Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

21 Tháng Mười Hai 201405:26(Xem: 14881)
Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

 

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

Hoang Phong

           

 

            Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai. Những ước mơhy vọng ấy có thể rất khiêm nhường như trả bớt nợ nần, kiếm đủ ăn cho gia đình, thế nhưng cũng có những ước mơ to lớn hơn như xây thêm một ngôi biệt thự, sắm một chiếc xe hơi mới, hoặc hùn hạp đầu tư trong những dự án kinh doanh quan trọng. Dù là những người phải chật vật vì sinh kế hay là các "đại gia" thì Tết luôn là một dịp để tất cả cùng  quên đi năm cũ và gác lại những gì sau lưng mình để mà gửi đến nhau những lời chúc lành tốt đẹp nhất cho năm mới.

           

            Thế nhưng theo truyền thống thì Tết cũng là dịp để tưởng nhớ đến những người đã khuất, ngoài ông bà hay cha mẹ mình ra thì cũng còn rất nhiều những người khác nữa. Đó là những người dù không thuộc gia đình mình, không cùng chính kiến hay lý tưởng với mình nhưng cùng mang một dòng máu và nguồn gốc tổ tiên với mình. Vì thế thiết nghĩ trong những ngày xuân chúng ta cũng nên mở rộng lòng mình để tưởng nhớ đến tất cả những người đã khuất, nhất là những người kém may mắn hơn mình đã phải nằm xuống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, phi lý và điên rồ, mang lại không biết bao nhiêu đau thương.  

 

            Những người đã vĩnh viễn ra đi bao giờ cũng yên lặng, không còn ồn ào, náo động, với đầy rẫy những hy vọngước mơ của những kẻ đang còn ngụp lặn trên cõi đời này như chúng ta hôm nay nữa. Nếu muốn thấu hiểu và chia sẻ cái yên lặng ấy với họ thì chúng ta cũng phải nhận ra cái yên lặng trong lòng mình, và đồng thời cũng phải cảm nhận được nó trong bối cảnh chung quanh. Thật vậy, giữa cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ngày Tết thì cái yên lặng ấy quả rất khó phát hiện, vì thế chúng ta cũng nên nén lòng mình lắng xuống để có thể trực diện với nó. Sự yên lặng ấy rất kín đáo, nó len vào giữa những tiếng cười và tiếng khóc, nó nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi.

 

            Bên tách trà đầu xuân, những mong một vài vần thơ góp nhặt dưới đây đã được viết từ lâu có thể sẽ gợi lên một chút yên ắng và bâng khuâng nào đó trong lòng chúng ta. Thế nhưng biết đâu những vần thơ ấy cũng có thể khiến cho tách trà bớt thơm và đĩa mứt bớt ngọt hơn trong những ngày Tết, thì cũng xin người đọc niệm tình thứ lỗi mà hãy cùng hân hoan chào đón một năm mới tràn đầy hy vọng.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 03.12.14

 

 

Bài thơ thứ I:

 

            Bài thơ này được viết để tặng một người bạn cũ mà tôi gặp lại trong một dịp khá bất ngờ tại Hà Nội vào khoảng cuối năm 1989, trong một chuyến công tác ở Việt Nam.

 

            Này T. ạ, ngày hôm đó, từ khách sạn Hữu Nghị đi đến nhà em trên đường Hàng Bún, ngang khách sạn Bông Sen, và trước khi bước vào khu chợ, anh trông thấy một người phụ nữ còn trẻ, trẻ lắm, chỉ độ hơn hai mươi. Người phụ nữ gánh một thúng rau phía trước, trong thúng phía sau có một đứa bé độ lên ba, đầu nghiêng sang một bên, đang ngủ gà ngủ gật. Đứa bé mặc áo vá ở vai, ở lưng, và quần cũng vá. Thúng phía trước đặt một cái rá vừa miệng thúng, bên trên có ba bó cải cúc, hai bó rau muống, một quả bí đao dàì hơn gang tay, một ít cà pháo và một ít ớt gom lại thành hai nhúm cạnh nhau.

 

            Anh bước theo cùng một nhịp với chiếc gánh kẻo kẹt trên vai người phụ nữ. Thúng rau nhẹ hơn đứa bé nên người phụ nữ phải dang tay ra phía trước để ghì xuống giữ cho quang gánh cân đồng sức nặng. Dáng người phụ nữ mảnh mai và nhanh nhẹn. Anh rảo bước nhanh hơn và ngoảnh lại nhìn. Người phụ nữ mộc mạc, không chải chuốt. Mái tóc ngang vai, cài vén ra phía sau bằng một chiếc lược sừng. Mặt người phụ nữ thon dài nhưng đầy đặn, tuy dính vài vết bùn trên má và trên trán, nhưng không vì thế mà che dấu được nét trẻ trung, có thể còn gọi là non nớt nữa. Nhưng T. ạ, cặp mắt, cặp mắt buồn, bình thản, lạnh lùngnhẫn nhục. Một cặp mắt hình như đang chôn dấu một cái gì đó, đang đè nén một tình cảm nào đó. Một cặp mắt sâu thẳm không mấy khi anh được trông thấy.

 

            Hôm nay giữa biển khơi của vùng Bắc Âu, trời thấp và gió lạnh, lạnh hơn nhiều so với Hà Nội ngày hôm ấy, anh bỗng chợt nhớ đến bóng dáng của người phụ nữ gánh con và gánh rau đi về phía chợ Hàng Bún, hướng nhà em. Cái hình ảnh ray rứt đó làm cho anh nghẹt thở và khiến anh liên tưởng đến một giai đoạn lịch sử trên quê hương ta.

 

 

                Ru Con

 

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ còn cuốc đất lại còn tưới rau.

Chợ mai mẹ gánh cho mau,

Thúng rau phía trước thúng sau con ngồi.

Đong đưa nhịp võng à ơi,

Mẹ mơ mẹ tưởng đến ngày con khôn.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Mẹ lau nước mắt mẹ mòn nhớ thương.

Nhìn con nhắm mắt mà thương,

Để mẹ trông lén vào gương chải đầu.

Ru con giấc ngủ chìm sâu,

Thương con lòng mẹ âu sầu héo hon.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Quần con rách nát mẹ còn phải khâu.

Con ơi con ngủ cho lâu,

Để mẹ ngồi khóc mẹ đau một mình.

Lắc lư nhịp võng rung rinh,

Tủi thân cho mẹ một mình cô đơn.

Ngày nào mẹ gặp cha con,

Yêu cha mẹ mới tuổi tròn đôi mươi.

Nhìn con giấc ngủ nửa vờì,

Nhớ cha quên cả tuổi đời còn xanh.

Ngày xanh sao khéo mong manh,

Hoa chưa đơm trái trên cành đã tan.

À ơi con ngủ cho ngoan,

Cha con một nắm xương tàn rừng sâu.

Tình yêu như giọt mưa ngâu,

Chưa chùi giọt ngắn đã lau giọt dài.

Thương cha con ngủ cho say,

Để mẹ ngồi nhớ những ngày mẹ yêu.

Yêu cha con những buổi chiều,

Mồ hôi ướt áo nắng chiều nhạt phai.

Cha con chiếc áo sờn vai,

Lần đầu mẹ nhớ thuở ngày gặp nhau.

Áo này mẹ gối lên đầu,

Mẹ ôm mẹ ngủ vẹn màu thủy chung,

Nhớ sao thương mấy cho cùng,

Cha con lạnh lẽo hố chung xương tàn.

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ mở cái áo mẹ quàng lên tim.

À ơi con ngủ cho im,

Áo này mẹ đắp mẹ tìm lấy hơi.

Bao giờ con lớn con ơi,

Con mặc được áo mẹ vui mẹ mừng.

 

            Chờ lưng con đủ dài, vai con đủ rộng để khoác chiếc áo này của cha là hy vọng của mẹ. Niềm hy vọng đó sẽ giúp mẹ đủ can đảm để sống và để cam chịu số phận hẩm hiu của mẹ.

 

…Nhưng đến ngày đó anh biết không, em cũng sẽ phải già đi vì nhọc nhằn và thương nhớ. Hình bóng anh có lẽ cũng sẽ mờ dần trong đôi mắt em. Tai em cũng sẽ lãng để không còn nghe thấy tiếng thở của anh mỗi đêm. Chiếc áo này cũng sẽ phai nhạt hơi anh…

           

            Con hãy ngủ cho say, để mẹ cởi cái quần này của con mà vá rồi giặt cho con. Mẹ hứa là Tết năm nay, mẹ sẽ mua cho con một chiếc quần mới, nhưng mẹ không thể phá chiếc áo này của cha để may quần cho con. Đó là kỷ vật duy nhất của cha con còn lại. Chiếc áo này mẹ còn nhớ cha con đã mặc khi gặp mẹ lần đầu. Những quần áo khác của cha, mẹ đã bán đi từ năm ngoái, khi con ốm nặng.

 

            Con hãy nhắm mắt ngủ yên, như thế con sẽ cho riêng mẹ một vài giây phút ngắn ngủi để soi gương và chải lại mái tóc của mẹ. Thương cha mẹ thấy xấu hổ khi soi gương và chải tóc trước mặt con. Mẹ biết mẹ còn trẻ, mái tóc mẹ còn xanh. Mẹ rất sợ nhìn thấy hình bóng mẹ trong gương. Mẹ cố quên đi và chối bỏ những ngày xanh của mẹ.

 

            Mẹ không kể cho con nghe những ngày hạnh phúc của mẹ bên cha, vì mẹ cũng không dám nghĩ đến nữa. Những ngày đó ngắn ngủi lắm, nhưng êm đềm biết bao.

 

            Mẹ cũng không nói là tại sao cha con đã chết. Mẹ chỉ biết rằng những người đồng đội với cha con nhắn về cho biếtcha con đã nằm xuống với nhiều người khác nữa bên lề một con đường mòn trong dãy Trường Sơn, gần một thôn xóm nào đó. Tên gọi nơi này là gì thì mẹ cũng đã quên rồi vì chẳng biết là nó ở đâu. Đối với mẹ, cha con lúc nào cũng sống bên cạnh mẹ, an ủi mẹ , khuyến khích mẹ và giúp mẹ can đảm để nuôi con.

            Khi lớn lên mẹ sẽ cho con đi học. Trong những giờ học lịch sử, cô giáo sẽ giảng cho con nghe tại sao cha con phải chết. Thật vậy mẹ cũng không hiểu được rành rọt. Thỉnh thoảng có những đoàn người đến đây bắc loa hô hào, giải thích nhiều lắm, nhưng mẹ không đủ trí thông minh để hiểu và nhớ hết để mà lập lại cho con nghe. Ngày còn nhỏ nào mẹ có được đi học đâu.

            Thôi con ngủ đi, để mẹ được một lúc riêng tư để tưởng nhớ đến cha con và chải lại mái tóc của mẹ. Ngày mai mẹ sẽ gánh thúng rau phía sau, mẹ không cần ai trông thấy rau tươi của mẹ để gọi mua, mẹ sẽ đặt con vào thúng trước để lúc nào cũng nhìn thấy con. Mẹ sẽ vừa gánh vừa nói chuyện với con, dù con còn quá nhỏ để hiểu được mẹ đang nói gì. Mẹ sẽ chọn những quãng đường vắng để trò chuyện với con vì nếu người đi đường trông thấy thì biết đâu họ sẽ bảo mẹ là một người điên đấy.

 

                                    Bắc Hải (North Sea) thuộc hải phận của xứ Tô Cách Lan (Scotland)

                                                (trên giàn khoan Ocean Benloyal, ngày 12.06.1991)

 

 

Bài thơ thứ II:

           

 

              Đi thăm con

 

Hôm nay đi thăm con.

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Như khi con mới biết ngồi.

Từ quê lên hai ngày đường,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Năm mười tám tuổi,

Con nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Một viên đạn nhỏ đã giết con.

Ngày xưa cha con cũng đã ngã xuống,

Vì một viên đạn đồng nhỏ xíu.

Những viên đạn của hận thù hay vui sướng?

Kẻ thù của con có vui mừng khi bắn trúng con?

Chắc họ được bằng khen thưởng và gắn huân chương?

Con đã làm gì khiến kẻ khác hận thù con?

Con có đau đớn lắm không khi ngã xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này?

Con có cảm thấy viên đạn xuyên vào da thịt con và hất con ngã xuống?

Mẹ tin rằng con đã nghĩ đến mẹ và thương mẹ trước khi con nhắm mắt!

Con hãy thức dậy với mẹ!

Hôm nay mẹ lại nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Tập đi đôi chân còn vấp ngã.

Này con, đường xa chuối đã dập, xôi đã nguội.

Con hãy thức dậy với mẹ!

Con làm gì nên tội?

Để phải nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Ngày con mười tám tuổi.

Già nua hay lẩm cẩm,

Nghĩ đi rồi nghĩ lại,

Mẹ thương tất cả những ai có con dù là bên này hay bên kia,

Dù họ giàu sang, không nghèo hèn như mẹ,

Dù họ có học, không dốt nát như mẹ,

Nhưng có lẽ họ đều thương con mình,

Như mẹ đã thương con và vẫn còn thương con,

Thương con lúc con vừa biết nói, khi con còn rong chơi.

Này con, hãy thức dậy với mẹ,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Đã hơn hai mươi năm mẹ đi thăm con,

Một nấm đất hoang ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này.

Nếu con còn sống,

Có lẽ mẹ đã được cái diễm phúc đi hỏi vợ cho con,

Con Hai ở đầu xóm thiệt giỏi lại dễ thương.

Nó lấy chồng và lên Sài Gòn từ lâu rồi.

Sao con lại nằm ở đây,

Ngày con mười tám tuổi?

Thương con nhớ tiếng con cười,

Tưởng như những lúc rong chơi sau hè.

Nhớ con tan chợ mẹ về,

Reo vui đón mẹ bờ đê đầu làng.

Một ngày sao ngắn ngủi,

Trời chuyển mưa sụp tối.

Mẹ ra đường đón xe.

Tóc mẹ bạc trắng, dạo này đau yếu luôn.

Nếu còn đủ sức, năm tới mẹ lại đi thăm con,

Nấu cho con nồi xôi, xách cho con nải chuối.

Thôi mẹ về.

 

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 23.10.1998

(viết trong lúc đang làm việc tại trung tâm khảo cứu của một công ty dầu khí trong vùng ngoại ô Paris, một năm trước khi về hưu)

 

 

Bài thơ thứ III:

 

 

Quê hương yên lặng

 

Thôn sâu say nắng buổi trưa hè,

Đàn gà nấp nắng sau lũy tre.

Dưới hiên mẹ ẵm con cho bú.

Đàn ruồi kéo đến bay vo ve.

 

Bỗng dưng súng nổ rát trên đê,

Lộp độp đạn bay viên đạn bay.

Đứa bé ưỡn bụng không kịp khóc,

Nhả vú em chết giữa ban ngày.

 

Lom khom ôm xác con mà chạy.

Lộp độp đạn bay viên đạn bay,

Máu đào phọt ướt con trên tay,

Duỗi chân mẹ chết giữa ban ngày.

 

Mặt mẹ mặt con dòng máu đỏ,

Đàn ruồi bâu lại bay vo ve.

Thế đó quê hương tôi lặng lẽ,

Oi ả như một buổi trưa hè.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của quê hương tôi,

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Cái yên lặng của những người nằm xuống,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

Những người nằm xuống bao giờ cũng yên lặng.

Cái yên lặng của họ rát bỏng như những viên đạn lọt khỏi nòng súng.

Cái yên lặng đó vẫn ngủ yên trên quê hương tôi,

Âm thầm, xót xa, đớn đau và rỉ máu.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của những người còn sống,

Cái yên lặng len giữa tiếng cười và tiếng khóc,

Cái yên lặng nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi,

Cái yên lặng thay vào chỗ của lương trilòng từ bi đánh mất.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của tổ tiên tôi,

Cái yên lặng lãng quên của giống nòi.

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

                                                            Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 05.08.98

                                                                 (đọc lại và hiệu đính, 01.12.14)

 

 

Bài thơ thứ IV:

 

Xe lên quán dốc

xe lên quán dốc chiều sương,
Tà huy bóng ngả bên đường dặm cao.

Bốn bề hoang vắng cỏ lau,

Tre rừng nghiêng ngả một màu hoang sơ.

 

Xe dừng quán tối bơ vơ,

Dường trong mái chếch bóng mờ có ai?

Lão bà áo rách hai vai,

Vội vàng quạt bếp châm vài cành khô.

 

Chiều tàn lắng xuống hư vô,

Cụ ơi áo rách đã bao tuổi đời?

Ngày xưa tan biến mất rồi,

Trên vai cụ đó kiếp người bao xa?

 

Cụ hâm cho bát nước trà,

Tôi ngồi ấm dạ nhìn ra quãng đường.

Gập ghềnh quán dốc chiều sương,

Trong tôi hóa kiếp mười phương giang hồ.

 

Cụ bảo tôi cứ ngồi chờ,

Dặm xa con cụ rừng sâu sắp về.

Góc nhà con muỗi vo ve,

Lão bà, con muỗi và tôi cùng chờ.

 

Quán nghèo gian tối xác xơ,

Cả ba cùng đói bếp trơ than hồng.

Dặm xa se thắt đáy lòng,

Quê hương tôi đó bụi hồng tà huy.

 

Muôn phương rong ruổi tôi đi,

Dáng quê hương đó còn gì trong tôi?

Giang hồ thế đó kiếp người,

Chiều sương quán dốc hôm nay tôi về.

 

Bỗng nghe tiếng động bên hè,

Hình như con cụ đã về rừng sâu.

Củi khô một bó trên đầu,

Hóa ra thiếu phụ bạc màu áo thô.

 

Dắt theo đứa bé xanh xao,

Trên lưng một túi khoai đào còn dây.

Con đưa cho ngoại bọc khoai,

Đi vào chào bác, rửa khoai ngoại làm.

 

Trước nhà khe suối lom khom,

Bóng già nghiêng xuống lưng còm tóc sương.

Bơ vơ quán dốc bên đường,

Nghìn năm tuổi tác quê hương tôi gầy.

 

Vo ve con muỗi đâu đây,

Quanh tôi chỉ thấy thân gầy héo khô.

Ráng hồng rặng núi nhấp nhô,

Rừng tre trở gió rì rào sương tan.

 

Lấy que khơi lớp tro tàn,

Mặt người thiếu phụ lửa than ánh hồng.

Tóc mai thấm ướt sương rừng,

Mồ hôi đọng lại trên lưng áo mòn.

 

Lão bà bước đến lom khom,

Vùi trong bếp lửa tro tàn mớ khoai.

Hai người ngoảnh lại nhìn tôi.

Trong gian nhà tối bốn người nhìn nhau.

 

Đứa bé hai mắt thụt sâu,

Chiếc khăn rách nát quấn đầu rét run.

Bếp hồng tí tách lửa than,

Quanh tôi chiều xuống bạt ngàn sương đêm.

 

Lão bà bới lớp tro đen,

Khoai vùi cụ gắp lên bàn cho tôi.

Đói lòng nghẹn củ khoai bùi,

Thế rồi nước mắt tình tôi hai dòng.

 

                                    Sơn La, 12.03.02

 

Picture6

                                                                               (Tranh H.P.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11713)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11213)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11940)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10260)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29247)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11956)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11947)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10956)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19628)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7343)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11370)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35323)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12871)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12221)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17361)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11484)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22111)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11845)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15926)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12128)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14109)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12611)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13226)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13664)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20014)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14423)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13558)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12347)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34737)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13411)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13733)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31988)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13209)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13071)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13429)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13317)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18050)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14932)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15745)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14885)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15862)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20801)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21324)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35160)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27549)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43945)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37920)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15142)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15078)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12996)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12669)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15625)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27740)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14975)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11418)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53197)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16545)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13184)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20705)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12631)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15607)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15509)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14781)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15626)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13049)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11777)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12312)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12585)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13495)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12483)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11992)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12764)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11622)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13762)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14121)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12928)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12759)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13023)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13935)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13006)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13624)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12466)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14455)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13317)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13779)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14639)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11870)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12731)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28304)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11804)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12654)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15070)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12010)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11788)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12885)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11996)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11531)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10295)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant