dòng Phật giáo Tạng truyền.

Là một Tỳ kheo, bản thân ngài Shantarakshita đã trì giữ giới Luật, trong khi đó, qua bộ luận “Tràng hoa của lý Trung đạo" cho ta thấy việc thực hành trưởng dưỡng Bồ đề tâmtrí tuệ Tính không của ngài, còn qua bộ "Chương luận về Thực tại” là minh chứng ngài đã thực hành Kim cương thừa với những Yoga Tantra ở mức cao cấp nhất. Nói tóm lại, ngài là một mẫu mực của truyền thống Phật giáo Nalanda.

Có thể truy xét nguồn gốc cách tiếp cận này chính từ đức Long Thọ, ngài đã đặt giới luật làm nền tảng của sự thực hành, trưởng dưỡng tâm Bồ đề thông qua các phương pháp cho - nhận. Các bộ luận của ngài cũng cho thấy nội dung rõ ràng của Kinh Bát nhã Ba la mật, trí tuệ Tính không, và sự thực hành các giai đoạn phát khởihoàn thiện của Kim cương thừa với các Yoga Tantra cao cấp nhất. Đức Đạt lai Lạt ma dạy rằng, các đệ tử của đức Long Thọ là ngài Thánh Thiên, Pháp Xứng cũng theo cách tiếp cận tương tự. Điều này cho thấy nguồn gốc của truyền thống Phật giáo Tạng truyền, nơi một hành giả cần phải trì giữ bao gồm cả ba giới nguyện, giới nguyện pratimoksha, giới nguyện Bồ Tát và giới nguyện Kim cương thừa. Đức Đạt lai Lạt ma lấy bản thân mình là một minh chứng. Ngài là một tăng sĩ; ngài luôn phát nguyện Bồ đề tâmthiền quán về tính không hàng ngày, và mỗi ngày ngài thực hành sáu pháp Yoga Bản tôn khác nhau.

Ngài cũng đã nói về những hiểu lầm mà chính ngài đã gặp khi mọi người nói về các dòng Tạng truyền. Cố Tổng thống Nelson Mandela trong một buổi gặp gỡ từng nhầm lẫn giới thiệu ngài là lãnh tụ của Lạt ma giáo (Lamanism). Truyền thống Phật giáo Tạng truyền là một truyền thống bao gồm nguyên vẹn toàn bộ giáo pháp của đức Phật, và đang được thực hành, trì giữ nghiêm mật thông qua sự tu họcthực hành rất nghiêm ngặt tới tận ngày nay.

Liên quan đến nguồn gốc của Phật giáo Kim cương thừa, ngài dạy rằng Tứ Diệu Đế là nền tảng của tất cả giáo pháp đạo Phật, 37 phẩm trợ đạo giác ngộ cũng phổ biến trong tất cả các truyền thống đạo Phật. Tiếp đến, trong truyền thống ngôn ngữ Sanskrit, chúng ta thấy giáo pháp Bát nhã được đức Phật truyền trao trên đỉnh Linh Thứu trước sự vân tập của các đại đệ tử như Quán Thế Âm, Bồ Tát Văn ThùPhổ Hiền. Đây là những giáo pháp được đức Phật truyền trao trong lần chuyển pháp luân thứ hai, chủ yếu đề cập tới tính vô ngã của pháp và tâm. Các giáo pháp này bao gồm cả Bát nhã Tâm kinhchúng ta vừa trì tụng, đó là bài đối thoại giữa ngài Xá Lợi PhấtBồ Tát Quán Thế Âm. Giáo pháp này đã không được truyền trao rộng khắp đại chúng, mà chỉ cho những đệ tử đã có nghiệp thanh tịnh, có năng lực thấy nghe được lời Bồ tát Quán thế âm và ngài Xá Lợi Phất.

Ngài làm rõ, trong lần chuyển Pháp luân thứ nhất, đức Phật đã truyền trao Tứ Diệu Đế, giáo pháp được phổ biến cho đại chúng, bởi đã được ghi chép lại trong lịch sử, lần chuyển Pháp luân thứ hai, đức Phật chủ yếu truyền trao các giáo pháp về trí tuệ Bát nhã, chủ yếu làm rõ ý nghĩa của Diệt đế, khả năng và con đường tiến tới giác ngộ. Đồng thời cũng chỉ rõ những phẩm hạnh của một vị Phật. Lần chuyển Pháp thứ ba, đức Phật truyền trao những giáo pháp về tự tính Phật và bản chất tịnh quang của tâm thức, và các phương pháp để sử dụng chúng. Đây chính là nền tảng của việc thực hành các chân ngôn bí mật hay giáo pháp Kim cương thừa. Ngài luận giải rằng, lần chuyển Pháp luân thứ hai và thứ ba không phổ biến rộng rãi cho đại chúng mà cho những nhóm đệ tửcăn cơ nhất định.

Nhìn lại lịch sử, có nhiều cuộc tranh luận về vị trí của Phật giáo Đại thừaKim cương thừa. Một số người đã cho rằng Phật giáo Đại thừa hay Kim cương thừa không phải do chính đức Phật tuyên thuyết. Nhắc lại những băn khoăn của một học giả Phương Tây về tính xác thực của Phật giáo Đại thừa tại một hội nghị khoa học ở Delhi, khi ấy ngài đã khuyên rằng, các học giả vĩ đại Ấn Độ như đức Long Thọ sống chỉ sau thời của đức Phật 4 thế kỷ ở địa vị tốt hơn để đánh giá về vấn đề này. Các lập luận và minh chứng trong các bản viết của ngài cho thấy đức Long Thọ đã rất lôgic và khoa học trong cách tiếp cận về các vấn đề như vậy. Đức Long Thọ đã khảo cứu kỹ càng và đã bảo vệ tính chân xác của Đại thừa, lập luận rằng đó chính là được truyền trao bởi chính đức Phật. Ngài Maitreya, Bhavaviveka và sau đó là đức Shantideva đã cũng minh chứng cho tính xác thực và chân thực của truyền thống ngôn ngữ Sanskrit, của việc thực hành Bồ tát thừa - trí tuệ Bát nhãKim cương thừa.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi tại sao có nhiều truyền thống, tông phái như vậy. Câu trả lời là mỗi chúng sinh có nhu cầu và căn cơ khác nhau. Tâm nguyện chính của hàng Thanh Văn, Duyên giác là đạt giải thoát và các ngài tập trung thực hành Tứ Diệu Đế cùng 37 phẩm trợ đạo, Thập nhị Nhân duyên. Đối với Bồ Tát thừa, mục tiêu không phải là sự giải thoát của riêng bản thân, mà hướng tới giảm thiểu những khổ đau của tất thảy chúng sinh. Con đường Bồ tát tập trung vào tam học và chứng đạt Phật quả. Trong thực hành Kim Cương thừa, giáo lý Đại Toàn thiện (Dzogchen) đề cập tới chín thừa, trong khi những tantra của các truyền thừa tân phái đề cập tới bốn thứ lớp tantra. Hai quan kiến này thực ratương ứng, không khác. Tất cả các pháp thực hành đều nhấn mạnh tới sự thấu hiểu bản chất tâm. "Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đều hướng tới mục đích chung. Tôi không tự nhận mình là một hành giả cao cấp, nhưng sau khi thụ nhận rất nhiều giáo pháp, tôi đi tới kết luận rằng tất cả những giáo pháp đều hợp nhất ở một điểm chung.” Ngài đã trích dẫn sự luận giảng chi tiết của đạo sư Pháp xứng về năm giai đoạn của Tantra:

1. Giai đoạn phát khởi

2 . Giai đoạn hoàn thành

3 . Giai đoạn cách ly

4 . Giai đoạn huyễn thân và tịnh quang

5 . Giai đoạn hợp nhất

kim cang thua 3

Giai đoạn phát khởi liên quan đến việc quán tưởng các Bản tôn. Trong Yoga Tantra cao cấp nhất, việc thực hành cần hợp nhất ba thân Phật, Pháp thân, Báo thânHóa thân trên con đường thực hành thông qua các tiến trình chết, giai đoạn trung giantái sinh. Trong khi các kinh điển Hiển giáo dạy về việc cần phải mất ba ATăng tỳ kiếp hoặc nhiều hơn nữa mới có thể chứng đạt Phật quả thì kinh điển Mật giáo dạy rằng có thể chứng đạt tới quả vị Phật trong một đời trong một thân người.

Tiếp đến tới phần hỏi - đáp, một câu hỏi đưa lên xin ngài cho quan điểm về ý kiến ​​cho rằng, đạo sư Kobo Daishi, ngài đã viên tịch trong thế kỷ thứ IX, hiện vẫn đang trong trạng thái thiền định. Ngài trả lời rằng, điều này hoàn toàn có thể. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy, các đại thành tựu giả vĩ đại trong quá khứ đã chứng đạt giác ngộ và hiện vẫn đang trong trạng thái đại định tới tận khi đức Phật kế tiếp thị hiện trên thế gian, rất nhiều các đạo sư của Phật giáo Tạng truyền hiện đang trong số đó. Với những câu hỏi về lòng từ bi liên quan đến Bồ tát Quán thế âm, ngài trả lời rằng lòng từ bi là cội rễ của việc chứng đạt Phật quả. Ngài dạy rằng, ngài đã nhắc tới vai trò của Bồ tát Quán thế âm trong cuộc đối thoại ở "Bát nhã Tâm kinh", tuy nhiên Quán thế âm Bồ tát chính là hiện thân hết thảy lòng từ bi của chư Phật, cũng như đức Văn thù Sư lợi chính là hiện thân của hết thảy trí tuệ của chư Phật.

"Cuối cùng, tại nơi chốn này do một nhân duyên đặc biệt với đạo sư Kobo Daishi, tôi muốn cảm ơn quý vị, những đệ tử của đức Phật, bằng tiếng Nhật đã cho tôi cơ hội này để chia sẻ với quý vị," và ngài đã cúng dường hiệu trưởng trường một tôn tượng Phật.

Hòa thượng Chijun Suga, Chủ tịch của đại học Dosokai và trưởng ban trị sự ngôi chùa Zentsuji tại Shikoku, thánh địa nơi đạo sư Kobo Daishi đản sinh, đã bày tỏ lòng tri ân tới sự hiện diện của Đức Đạt lai Lạt ma. Ngài nói rằng, các Phật tử của tất cả các truyền thống Phật giáo đã tới lắng nghe. Ngài đã thỉnh cầu đức Đạt lai Lạt ma duy trì mối nhân duyên với trường đại học bởi vì các nhân duyên mạnh mẽ với đạo sư Kobo Daishi. Ngài cũng đã thỉnh cầu đức Đạt lai Lạt ma trụ thế dài lâu.

Tiếp tục luận giải về Kim cương thừa tại Koyasan, trung tâm của truyền thống Shingon, Phật giáo Nhật Bản

kim cang thua 4

Ngày 13, tháng tư năm 2014

Rặng núi Koyasan phía nam Osaka là trung tâm truyền thống Phật giáo Shingon Nhật Bản, còn được gọi là Đông Mật bởi các phương pháp thực hành chân ngôn, mật ngữ, đôi khi được gọi là Phật giáo Bí truyền. Đạo sư Kobo Daishi, người sáng lập truyền thống Phật giáo Shingon, đã tu học và đưa giáo pháp trở lại Nhật Bản sau khi tới Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ IX. Một trong những tâm nguyện của ngài là học tiếng Sanskrit để thấu hiểu hơn các Kinh điển Phật giáo và có tư liệu cho rằng, một trong những bậc thầy đầu tiên của ngài là một Thành tựu giả Prajna Ấn Độ, ngài đã tu học tại Nalanda. Đạo sư Kobo Daishi kiến lập ngôi chùa Kongobuji ở Koyasan năm 816 và viên tịch năm 835, trụ thế 62 năm. Đức Đạt Lai Lạt ma đã được thỉnh mời ban truyền giáo pháp và truyền trao quán đỉnh mandala Mahakarunagarbhodbhava.

Ngài bắt đầu bằng luận giải bối cảnh việc thực hành tôn giáo trên thế giới, tôn giáo bắt đầu xuất hiện khoảng 3000 đến 4000 năm trước đây. 2600 năm trước đây đạo Giai-na được thành lậpẤn Độ, tiếp ngay sau đó là Phật giáo. Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo bắt nguồn từ Trung Đông, trong khi đó một trong những truyền thống tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, Bái Hỏa giáo có nguồn gốc ở Ba Tư. Tất cả những truyền thống tôn giáo này đều đề cao tình yêu thươnglòng trắc ẩn, tuy nhiên, lịch sử cho thấy rất nhiều các xung đột đã diễn ra nhân danh tôn giáo. Thật bất hạnh, bởi điều này giống như thần dược bị chuyển hóa thành độc dược vậy. Tuy nhiên, Ngài cho rằng mọi thứ không hoàn toàn diễn ra theo cách này, ví như tại Ấn độ, tất cả các tôn giáo lớn đều tồn tại một cách hòa hợpan bình trong nhiều thế kỷ. Nếu sự hòa hợp giữa các tôn giáothể đạt được ở Ấn Độ, ngài cho rằng, điều này cũng thể diễn ra ở những nơi khác nữa.

Nền tảng của Phật giáoTứ Diệu Đế. Đức Phật truyền trao giáo pháp bởi vì chúng ta không ai mong muốn đau khổ đau cả. Trong Tứ diệu đế, đức Phật đã dạy về khổ đau, nhân khổ đau, giải thoátcon đường tiến tới giải thoát, giác ngộ. Nhân của khổ đau là vô minh, nhưng vô minh có thể được tiêu trừ bằng trí tuệ. Tiếp đến ngài tiếp tục luận giải về ba lần đức Phật chuyển pháp luân, sự hình thành và phát triển các dòng Tạng truyền. Và xác quyết rằng, tất cả đều bắt nguồn từ truyền thống Nalanda. Nguồn gốc của truyền thống Nalanda là các trước tác, bộ luận của các bậc Đạo sư Ấn Độ như đức Long Thọ, có những bộ luận chúng tôi tới ngày nay vẫn tu học và thậm chí ghi nhớ tới từng chữ một. Chúng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu, tu học các trước tác này một cách kỹ lưỡng và thực hành sự hiểu biết của mình qua tranh biện.

"Chúng ta phải quay trở lại truyền thống Nalanda nguyên thủy, thông qua những bộ kinh của các bậc Thầy truyền thống Nalanda như đức Long thọ. Nếu không, các tư tưởng của đạo Phật sẽ bị lẫn với các tín ngưỡng địa phương, khi đó giáo pháp nguyên thủy sẽ bị biến dạngsuy đồi.” Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng, Phật giáo Tạng truyền bao gồm đầy đủ giáo pháp của Đức Phật. Nền tảng giới luật tự viện của truyền thống này về bản chất đều giống như truyền thống Pali. Ngài nhắc tới buổi gặp gỡ gần đây với chư tănghọc giả Thái Lan và các ngài hiểu được rằng sự thực hành của các ngài tương tự như nhau. Mặc dù truyền thống Tạng truyền còn thực hành trí tuệ Bát nhã và Tantra Yoga Tối thượng, nhưng tất cả đều dựa trên nền tảng của Luật Tạng.

Về Kinh điển Đại thừa, các truyền thống Phật giáo Tạng truyền đều tu học như nhau, tuy nhiên cách thức thực hành Tantra có những phương pháp khác nhau. Trong truyền thống Nyingma có những truyền thừa lâu đời bắt nguồn từ Ấn Độ, có truyền thừa ngắn hơn được phát lộ qua các terma và có truyền thừa bí mật bắt nguồn từ quan kiến thanh tịnh. Trong lần chuyển Pháp luân thứ ba, đức Phật đã truyền trao các giáo pháp cho những ai đã thấu đạt những giáo pháp trong lần chuyển pháp luân thứ hai, rằng vạn pháp đều không có thực tướng, một giáo pháp rất khó thấu hiểu cặn kẽ. Đức Phật đã luận giải vạn pháp từ một góc độ khác liên quan tới bản chất phụ thuộc, toàn hảo và thanh tịnh của vạn pháp. Lần chuyển pháp luân thứ ba cũng luận giải tâm vi tế tối thượng nhất, đó là nền tảng của Tantra.

Các phiền não có thể bị tiêu trừ bởi những pháp đối trị các phương diện thô của tâm, nhưng các dấu ấn vi tế của các phiền não chỉ có thể bị tiêu trừ bởi tâm vi tế. Năng lực này thực sự được hiển lộ trong các luận giải của các Tantra Yoga cao cấp nhất về tịnh quang, thân, khẩu và ý vi tế. Ngài chỉ ra rằng Mantra có nghĩa là hộ trì tâm, nền tảng của việc thấu hiểu tính không, hộ trì tâm khỏi những pháp thế gian. Chứng đạt được quả vị này một lần nữa phụ thuộc vào tâm vi tế. Một ví dụ cho năng lực của tâm vi tế, ngài trích dẫn trường hợp của Changkya Rolpai Dorje, ngài đã bị suy giảm thị lực tới mức gần như không thể đọc được kinh sách. Để vượt qua chướng ngại này, ngài thường xuyên sử dụng thân huyễn ảo để đọc kinh sách trong thời gian ngủ mơ. Một vị lama nữa ngài kể về Tagphu Tenpai Gyaltsen, trứ danh về năng lực tiên tri. Changkya Rolpai Dorje đã quyết định thủ bằng cách hỏi ngài một tả cái gì trong y của ngài, Tagphu Rinoche đã ngay lập tức trả lời chính xác đó là chuỗi tràng. Khi được hỏi bằng cách nào ngài biết, ngài trả lời rằng, ngài tập trung vào điều ngài muốn biết, sau đó một chiếc linh sẽ thị hiện trước ngài và vật ngài muốn biết sẽ thị hiện sau đó.

Bởi lý do sử dụng tâm vi tếnăng lựcvô cùng hữu hiệu cho sự chứng đạt giác ngộ, nên đạo sư Atisha đã dạy cần bước vào con đường Mật thừa. Tương tự như vậy, đức Je Tsongkhapa dạy rằng, sau khi đã thuần thục sáu Ba-la-mật, hợp nhất thiền định và trí tuệthấm nhuần con đường Đại thừa, hãy bước vào con đường của Tantra.

Tại Trung Quốc, Nhật bản và một số nước châu Á khác, các tantra hành động, nghi quỹ và Yoga Tantra vẫn được nhiều hành giả thực hành, nhưng ở các nước này các truyền thống thực hành tương đối độc lập. Ví dụ, Thiền được thực hành riêng rẽ với các truyền thống thực thành Đông Mật. Tại các dòng Tạng truyền, Luật tạng là nền tảng, cùng với đó là sự ở thực hành lý tưởng Bồ tátgiáo pháp Kim cương thừa. Đây là đặc điểm đặc trưng của các dòng Tạng truyền, khi tất cả ba thừa đều được hợp nhất và thực hành đồng thời. Đức Đạt Lai Lạt ma nhắc nhở tất cả thính chúng đang hiện diện rằng, khi liên quan đến Pháp thì điều quan trọng là cả bậc thầy và đệ tử cần thiết lập một động cơ thanh tịnh. Ngài dạy rằng Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và cần phát Bồ đề tâm khi thực hành. Sau khi trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Nhật, Đức Đạt Lai Lạt ma đã khẩu khuyền cho thính chúng trì tụng các bài kệ quy yphát Bồ đề tâm. Sau đó ngài tiếp tục khẩu truyền toát yếu Bộ luận “Những giai tầng của Đạo lộ Giải thoát” của đức Tsongkhapa.

Truyền trao quan đỉnh Tỳ-lô-giá-na Phật tại Koyasan

Ngày 14 tháng Tư năm 2014

Đức Đạt lai Lạt ma được hộ tống bởi chư tăng từ tự viện Namgyal, bao gồm ngài Tu viện trưởng và các thầy giáo thọ, dẫn đầu bởi ngài Jhado Rinpoche, nguyên tự viên trưởng. Một nhóm chư tăng đã tới trước vài ngày để kiến lập một mandala cát cho buổi lễ quán đỉnh. Các ngài cùng với đức Đạt lai Lạt ma trì tụng kinhnghi thức cúng dường trước mandala cát trước buổi lễ.

kim cang thua 5

Vào thời gian buổi sáng trước lễ quán đỉnh, Ngài luận giải toát yếu bài “Tám Bài Kệ cho rèn luyện Tâm thức”. "Như tôi đã chia sẻ ngày hôm qua, Bồ đề tâm là nhân dẫn tới quả vị Phật. Trong Bát nhã Tâm Kinh có dạy rằng, chư Phật trong đời quá khứ, hiện tạivị lai đều dựa vào trí tuệ để thành tựu giác ngộ tối thượng. Nếu quý vị có trí tuệ Tính không và được thúc đẩy bởi động cơ Bồ đề tâm thì quý vị có thể đạt tới Phật quả. Bồ đề tâm có hai khía cạnh, mong nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sinh và mong nguyện chứng đạt Phật quả.”

"Phật cũng có nghĩa là sự toàn tri, đây là năng lực tối cần thiết bởi vì nếu quý vị không biết chúng sinh đang mong cầu những gì thì quý vị có thể mắc lỗi lầm và làm tổn hại tới họ. Và để đạt được quả vị toàn tri quý vị cần phải vượt qua những che chướng tới trí tuệ. Bộ luận “Những Huấn từ Trong sáng” của ngài Pháp Xứng định nghĩa, những điều này là các khuynh hướng tiềm ẩn còn xót lại của những phiền não. Một khi chúng còn tồn tại, thì hiện tướng nhị nguyên cũng vẫn còn. Tất cả chư Phật trong đời quá khứ, hiện tạivị lai đều thành tựu giác ngộ trên nền tảng của Bồ đề tâmtrí tuệ Tính không."

Bồ đề tâm là không thể thiếu nếu muốn chứng đạt giác ngộ. Không có bất kỳ yếu tố nào cao hơn nữa để giúp đạt tới sự tái sinh cao hơn, bởi vì tâm Bồ đề một cách tự nhiên sẽ giảm thiểu những hành động bất thiện khác như sát sinh, dẫn tới đọa xuống các cõi thấp. Trong “Tràng hoa Trân bảo”, đức Long Thọ đã tán thán việc thực hành cho - nhận và đức Tịch Thiên cũng dạy rằng, không có nhân nào to lớn hơn có thể mang lại sự an lạc như Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là nguồn cội của tất cả những điều tốt lành cho mình và chúng sinh. Mặt khác, ngài dạy rằng, nếu càng ích kỷ, quý vị càng bị người khác xa lánh và tâm phân biệt ta - người của quý vị sẽ càng phát triển.

Geshe Langri Tangpa, tác giả của “Tám bài kệ trưởng dưỡng Tâm”, một kinh văn về việc thực hành Bồ đề tâm, là một trong những đại đệ tử của Geshe Potowa, ngài là một trong những đệ tử chính của Dromtonpa, ngài Dromtonpa là đệ tử của đạo sư Atisha.

Bắt đầu với câu kệ đầu tiên, ngài luận giải việc trân quý chúng sinh không phải là coi thường họ mà chính là phải coi chúng sinh quan trọng hơn bản thân. Điều này dựa trên nền tảng triết lý rằng, tất cả các thành công của bản thân đều phụ thuộc vào những chúng sinh khác. Việc đạt được sự tái sinh vào những cảnh giới cao hơn cũng phụ thuộc vào những chúng sinh khác. Trí tuệ toàn tri muốn đạt được cũng phụ thuộc vào những chúng sinh khác. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta luôn bày tỏ niềm tôn kính lên chư Phật, nhưng lại không tôn kính chúng sinh. Ngài Pháp Xứng đã dạy rằng, tâm từ bi đối với chúng sinh vừa là hạt giống vừa là vụ mùa bội thu. Bởi chúng sinh rất có từ tâm đối với chúng ta, chúng ta cần luôn biết tri ântôn kính họ.

Ngài cho rằng:

"Tôi luôn tự quán xét bản thân là một tăng sĩ, một đệ tử Phật, một người theo truyền thống Nalanda chân chính thuần khiết, nếu bản thân không thể tôn kính chúng sinh, thì nên tự đặt mình là hạng người thấp kém nhất trong tất cả.”

Bởi vì chúng ta cứ bám chấp cho rằng sự tồn tại là cố hữu và chăm sóc bản thân mình quá mức nên chúng ta chịu sự chi phối của các phiền não. Ngài kể lại, gần đây ngài tới thăm một phòng khám bệnh nhân phong ở Delhi, nơi người Nhật gọi là Sasakawa, để giúp đỡ và hỗ trợ những người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.

"Những người này thường bị kỳ thị và đối mặt với sự thù địch, nhưng như tôi đã nói một số giới chức Ấn Độ có mặt ở đó rằng, họ cũng là những con người, như chúng ta, nhưng họ đang bị bỏ ra ngoài lề xã hội."

Khi ai đó xúc phạm hoặc cư xử mang lại sự khó chịu cho bạn, sẽ rất khó để đối xử tốt lại, đặc biệt là nếu bạn đang cố gắng giúp đỡ họ. Điều quan trọng là nên thực hành nhẫn nhục và bạn có thể khởi phát niềm tri ân bởi chính họ đã mang lại cho bạn cơ hội thực hành như vậy. Ngài luận giải về pháp thực hành cho - nhận, "Nguyện con có thể mang lại hết thảy sự trợ giúp cho những người mẹ của mình và xin nguyện nhận thay lấy tất thảy phiền não nơi họ”, lời nguyện chưa chắc đã thực sự giúp đỡ họ, nhưng nó giúp chuyển hóa tâm quý vị, xây dựng lòng can đảm và sự tự tin trong tâm thức quý vị.

Câu kệ cuối cùng mang nội dung hãy đừng để cho thực hành của quý vị bị nhiễm ô bởi tám món bận tâm thế tục, chẳng hạn như mong muốn được khen ngợi, tán dương và đền đáp. Pháp đối trị là nên thường quán tưởng vạn pháp như mộng huyễn. Bản chất vô ngã cũng được đức Thế Tôn nhắc tới trong lần chuyển pháp luân lần thứ nhất, nhưng giáo pháp Trí tuệ Bát nhã trong lần chuyển pháp luân thứ hai đã luận giải vạn pháp đều không có tự tính cố hữu. Nhưng bởi vì vạn pháp vẫn còn hiện khởi như là tồn tại cố hữu, ngay cả khi ta đã hiểu chúng không thật như vậy, do đó hãy nên thường quán như mộng huyễn. Phương pháp này giúp tránh bám chấp vào các hiện tướng là nền tảng cho sự khởi sinh các phiền não như sân hận, tham lam. Si mê là nền tảng của tất cả các phiền não. Tiêu trừ được si mê, chúng ta sẽ điều phục được hết thảy các phiền não khác. "Bản kinh văn này của Langri Tangpa nhấn mạnh việc thực hành Bồ đề tâm. Sẽ rất lợi lạc nếu có thể ghi nhớ thêm cả bản kinh văn tôi đã luận giải ngày hôm qua, "Chứng đạo ca”, sẽ giúp quý vị có thể hòa nhập những giáo pháp được học vào đời sống thường nhật.”

Sau giờ nghỉ trưa, Ngài tiếp tục khai thị rằng, Đại thừa có thể được chia ra gồm Ba-la-mật thừa và Kim cương thừa. Trong Ba-la-mật thừa, người thực hành trưởng dưỡng các thứ lớp tu tập, dần dần qua bốn thứ lớp để tiến tới mức độ thứ năm là quả vị Phật. Trong Kim cương thừa, hành giả thực hành đồng thời bốn cảnh giới thanh tịnh của quả vị Phật là thân thanh tịnh, môi trường thanh tịnh, cảm thọ và hành động thanh tịnh. Trong lịch sử, Kim cương thừa được thực hành trong bí mật; bởi vậy được gọi là Mật thừa. Bí mật ở đây có nghĩa là Đức Phật đã không truyền trao giáo pháp này rộng rãi, mà chỉ truyền cho những đệ tử có đủ thắng duyên cùng thuộc về cảnh giới của một mandala. Tương tự như vậy, giáo pháp Tantra phải được thực hành bí mật. Bản tôn Yoga được thực hành với trí tuệ Tính không. Hành giả phải kiểm soát được tâm của chính mình, có trí tuệ Tính không đồng thời phải thấu hiểu và quán tưởng các biểu tượng Bản tôn. Các mantra nghĩa là hộ trì tâm. Hộ trì tâm khỏi các pháp thế gian và sự chấp thủ vào chúng. Tantra là một con đường đưa tới Phật quả rất nhanh chóng, nên được gọi là thừa - "Chân ngôn thừa, Kim Cương thừa hay Mật thừa.” Trong một số mandala, ngài thị hiện là một tăng sĩ, nhưng hầu hết ngài đều thị hiệnPháp chủ của Mandala.

"Chúng ta thấy rằng giác ngộ là có thể bởi vì không có sự khác biệt giữa bản chất tính không của tâm chúng ta và tâm của một vị Phật. Bởi vì tâm không tồn tại cố hữu, nên chúng ta có thể tận trừ các phiền não. Chúng hòa tan vào như thị và khi đó chúng ta được tịnh hóa khỏi các phiền não. Và khi đó chúng ta đồng thời phát triển những phẩm chất giác ngộ của một vị Phật.” Đức Đạt lai Lạt ma đã tiếp tục thảo luận bản chất tịnh quang và tâm tỉnh giác, ngài chỉ ra rằng không có gì có thể chấm dứt tính tịnh quang và tỉnh giác cho nên những phiền não của tâm có thể được tận trừ. Ngài lưu ý rằng quán đỉnh Vairochana - abhisambodhi thuộc về thứ lớp thứ hai trong Tantra Kim Cương thừa, Tantra Nghi quỹ. Ngài đã thụ nhận Tantra này từ bậc thầy của ngài là Ling Rinpoche tại Tsuglagkhang ở Dharamsala và sau khi thụ nhận quán đỉnh, ngài đã giành thời gian nhập thất nghiêm mật để thực hành. Cuối cùng ngài chia sẻ rằng, mục đích của thực hành là để viên mãn các mục đích tạm thời và tối thượng cho hết thảy chúng sinh và điều quan trọng là để trưởng dưỡng tâm từ bi và trí tuệ tính Không.

Phúc Cường trích dịch

Nguồn: www.Dalailama.com/news

Chú thích các hình trên: (từ trên xuống dưới) 1. Đức Đạt Lai Lạt Ma luận giảng về Phật giáo Kim cương thừa tại trường Đại học Shuchi, Kyoto, Nhật Bản vào ngày 10 tháng 04 năm 2014 . Ảnh / Văn phòng Tây Tạng, Nhật Bản

2. Thính chúng lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ giáo pháp tại trường Đại học Shuchi, Kyoto, Nhật Bản vào ngày 10 tháng 4 năm 2014 . Photo / Jeremy Russell / OHHDL

3. Hiệu trưởng trường Đại học, sau buổi thuyết Pháp tại Đại học Shuchi, Kyoto, Nhật Bản vào ngày 10 tháng 4 năm 2014 Photo / Văn phòng của Tây Tạng, Nhật Bản

4. Đức Đạt Lai Lạt Machư tăng từ tự viện Namgyal cử hành các nghi thức chuẩn bị trao truyền quán đỉnh Tỳ Lô Giá Na và A Xúc Bệ Phật tại đại học Auditorium Koyasan tại Koyasan, Nhật Bản vào ngày 14 tháng 4 năm 2014 . Ảnh / Jeremy Russell

5. Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ giáo pháp tại Koyasan , Nhật Bản vào ngày 14 tháng 04 năm 2014 . Photo / Jeremy Russell / OHHDL

Nguyên tác bản văn Anh ngữ:
Explaining Tantra in Tibetan Buddhism at Shuchi (Eng.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31686)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10538)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12770)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16680)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10828)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22981)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12347)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10031)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11933)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10704)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9823)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13850)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10472)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9913)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10794)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9507)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14533)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10567)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9341)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12036)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9702)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10221)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19154)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8994)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14609)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9054)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10540)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10003)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24294)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9482)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8011)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9280)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15357)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21412)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12174)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10236)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19260)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7984)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9399)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15911)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant