Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Chi Tiết Dị, Đồng Về Đức Phật Lịch Sử

16 Tháng Bảy 201409:52(Xem: 12328)
Những Chi Tiết Dị, Đồng Về Đức Phật Lịch Sử

Những Chi Tiết Dị, Đồng

Về Đức Phật Lịch Sử

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

blankSau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác. Điều ấy cũng đúng thôi, vì đã trải qua trên 2600 năm, mà trong đó là khẩu truyền suốt 4 lần kết tập, và lần thứ năm, tại Tích Lan, khoảng năm 450-502 trước Tây lịch mới được khắc chép lên là Bối, thì thử hỏi, ai dám chắc tư liệu của mình là chính xác, là duy nhất đúng về đức Phật lịch sử?

Do vậy, trước những thắc mắc của chư độc giả, tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông; và do vậy, chắc sẽ có những điểm dị biệt nào đó. Tôi không dám chắc những chi tiết lịch sử ấy nó đúng hơn các nguồn khác, nhưng mà nó hợp lý, nhất quán và không mâu thuẫn nhau. Trong tinh thần ấy, tôi xin được trả lời một số câu hỏi được xem là phổ biến nhất:

A- Đây là nguyên văn lá thư của quý sư cô:

“Chúng con vẫn biết, có rất nhiều những nguồn sử liệu về Đức Phật lịch sử. Bắt đầu chỉ là sự khẩu truyền, trải qua thời gian quá dài, lại thêm là sự lưu truyền trải rộng theo nhiều hướng khác nhau, tất nhiên không tránh khỏi có sự “chệch choạc” khi đem so sánh đối chiếu.

Cho đến nay, sử liệu Phật giáo xem như có hai nguồn rất phân biệt: Nam truyền và Bắc truyền. Quan điểm về Đức Phật cũng có hai hướng khác nhau: Đức Phật lịch sửĐức Phật huyền thoại. Tùy vào lòng tin của từng người, chúng ta có quyền tin và chấp nhận theo nguồn sử liệu nào: Nam truyền hay Bắc truyền; hoặc chấp nhận quan điểm lịch sử hay Đức Phật huyền thoại. Nếu chúng ta đã tin và chấp nhận: “Đức Phật là nhân vật có thực …”, (có ghi chép thành lịch sử với những niên đại cụ thể…) thì những niên đại lịch sử này khi xâu chuỗi lại thiết yếu phải có sự “logic” hợp lý của nó. Vậy mà … rất nhiều chi tiết trong sử sách lại cứ như “chồng chéo” với nhau.

Thí dụ:

- Theo Nam truyền thì Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia năm 29 tuổi, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 35 tuổi;à Khi trở về thăm hoàng tộc, con trai là La Hầu La 7 tuổi = chi tiết hợp lý.

- Theo Bắc truyền thì Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia năm 19 tuổi, 5 năm đi tìm đạo, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 30 tuổi…. à Khi trở về, La Hầu La 7 tuổi = Chi tiết không hợp lý.

Kính bạch Hòa Thượng!

Khởi nguyên của “Khối nghi” của chúng con là khi chúng con tìm hiểu về Sự ra đời của Bát Kỉnh pháp, dò tìm nhiều nguồn sử liệu, chúng con bất ngờ khám phá ra những chi tiết “không nhất quán” về tuổi tác của Ngài A Nan. Cũng cùng trong một quyển “Phật pháp bách vấn”, Tổ Tư vấn Báo Giác ngộ trả lời bạn đọc về tiểu sử của Bà Gotami và tiểu sử của Ngài A Nan … đem đối chiếu với nhau thì lộ ra chi tiết: Bát kỉnh pháp ra đời, Ni giới được thành lập 5 năm sau ngày Phật thành đạo, là nhờ Ngài A Nan cầu xin giúp đỡ, mà lúc đó thì Ngài mới 5 tuổi và 25 tuổi mới làm thị giả cho Phật!!

Kính bạch Hòa Thượng!

Chúng con thật sự không có khả năng nghiên cứu những bản kinh nguyên bản, chúng con chỉ tìm học trên những tài liệu – là công trình nghiên cứu của các học giả, của các Bậc tôn túc….

* Quyển “Sự tích Đức Phật Thích Ca” của Trần Hữu Danh (NXB Văn Học 2009):

- A Nan là em chú bác với Phật, nhỏ hơn Phật 19 tuổi (Trang 480)

* Quyển “Suối nguồn diệu giác” của HT Thích Thanh Quang (NXB Tổng hợp Tp HCM 2009):

- A Nan sinh vào đêm Đức Phật thành đạo. …chư thiên reo mừng, trời đất chuyển rung, khắp nơi hoan lạc cho nên vua Thiện Giác mới đặt tên cho hoàng tử mới chào đời là Ananda – Khánh Hỷ (Trang 271).

* Quyển “Sử 33 vị Tổ Ấn Hoa giảng giải” của Hòa Thượng Thích Nhật Quang (NXB Tổng hợp Tp HCM 2013):

- Tổ A Nan: Ngài là con vua Hộc Phạn, dòng Sát đế lợi… , em con nhà chú của Phật Thích Ca (sanh sau Phật 30 năm) …. Đến năm 25 tuổi xin theo Phật xuất gia. (trang 33).

* Quyển “Con người giác ngộ” của Hòa Thượng Thích Phước Tú (NXB Tôn giáo 2009):

- Ngài xuất gia tìm đạo năm 19 tuổi ( mùng 8 tháng 2 âl)….Ngài thành đạo năm 30 tuổi ….(trang 8).

* Trên Thư viện hoa sen con tra tìm được: Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật - Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư; Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ và biên soạn phần Phụ Lục. Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên.

....Từ đó tôn giả làm thị giả thường xuyên cho Phật. Lúc đó tôn giả khoảng trên 20 tuổi. (Theo các niên đại đã được chính thức công nhận về tiểu sử đức Phật, tính ra, tôn giả A Nan được chọn làm thị giả thường xuyên cho Phật lúc 35 tuổi, và đã hầu hạ Phật cả thảy 25 năm. - Chú thích của người dịch).

Ngoài ra, còn nhiều quyển sách khác chúng con đã đọc, thí dụ: Đường xưa mây trắng và Trái tim của Bụt của TS Thích Nhất Hạnh, Đức PhậtPhật pháp, Phật và Thánh Chúng…. Khi ấy chúng con không lưu tâm đến những chi tiết này, mà hiện tại thì những quyển sách ấy chúng con không có trong tay nên không thể xem lại.

Kính bạch Hòa Thượng!

Chi tiếtHòa Thượng cho biết: “Ngài A Nan đồng tuổi Phật” quả thực là điều vô cùng mới mẻ mà chúng con mới được biết đến. … Nhưng, từ đó suy ra:

- Nếu Ngài A Nan đồng tuổi với Phật thì khi Phật 55 tuổi già yếu, cần chọn thị giả tuổi còn trẻ để hầu cận, giúp việc, chăm sóc Phật,… A Nan cũng 55 tuổi, đâu còn ở tuổi trẻ trung để đảm trách công việc của thị giả như tiêu chuẩn các Đại đệ tử đề ra?

- Bà Kiều Đàm Di đi xuất gia 5 năm sau ngày Phật thành đạo, lúc đó A Nan 40 tuổi, nhưng khi đó A Nan vẫn chưa làm thị giả cho Phật, (Mãi đến 55 tuổi A Nan mới làm thị giả).

Kính bạch Hòa Thượng!

Trên đây chỉ là những suy nghĩ tìm hiểu nhằm làm sáng tỏ điều chúng con còn thắc mắc. Hòa Thượng đã từ bi chỉ dạy thì kính mong Hòa Thượng chỉ dạy cho trót. Hòa Thượng có thể dạy cho chúng con biết một số sách cần tìm đọc thêm, chúng con vô cùng cảm tạ”.

Tóm tắt lá thư trên, có bốn câu hỏi:

1- Thái tử Siddhattha xuất gia năm 29 tuổi, 6 năm tu khổ hạnh, thành đạo năm 35 tuổi;à Khi trở về thăm hoàng tộc, con trai là La Hầu La 7 tuổi = chi tiết hợp lý.

2- Tôn giả Ānanda, bao nhiêu tuổi ngài xuất gia, lúc nào?

3- Bà Gotamī xuất gia và sự ra đời của Bát Kỉnh Pháp.

4- Ngài Ānanda làm thị giả lúc đã 55 tuổi có hợp lý không?

Khi tôi viết MCĐMVNN theo dạng tiểu thuyết lịch sử thì tư liệu rất nhiều, rất nhiều... để tiện việc so sánh, đối chiếu, lựa chọn. Nhưng cuối cùng, khi muốn lấy địa danh, tên, tiểu sử của chư vị Thánh Tăng, Thánh Ni, tôi dừng lại nơi quyển “Dictionary of Pāi proper names “ vì người ta nghiên cứu rất khoa học, có truy nguồn chư kinh điển, chú giải khá tin cậy.

Bây giờ, tôi xin trả lời có vẻ khái quát một chút vì câu này nó dính vào câu khác:

I- Thái tử Siddhattha ra đời cùng tuổi với ngài Ānanda, Yasodharā... là dựa theo tư liệu:

- Ānanda: Ngài đến cõi đời từ cung trời Đẩu Suất, cùng một ngày sinh với Bồ Tát (chỉ thái tử Siddhattha), cha là đức thân vương Amitodana (em vua Suddhodana –Tịnh Phạn vương), dòng Sākya - dịch thoát từ đoạn: “ He cames to earth from Tusita and was born on the same day as the Bodhisatta, his father being Amitodana the Sākyan, brother of Suddhodana – xem “Dictionary of Pāi proper names “ Q.1, trang 249.

Thật ra, không chỉ có Ānanda đồng sinh với thái tử, mà còn 6 nhân, vật khác nữa, đó là Yasodharā, Kāludāyi, ngựa Kiền Trắc, Sa-Nặc, Cây Bồ Đề và Bốn hầm châu ngọc. Ví dụ, muốn xem Ya-du-đà-la: Bà còn có nhiều tên khác như Rāhulamātā, Bhaddakacca, Bimbādevi... ; sinh cùng ngày với Bồ Tát và về làm vợ ngài lúc nàng 16 tuổi (She was born on the sames day as the Bodhisatta... married him (Gotama) at the age of sixteen) - Xem Sđd, Q2. trang 742. Muốn xem thêm để biết: Khi thái tử sanh, có 7 nhân và vật đồng sanh: Đó là Cây Bồ-đề, Mẹ của Rāhula, Bốn hầm châu ngọc, voi, ngựa Kiền Trắc (Kanthaka), Sa-nặc (Channa) và Kāludāyī (On the sames day seven other being were born: The Bodhi-tree, Rāhula’s mother, the four Treasure-Troves, his elephant, his horse Kanthaka, his charioteer Channa and Kāludāyī – xem Sđd. Q1. trang 789)Lưu ý, trong đoạn vừa rồi có điểm sai, phải thay “elephant” bằng Ānanda như những nơi khác.

- Thái tử xuất gia năm 29 tuổi: Xem đoạn văn sau đây để biết thái tử đã sống 29 năm trong 3 tòa cung điện Ramma, Suramma, Subha trong 3 mùa như thế nào: “ The Bodhisatta is reported to have lived in the household for twenty-nine years a life of great luxury and excessive ease, surrounded by all imaginable comforts. He owns three palaces – Rama, Suramma and Subha – for the three seasons (Xem Sđd. Q1. trang 789).

- Siddhattha tìm đạo gặp hai vị thầy rồi khổ hạnh 6 năm: Đó là đạo sĩ Āḷāra-Kālāma và Uddaka-Rāmaputta. Vì không tìm thấy sự giác ngộ, giải thoát rốt ráo nên ngài mới đi đến ngôi làng Senānī tại Uruvelā, và tại đây, trong 6 năm, ngài đã thực hành khổ hạnh... (Xem một đoạn văn khá dài... He then goes to Senānīgāma in Uruvelā and there, during six year, practises all manner of severe austerities, such as no man had previously undertaken – Sđd, Q1, trang 792).

II- Vậy là đúng năm 35 tuổi: Đức Phật sau khi thành Đạo, ngài xuống Vườn Nai (Lộc Giả), độ năm anh em đạo sĩ Koṇḍaññā, độ công tử Yasa cùng 55 bạn hữu – như vậy là có 60 vị thánh tăng A-la-hán đầu tiên, thành lập giáo hội đầu tiên, ngài khuyên, mỗi người hãy đi hoằng hóa mỗi phương, đừng đi chung nhau, vì lợi ích cho chư thiênnhân loại. Đức Phật cũng đi, ngài trở lại Uruvelā độ 3 anh em đạo sĩ Kassapa thờ thần lửa cùng 1000 đồ chúng của họ. Đức vua Bimbisāra dâng cúng Trúc Lâm tịnh xá (Rājagaha), và đức Phật nhập hạ đầu tiên ở đây, có thêm hai vị đại đệ tử Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallāna Mục-kiền-liên) năm ngài 36 tuổi. Đên năm an cư thứ hai, ngài mới trở về thăm quê hương có viên đại thần Kāludāyī (bạn, đồng sanh thuở trước) thỉnh mời. Thế là lúc này, Rāhula đúng 7 tuổi. Ở tại quê nhà 2 tháng, đức Phật 3 lần độ vua cha đắc quả từ Tu-đà-hoàn, sang Tư-đà-hàm lên đến A-na-hàm và bà Gotamī đắc quả Tu-đà-hoàn. Cũng lần này, đức Phật cho Rāhula xuất gia Sa-di và tôn giả Sāriputta làm thầy tế độ. Đức Phật cũng bảo hoàng tử Nanda xuất gia luôn trong dịp lễ cưới của ông.

Trở lại Vương Xá, lúc đức Phật dừng chân tại khu rừng Anupiya thì 6 ông hoàng dòng Sākya cùng người thợ cạo Upāli tìm đến xin xuất gia (With these he returns Rājagaha, stopping on the way at Anupiya, where Anuruddha, Bhaddiya, Ānanda, Bhagu, Kimbila and Devadatta, together with their barber, Upāli, visit him and seek ordination – xem Sđd, Q1, trang 796... còn nhiều chi tiết hơn thế nữa).

Vậy tôn giả Ānanda xuất gia trong mùa an cư thứ hai của đức Phật (Ānanda entered the Order in the second year of the Buddha’s ministry, to gether Sākyan princes, such as Bhaddiya, Anuruddha...)

Đến mùa an cư thứ tư, đức Phật về thăm vua cha lần thứ hai khi ông đang bị bệnh. Đức Phật đã độ vua cha đắc quả A-la-hán và sau đó là ông qua đời. Sau lễ hỏa táng, cả ba lần bà Gotamī xin xuất gia nhưng đức Phật từ chối. Tuy nhiên, khi đức Phật trở lại Trúc Lâm, Vương Xá cho kịp an cư mùa mưa lần thứ năm, lúc đang dừng chân tại Vesāli tại Sảnh Đường Nóc Nhọn (Kūṭāgārasālā), thì bà Mahāpajāpati Gotamī cùng các công nương dòng Sakyā đã tự động cạo đầu, mang y và bát bộ hành từ Kapilavatthu, trải qua 45 do-tuần (mỗi do-tuần 16 cây số) tìm đến Vesāli xin xuất gia (The women cut off their hair, don yellow robes and follow him thither). Đức Phật vẫn không thay đổi ý định (The Buddha would not change his mind).

Nhìn thấy chư mệnh phụ với vẻ mặt chán nản, thất vọng, ứa lệ, chân cẳng sưng phồng đang đứng ngoài Sảnh Đường Nóc Nhọn (Kūṭāgārasālā), tôn giả Ānanda xúc động vào bạch Phật xin cho họ xuất gia – nhưng cả ba lần, đức Phật đều từ chối. Sau đó, tôn giả Ānanda “thay đổi chiến thuật”, hỏi đức Phậtnữ giới có khả năng thành đạt đạo quả hay không? Khi đức Phật đáp là có thì tôn giả sử dụng biện tài xin cho họ xuất gia. Cuối cùng đức Phật chấp thuận...(Đấy là phỏng dịch từ đoạn: Ānanda found the women dejected and weeping, with swollen feet, standing outside the Kūṭāgārasālā; having what had happened, he asked the Buddha to grant their request. Three times he asked and three times the Buddha refused. Then he changed his tactics. He in quired of the Buddha if women were at all capable of attaining the Fruits of the Path. The answer was in the affirmative, and Ānanda pushed home the advantage thus gained. In the end the Buddha allowed women to enter the Order subject to certain conditions. They expressed their great gratitude to Ānanda). Sau đó, đức Phật có trình bày lý do, nói rõ cho tôn giả Ānanda biết rằng, đáng ra là giáo pháp sẽ được tồn tại một ngàn năm, nhưng nếu có nữ giới xuất gia thì thời gian tồn tại của giáo pháp chỉ còn năm trăm năm! (The Sāsana would have lasted a thousand years, but now it would last only five hundred) – Theo chú giải thì một ngàn năm là tồn tại “chánh pháp”, còn sau đó là “tượng pháp” ; còn nếu tính cả thời “mạt pháp”, thì thay vì mười ngàn năm thì nay chỉ còn năm ngàn năm!

III- Về Bát Kỉnh Pháp: Đức Phật bảo rằng, nếu người nữ chấp thuận thọ trì 8 điều kiện (eight condition) thì giáo hội sẽ mở cửa cho họ. Đấy là vào hạ thứ năm của đức Phật, vào giáo hội tỳ-khưu-ni được thành lập, tại Vesāli.

8 điều kiện, Bát Kỉnh Pháp thì Nam Bắc Tông đều tương tự nhau:

1- Tỳ-khưu-ni dầu một trăm tuổi hạ cũng phải chào hỏi, đứng dậy, đảnh lễ thầy tỳ-khưu tăng – dù vị này mới xuất gia trong ngày hôm ấy.

2- Tỳ-khưu-ni mỗi năm phải tìm về an cư ở gần một trung tâm có tỳ-khưu tăng để được bảo vệ và nương tựa.

3- Cứ mỗi tháng hai kỳ, sau khi làm lễ bố-tát (Uposatha), tỳ-khưu-ni phải tìm đến tỳ-khưu tăng để học hỏi, nghe lời giáo giới.

4- Sau khi hành lễ Tự Tứ (Pavārana) tại trú xứ của mình, tỳ-khưu-ni phải đến chỗ tỳ-khưu tăng để làm lễ ra hạ một lượt nữa - để kiểm thảo xem trong ba điều thấy, nghe và nghi mình có lầm lỗi điểm nào chăng.

5- Tỳ-khưu-ni phạm “tăng tàn” , đã xưng tội, đã chịu phạt cấm phòng tại trú xứ của mình – còn phải xưng tội trước tỳ-khưu tăng nữa.

6- Nữ giới tử trong thời gian tập sự, thọ trì sáu giới (Sikkhamānā) trong thời hạn hai năm - phải cầu xuất gia thọ đại giới trước cả hai chúng tăng ni.

7- Bất luận trong trường hợp nào, tỳ-khưu-ni cũng không có quyền nặng lời chê bai, thóa mạ hay chỉ trích tỳ-khưu tăng.

8- Tỳ-khưu-ni không được quyền giáo giới, giảng dạy tỳ-khưu tăng, nhưng sám hối với tỳ-khưu tăng thì được!

8 điều này, tôi cũng có những điểm tồn nghi. Đây là mới hạ thứ năm, chưa có điều 3,4 chưa đầy đủ; và điều 5 cũng chưa có – vì đến hạ thứ 12, khi tôn giả Xá-lợi-phất xin đức Phật ban bố giới căn bản thanh tịnh (Pāṭimokkha) nhưng đức Phật chưa chuẩn thuận; và bộ luật này chỉ hoàn thành từng bước một trong suốt 45 năm hoằng hóa. Vậy thì nếu có hình thức lễ bố-tát chắc cũng đơn sơ, lễ tự tứ cũng vậy, riêng tội “tăng tàn” thì chắc chắn chưa có, vì chỉ hình thành khi bộ luật căn bản Pāṭimokkha hoàn chỉnh. Lại nữa, Bát Kỉnh Pháp chế định để đối trị hoàn cảnh nữ giới thời bấy giờ thì hoàn toàn lợi íchhoàn toàn thích hợp; nhưng thời đại ngày nay thì cũng nên thay đổi một số ít nội dung cho “phải lẽ” một tí. Đây là ý kiến riêng tôi, không đại diện cho ai cả!

IV- Tôn giả Ānanda làm thị giả vào mùa an cư thứ 20 của đức Phật tại Kỳ Viên tịnh xá: Trong suốt 20 mùa an cư, đức Phật chưa có thị giả chính thức, khi là vị này, lúc là vị khác, ví dụ các vị: Nāgasamāla, Nāgita, Upavāna, Sunakkhatta, Cunda, Sāgata, Rādha, Meghiya... mà chưa có vị nào làm cho đức Phật vừa ý. Đi vào chi tiết thì dài dòng, - là sau đức Ānanda được chư tôn trưởng lão đề cử thì đức Phật hài lòng! Vậy là suốt 25 năm còn lại của đức Phật, cũng là 25 mùa an cư, tôn giả Ānanda làm một vị thị giả rất mực trung thành, nghiêm túc, tinh cần trong bổn phận của mình. Đấy là chưa kể ngài còn là bậc học rộng, nghe nhiều...

Chỗ này tồn nghi: Đức Phật lúc ấy sức khỏe đã yếu, 55 tuổi, cần người phụ tá trẻ trung nhưng sao lại chọn ngài Ānanda cũng 55 tuổi? Đúng vậy, nhưng ta nên biết rằng, tôn giả Ānanda suốt đời không ốm bệnh, ngài thọ 120 tuổi, đồng với tuổi của Vị Tăng Hữu Bakkula (Ānanda lived to be very old: One hundred and twenty year; he is bracketed with Bakkula, as having lived to a great age – xem Sđd, Q1. trang 263).

Trước đây tôi cũng thắc mắc điều này, nhưng khi tra lục nơi này nơi kia, thấy tôn giả Ānanda sức khỏe tốt cho đến 120 tuổi thọ, tôi không còn nghi ngở nữa.

Thưa quý sư cô,

Kiến thức tôi có hạn, vả lại tôi chỉ là người học Phật, tu Phật không phải là nhà nghiên cứu nên không tránh khỏi những sơ suất ở đâu đó. Quý sư cô chỉ nên xem đây chỉ là tư liệu như bao nguồn tư liệu khác để tham cứu, so sánh, đối chiếu mà thôi. Nhưng chắc chắc là nguồn sử liệu này đáng tin vậy vì nó không mâu thuẫn, “chệch choạc” nhau! Quý sư cô có thể tự mình biết đâu đúng, đâu sai; ví như tự điển Phật học của Đoàn Trung Còn nói là 14 năm sau đức Phật giác ngộ, bà di mẫu của ngài mới xin Phật xuất gia!

B- Đây là nguyên văn lá thư thứ hai của quý thầy:

“Bạch Hòa Thượng! Con đọc trong chương Rừng Khổ Hạnh này, phát hiện có 1 chi tiết lịch sử mà HT viết khác so với các tài liệu khác mà HT không dẫn nguồn gốc sự khác biệt này. Đó là người dâng bát sữa cho Bồ Tát Sĩ Đạt Ta bên dòng sông Ni Liên Thiền, xưa nay ai cũng được dạy người dâng sữa là cô bé Sujata, con gái của 1 vị trưởng làng Senani trong làng Uu Lâu Tầng Loa, nếu không nói ngoa, nếu không có cô bé Sujata, chưa chắc gì chúng taĐạo Phật ngày nay, do dó công ơn của người dâng bát sữa năm xưa để cứu mạng Siddhatta quá lớn lao đối với chúng đệ tử Phật. Con đã đến thăm địa điểm lịch sử này 3 lần vào năm 2006, 2009 và 2011, mỗi lần đến con đều hướng dẫn phái đoàn đi kinh hành niệm Phật để cảm ơn ân nhân Sujata và giải thích rõ về câu chuyện cảm động xảy ra cách đây đúng 2602 năm, tính từ 2013 đến năm Phật thành đạo (589 trước TL) xin HT xem hình phái đoàn con viếng thăm phế tích Sujata đính kèm) nhưng theo HT thì người dâng sữa là cô bé Punna, người hầu của của Bà Sujata, xin HT hoan hỷ giúp con dẫn nguồn tư liệu về việc này, để độc giả không phải thắc mắc về chi tiết này.

Vấn đề thứ 2 là mối quan hệ giữa nàng Kỹ Nữ Ampapali & Thần Y Jivaka Komarabhacca

http://quangduc.com/p156a51315/33-than-y-jivaka-komarabhacca

http://quangduc.com/p157a51352/42-hoa-do-ky-nu-ambapali

Theo Sư Ông Nhất Hạnh (chương 33, quyển 2 Đường Xưa Mây Trắng, dựa vào Kinh Nikaya,Majjhima-nikaya 55: Jivaka-sutta; Tạp A-Hàm 622.),http://tuvienquangduc.com.au/TruyenNgan/197duongxuamaytrang.html, rằng Thần Y Jivaka (Kỳ Bà) là con trai của Kỹ Nữ Ambapali (người thành Tỳ Xá Li), đặc biệt, thần y Jivaka lại là con rơi của Vua Bimbisara, là anh hoặc em trai cùng cha khác mẹ của Thái Tử Ajatasattu ( A Xà Thế). Đây là chi tiết mới nhất về thâm cung bí sử của Vua Tần Bà Sa La.

Trong 2 chương trên của HT, con không thấy HT đề cập gì đến sự liên hệ huyết thống của 2 nhân vật lịch sử này.

Kính mong HT cho biết thêm chi tiết lịch sử mà HT Nhất Hạnh vừa công bố”.

Kính quý thầy,

Cảm ơn quý thầy đã lưu tâm về một số chi tiết lịch sử trong tác phẩm MCĐMVNN, cụ thể là chuyện nàng Sujātā dâng sữa cho bồ-tát, và chuyện liên hệ giữa kỹ nữ Ambapālī, đức vua Bimbisāra và thần y Jīvaka. Điều thầy thắc mắc cũng có rất nhiều người hỏi mà tôi chưa có dịp trả lời.

1- Chuyện thứ nhất:

Từ trước đến nay, bất cứ tư liệu nào cũng nói là nàng Sujātā (mà tàu âm là Tu-xà-đề) dâng sữa cho bồ-tát trong Rừng Khổ Hạnh. Điều ấy là đúng. Tác ý cúng dường là của nàng Sujātā, nhưng người trực tiếp mang sữa lại chính là cô ở gái, cô bé Puṇṇā đúng như tôi đã viết trong Rừng Khổ Hạnh mà thầy có nhắc đến. Chi tiết này tôi rút ở một tư liệu khá tin cậy.

Nếu trong thư viện của thầy có quyển Dictionary of Pāḷi Proper Names, quyển 2, trang 1186, nơi tên Sujātā, có nói đến chi tiết ấy. Nếu thầy không có sẵn, tôi sẽ chép ra đây một đoạn.

Sujātā: Daughter of Senānī, a landowner of the village of Senāni near Uruvelā. She made a promise to the god of the banyan-tree near by that she would offer a meal of milk-rice to the god if she gave birth to a son. Her wish was fulfilled, the son was born, and she sent maid, Puṇṇā, to prepare the place for the offering.

This was on the very day of the Buddha’s Enlightenment, anh Puṇṇā, finding Gotama sitting under the banyan, thought that she was the tree-god present in person to receive the offering. She brought golden bowl and offered it to him...

Tuy còn nhiều đoạn khác nữa, nhưng như vậy cũng đã đủ làm tư liệu để tôi viết rồi. Còn có một số nguồn khác nữa, ít phổ biến, còn cho biết rằng, con trai của nàng Sujātā, tên là Yasa (không phải là công tử Yasa ở Vườn Nai đâu) sau này xuất gia, đắc quả A-la-hán; nàng Sujātā và vợ của Yasa sau này đắc quả Nhập Lưu.

2- Chuyện thứ hai:

Trung bộ kinh, kinh thứ 55 Jīvaka-Komārabhacca sutta, thầy mở mà xem, không có nhắc bất kỳ chi tiết nào, bảo rằng Jīvaka là con rơi của đức vua Bimbisāra với nàng Ambapālī cả. Tư liệu của tôi dùng thì có nói đến con rơi của hai vị ấy, nhưng lại là cậu con trai Vimala Koṇṇdañña, sau này xuất gia, có mặt trong Trưởng lão Tăng kệ.

Còn có một số chi tiết khác nữa.

Đức vua Bimbisāra có hoàng hậu là Kosaladevī, con gái của Mahākosala, em gái của vua Pāsenadi (Ba-tư-nặc), sau sinh thái tử Ajātasattu (A-xà-thế). Bà thứ hai, hoàng phi Khemā, sau xuất gia tỳ-kheo-ni, đắc A-la-hán quả, được tôn xưng là đệ nhất trí tuệ trong ni chúng. Bà thứ ba là Sīlava, thứ tư là Jayasena.

Bà thứ năm ít ai để ý, là kỹ nữ có tên là Padumavatī, ở tại Ujjenī, có một con trai với vua là Abhaya (Abhayarājakumāra). Có lẽ con sinh không chính thức nên bảy tuổi, bà mới gởi con đến cho đức vua Bimbisāra. Ông hoàng Abhaya này mới chính là cha nuôi của thần y Jīvaka (Abhaya was Jīvaka’s natural father). Còn Jīvaka (Jīvaka-Komārabhacca) và cô gái giang hồ Sirimā (trong truyện Con gái đức Phật), là anh chị em, đều là con của bà kỹ nữ Sālavatī tại Rājagaha (Sālavatī: A courtezan of Rājagaha, she was the mother of Jīvaka-Komārabhacca and of his sister Sirimā).

Có lẽ từng ấy cũng đáp ứng được những thắc mắc của quý thầy rồi.

C- Đây là câu hỏi khác: Theo truyền thống Bắc tạng và rải rác đó đây, trên các tạp chí Phật giáo, trên các trang mạng đều nói là đức Phật thiền định 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề mới đắc quả Chánh Đẳng Giác – còn trong tác phẩm MCĐMVNN thì hòa thượng nói là “49 ngày sau khi thành Đạo” rồi diễn tiến từng 7 ngày một, đức Phật làm gì, làm gì, ở đâu khá rõ ràng và rất hợp lý.Tuy nhiên, hòa thượng không ghi rõ nguồn nên chúng con không biết truy cứu, so sánh được.

Đầu tiên, tôi xin thưa rõ, là 49 ngày thiền định thì không thể giác ngộ, giải thoát được; vì định, dù là định sâu cách mấy thì nó cũng chỉ lắng yên tham sân, phiền não như đá đá dằn cỏ thôi. Lại nữa, nếu mà định sâu thì cả 6 căn đều bít hết, chỉ còn trạng thái nhất tâm và xả - trả về dòng chảy Bhavaṅga như một giấc ngủ ngon không mộng mị. Tuy nhiên, hai tầng thiền cao nhất là “vô sở hữu xứ thiền”“phi tưởng phi phi tưởng thiền”, Bồ Tát của chúng ta cũng từ bỏ vì nó không đưa đến tận diệt tham sân, phiền não. Nói như vậy để biêt rằng, thiền định không thể có tuệ được; phải từ thiền định, trở lại cận hành định, có tầm có tứ, nghĩa là có tư duyquan sát mới quán ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên để thấy rõ thực tánh vô thường, vô ngã của tâm và pháp được.

Điều thứ hai, tôi cũng xin thưa rõ, theo Tam tạng Pāḷi văn, chuyện 49 ngày sau khi thành Đạo đã trở thành chi tiết lịch sử đúng đắn, đương nhiên, không cần phải “tồn nghi” trong tất cả kinh điển của các nước Phật giáo Nam tông. Vì vậy mà tôi không ghi rõ nguồn. Nhưng muốn tìm nguồn thì trong Tam tạng Pāḷi đều đồng nhất; và nếu khôngthì giờ, quý vị có thể tìm trong hai tư liệu sau đây, đều bằng tiếng Anh:

- “Dictionary of Pāḷi Proper names” – Q1. trang 794 - ở đây chỉ ghi tóm tắt 4 tuần sau khi Phật thành Đạo.

- Cứ gõ Google: “Seven week after Enlightenment” thì có cả hàng chục trang Web. nói về 7 tuần ấy rất rõ ràng.

Cảm ơn tất cả chư vị.

Kính chúc vô lượng an lành.

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11165)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10969)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11205)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11263)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14261)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12490)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26351)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11708)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29268)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11661)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10794)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11101)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10956)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10778)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11329)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10791)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12259)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11298)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10059)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11410)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13419)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11262)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11474)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12697)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13782)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13196)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12810)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12170)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30140)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38130)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24907)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10971)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11737)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10678)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11229)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11536)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12912)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12101)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11325)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10216)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11810)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11210)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10904)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13085)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10202)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10884)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10948)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14542)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10694)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21964)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12074)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11434)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30180)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19591)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20586)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12563)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12560)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21195)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13258)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14473)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30421)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28024)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28372)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20964)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28686)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27235)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21959)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21489)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26225)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21632)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23409)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26408)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23208)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19849)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22933)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21167)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19965)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15418)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25678)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14131)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26071)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22525)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29141)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22560)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22887)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13213)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23198)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13173)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28966)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30500)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14250)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26269)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33232)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35569)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8645)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13316)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30666)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22143)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21776)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant