Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

21 Tháng Mười Hai 201405:26(Xem: 14876)
Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

 

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

Hoang Phong

           

 

            Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai. Những ước mơhy vọng ấy có thể rất khiêm nhường như trả bớt nợ nần, kiếm đủ ăn cho gia đình, thế nhưng cũng có những ước mơ to lớn hơn như xây thêm một ngôi biệt thự, sắm một chiếc xe hơi mới, hoặc hùn hạp đầu tư trong những dự án kinh doanh quan trọng. Dù là những người phải chật vật vì sinh kế hay là các "đại gia" thì Tết luôn là một dịp để tất cả cùng  quên đi năm cũ và gác lại những gì sau lưng mình để mà gửi đến nhau những lời chúc lành tốt đẹp nhất cho năm mới.

           

            Thế nhưng theo truyền thống thì Tết cũng là dịp để tưởng nhớ đến những người đã khuất, ngoài ông bà hay cha mẹ mình ra thì cũng còn rất nhiều những người khác nữa. Đó là những người dù không thuộc gia đình mình, không cùng chính kiến hay lý tưởng với mình nhưng cùng mang một dòng máu và nguồn gốc tổ tiên với mình. Vì thế thiết nghĩ trong những ngày xuân chúng ta cũng nên mở rộng lòng mình để tưởng nhớ đến tất cả những người đã khuất, nhất là những người kém may mắn hơn mình đã phải nằm xuống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, phi lý và điên rồ, mang lại không biết bao nhiêu đau thương.  

 

            Những người đã vĩnh viễn ra đi bao giờ cũng yên lặng, không còn ồn ào, náo động, với đầy rẫy những hy vọngước mơ của những kẻ đang còn ngụp lặn trên cõi đời này như chúng ta hôm nay nữa. Nếu muốn thấu hiểu và chia sẻ cái yên lặng ấy với họ thì chúng ta cũng phải nhận ra cái yên lặng trong lòng mình, và đồng thời cũng phải cảm nhận được nó trong bối cảnh chung quanh. Thật vậy, giữa cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ngày Tết thì cái yên lặng ấy quả rất khó phát hiện, vì thế chúng ta cũng nên nén lòng mình lắng xuống để có thể trực diện với nó. Sự yên lặng ấy rất kín đáo, nó len vào giữa những tiếng cười và tiếng khóc, nó nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi.

 

            Bên tách trà đầu xuân, những mong một vài vần thơ góp nhặt dưới đây đã được viết từ lâu có thể sẽ gợi lên một chút yên ắng và bâng khuâng nào đó trong lòng chúng ta. Thế nhưng biết đâu những vần thơ ấy cũng có thể khiến cho tách trà bớt thơm và đĩa mứt bớt ngọt hơn trong những ngày Tết, thì cũng xin người đọc niệm tình thứ lỗi mà hãy cùng hân hoan chào đón một năm mới tràn đầy hy vọng.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 03.12.14

 

 

Bài thơ thứ I:

 

            Bài thơ này được viết để tặng một người bạn cũ mà tôi gặp lại trong một dịp khá bất ngờ tại Hà Nội vào khoảng cuối năm 1989, trong một chuyến công tác ở Việt Nam.

 

            Này T. ạ, ngày hôm đó, từ khách sạn Hữu Nghị đi đến nhà em trên đường Hàng Bún, ngang khách sạn Bông Sen, và trước khi bước vào khu chợ, anh trông thấy một người phụ nữ còn trẻ, trẻ lắm, chỉ độ hơn hai mươi. Người phụ nữ gánh một thúng rau phía trước, trong thúng phía sau có một đứa bé độ lên ba, đầu nghiêng sang một bên, đang ngủ gà ngủ gật. Đứa bé mặc áo vá ở vai, ở lưng, và quần cũng vá. Thúng phía trước đặt một cái rá vừa miệng thúng, bên trên có ba bó cải cúc, hai bó rau muống, một quả bí đao dàì hơn gang tay, một ít cà pháo và một ít ớt gom lại thành hai nhúm cạnh nhau.

 

            Anh bước theo cùng một nhịp với chiếc gánh kẻo kẹt trên vai người phụ nữ. Thúng rau nhẹ hơn đứa bé nên người phụ nữ phải dang tay ra phía trước để ghì xuống giữ cho quang gánh cân đồng sức nặng. Dáng người phụ nữ mảnh mai và nhanh nhẹn. Anh rảo bước nhanh hơn và ngoảnh lại nhìn. Người phụ nữ mộc mạc, không chải chuốt. Mái tóc ngang vai, cài vén ra phía sau bằng một chiếc lược sừng. Mặt người phụ nữ thon dài nhưng đầy đặn, tuy dính vài vết bùn trên má và trên trán, nhưng không vì thế mà che dấu được nét trẻ trung, có thể còn gọi là non nớt nữa. Nhưng T. ạ, cặp mắt, cặp mắt buồn, bình thản, lạnh lùngnhẫn nhục. Một cặp mắt hình như đang chôn dấu một cái gì đó, đang đè nén một tình cảm nào đó. Một cặp mắt sâu thẳm không mấy khi anh được trông thấy.

 

            Hôm nay giữa biển khơi của vùng Bắc Âu, trời thấp và gió lạnh, lạnh hơn nhiều so với Hà Nội ngày hôm ấy, anh bỗng chợt nhớ đến bóng dáng của người phụ nữ gánh con và gánh rau đi về phía chợ Hàng Bún, hướng nhà em. Cái hình ảnh ray rứt đó làm cho anh nghẹt thở và khiến anh liên tưởng đến một giai đoạn lịch sử trên quê hương ta.

 

 

                Ru Con

 

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ còn cuốc đất lại còn tưới rau.

Chợ mai mẹ gánh cho mau,

Thúng rau phía trước thúng sau con ngồi.

Đong đưa nhịp võng à ơi,

Mẹ mơ mẹ tưởng đến ngày con khôn.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Mẹ lau nước mắt mẹ mòn nhớ thương.

Nhìn con nhắm mắt mà thương,

Để mẹ trông lén vào gương chải đầu.

Ru con giấc ngủ chìm sâu,

Thương con lòng mẹ âu sầu héo hon.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Quần con rách nát mẹ còn phải khâu.

Con ơi con ngủ cho lâu,

Để mẹ ngồi khóc mẹ đau một mình.

Lắc lư nhịp võng rung rinh,

Tủi thân cho mẹ một mình cô đơn.

Ngày nào mẹ gặp cha con,

Yêu cha mẹ mới tuổi tròn đôi mươi.

Nhìn con giấc ngủ nửa vờì,

Nhớ cha quên cả tuổi đời còn xanh.

Ngày xanh sao khéo mong manh,

Hoa chưa đơm trái trên cành đã tan.

À ơi con ngủ cho ngoan,

Cha con một nắm xương tàn rừng sâu.

Tình yêu như giọt mưa ngâu,

Chưa chùi giọt ngắn đã lau giọt dài.

Thương cha con ngủ cho say,

Để mẹ ngồi nhớ những ngày mẹ yêu.

Yêu cha con những buổi chiều,

Mồ hôi ướt áo nắng chiều nhạt phai.

Cha con chiếc áo sờn vai,

Lần đầu mẹ nhớ thuở ngày gặp nhau.

Áo này mẹ gối lên đầu,

Mẹ ôm mẹ ngủ vẹn màu thủy chung,

Nhớ sao thương mấy cho cùng,

Cha con lạnh lẽo hố chung xương tàn.

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ mở cái áo mẹ quàng lên tim.

À ơi con ngủ cho im,

Áo này mẹ đắp mẹ tìm lấy hơi.

Bao giờ con lớn con ơi,

Con mặc được áo mẹ vui mẹ mừng.

 

            Chờ lưng con đủ dài, vai con đủ rộng để khoác chiếc áo này của cha là hy vọng của mẹ. Niềm hy vọng đó sẽ giúp mẹ đủ can đảm để sống và để cam chịu số phận hẩm hiu của mẹ.

 

…Nhưng đến ngày đó anh biết không, em cũng sẽ phải già đi vì nhọc nhằn và thương nhớ. Hình bóng anh có lẽ cũng sẽ mờ dần trong đôi mắt em. Tai em cũng sẽ lãng để không còn nghe thấy tiếng thở của anh mỗi đêm. Chiếc áo này cũng sẽ phai nhạt hơi anh…

           

            Con hãy ngủ cho say, để mẹ cởi cái quần này của con mà vá rồi giặt cho con. Mẹ hứa là Tết năm nay, mẹ sẽ mua cho con một chiếc quần mới, nhưng mẹ không thể phá chiếc áo này của cha để may quần cho con. Đó là kỷ vật duy nhất của cha con còn lại. Chiếc áo này mẹ còn nhớ cha con đã mặc khi gặp mẹ lần đầu. Những quần áo khác của cha, mẹ đã bán đi từ năm ngoái, khi con ốm nặng.

 

            Con hãy nhắm mắt ngủ yên, như thế con sẽ cho riêng mẹ một vài giây phút ngắn ngủi để soi gương và chải lại mái tóc của mẹ. Thương cha mẹ thấy xấu hổ khi soi gương và chải tóc trước mặt con. Mẹ biết mẹ còn trẻ, mái tóc mẹ còn xanh. Mẹ rất sợ nhìn thấy hình bóng mẹ trong gương. Mẹ cố quên đi và chối bỏ những ngày xanh của mẹ.

 

            Mẹ không kể cho con nghe những ngày hạnh phúc của mẹ bên cha, vì mẹ cũng không dám nghĩ đến nữa. Những ngày đó ngắn ngủi lắm, nhưng êm đềm biết bao.

 

            Mẹ cũng không nói là tại sao cha con đã chết. Mẹ chỉ biết rằng những người đồng đội với cha con nhắn về cho biếtcha con đã nằm xuống với nhiều người khác nữa bên lề một con đường mòn trong dãy Trường Sơn, gần một thôn xóm nào đó. Tên gọi nơi này là gì thì mẹ cũng đã quên rồi vì chẳng biết là nó ở đâu. Đối với mẹ, cha con lúc nào cũng sống bên cạnh mẹ, an ủi mẹ , khuyến khích mẹ và giúp mẹ can đảm để nuôi con.

            Khi lớn lên mẹ sẽ cho con đi học. Trong những giờ học lịch sử, cô giáo sẽ giảng cho con nghe tại sao cha con phải chết. Thật vậy mẹ cũng không hiểu được rành rọt. Thỉnh thoảng có những đoàn người đến đây bắc loa hô hào, giải thích nhiều lắm, nhưng mẹ không đủ trí thông minh để hiểu và nhớ hết để mà lập lại cho con nghe. Ngày còn nhỏ nào mẹ có được đi học đâu.

            Thôi con ngủ đi, để mẹ được một lúc riêng tư để tưởng nhớ đến cha con và chải lại mái tóc của mẹ. Ngày mai mẹ sẽ gánh thúng rau phía sau, mẹ không cần ai trông thấy rau tươi của mẹ để gọi mua, mẹ sẽ đặt con vào thúng trước để lúc nào cũng nhìn thấy con. Mẹ sẽ vừa gánh vừa nói chuyện với con, dù con còn quá nhỏ để hiểu được mẹ đang nói gì. Mẹ sẽ chọn những quãng đường vắng để trò chuyện với con vì nếu người đi đường trông thấy thì biết đâu họ sẽ bảo mẹ là một người điên đấy.

 

                                    Bắc Hải (North Sea) thuộc hải phận của xứ Tô Cách Lan (Scotland)

                                                (trên giàn khoan Ocean Benloyal, ngày 12.06.1991)

 

 

Bài thơ thứ II:

           

 

              Đi thăm con

 

Hôm nay đi thăm con.

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Như khi con mới biết ngồi.

Từ quê lên hai ngày đường,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Năm mười tám tuổi,

Con nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Một viên đạn nhỏ đã giết con.

Ngày xưa cha con cũng đã ngã xuống,

Vì một viên đạn đồng nhỏ xíu.

Những viên đạn của hận thù hay vui sướng?

Kẻ thù của con có vui mừng khi bắn trúng con?

Chắc họ được bằng khen thưởng và gắn huân chương?

Con đã làm gì khiến kẻ khác hận thù con?

Con có đau đớn lắm không khi ngã xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này?

Con có cảm thấy viên đạn xuyên vào da thịt con và hất con ngã xuống?

Mẹ tin rằng con đã nghĩ đến mẹ và thương mẹ trước khi con nhắm mắt!

Con hãy thức dậy với mẹ!

Hôm nay mẹ lại nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Tập đi đôi chân còn vấp ngã.

Này con, đường xa chuối đã dập, xôi đã nguội.

Con hãy thức dậy với mẹ!

Con làm gì nên tội?

Để phải nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Ngày con mười tám tuổi.

Già nua hay lẩm cẩm,

Nghĩ đi rồi nghĩ lại,

Mẹ thương tất cả những ai có con dù là bên này hay bên kia,

Dù họ giàu sang, không nghèo hèn như mẹ,

Dù họ có học, không dốt nát như mẹ,

Nhưng có lẽ họ đều thương con mình,

Như mẹ đã thương con và vẫn còn thương con,

Thương con lúc con vừa biết nói, khi con còn rong chơi.

Này con, hãy thức dậy với mẹ,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Đã hơn hai mươi năm mẹ đi thăm con,

Một nấm đất hoang ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này.

Nếu con còn sống,

Có lẽ mẹ đã được cái diễm phúc đi hỏi vợ cho con,

Con Hai ở đầu xóm thiệt giỏi lại dễ thương.

Nó lấy chồng và lên Sài Gòn từ lâu rồi.

Sao con lại nằm ở đây,

Ngày con mười tám tuổi?

Thương con nhớ tiếng con cười,

Tưởng như những lúc rong chơi sau hè.

Nhớ con tan chợ mẹ về,

Reo vui đón mẹ bờ đê đầu làng.

Một ngày sao ngắn ngủi,

Trời chuyển mưa sụp tối.

Mẹ ra đường đón xe.

Tóc mẹ bạc trắng, dạo này đau yếu luôn.

Nếu còn đủ sức, năm tới mẹ lại đi thăm con,

Nấu cho con nồi xôi, xách cho con nải chuối.

Thôi mẹ về.

 

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 23.10.1998

(viết trong lúc đang làm việc tại trung tâm khảo cứu của một công ty dầu khí trong vùng ngoại ô Paris, một năm trước khi về hưu)

 

 

Bài thơ thứ III:

 

 

Quê hương yên lặng

 

Thôn sâu say nắng buổi trưa hè,

Đàn gà nấp nắng sau lũy tre.

Dưới hiên mẹ ẵm con cho bú.

Đàn ruồi kéo đến bay vo ve.

 

Bỗng dưng súng nổ rát trên đê,

Lộp độp đạn bay viên đạn bay.

Đứa bé ưỡn bụng không kịp khóc,

Nhả vú em chết giữa ban ngày.

 

Lom khom ôm xác con mà chạy.

Lộp độp đạn bay viên đạn bay,

Máu đào phọt ướt con trên tay,

Duỗi chân mẹ chết giữa ban ngày.

 

Mặt mẹ mặt con dòng máu đỏ,

Đàn ruồi bâu lại bay vo ve.

Thế đó quê hương tôi lặng lẽ,

Oi ả như một buổi trưa hè.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của quê hương tôi,

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Cái yên lặng của những người nằm xuống,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

Những người nằm xuống bao giờ cũng yên lặng.

Cái yên lặng của họ rát bỏng như những viên đạn lọt khỏi nòng súng.

Cái yên lặng đó vẫn ngủ yên trên quê hương tôi,

Âm thầm, xót xa, đớn đau và rỉ máu.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của những người còn sống,

Cái yên lặng len giữa tiếng cười và tiếng khóc,

Cái yên lặng nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi,

Cái yên lặng thay vào chỗ của lương trilòng từ bi đánh mất.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của tổ tiên tôi,

Cái yên lặng lãng quên của giống nòi.

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

                                                            Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 05.08.98

                                                                 (đọc lại và hiệu đính, 01.12.14)

 

 

Bài thơ thứ IV:

 

Xe lên quán dốc

xe lên quán dốc chiều sương,
Tà huy bóng ngả bên đường dặm cao.

Bốn bề hoang vắng cỏ lau,

Tre rừng nghiêng ngả một màu hoang sơ.

 

Xe dừng quán tối bơ vơ,

Dường trong mái chếch bóng mờ có ai?

Lão bà áo rách hai vai,

Vội vàng quạt bếp châm vài cành khô.

 

Chiều tàn lắng xuống hư vô,

Cụ ơi áo rách đã bao tuổi đời?

Ngày xưa tan biến mất rồi,

Trên vai cụ đó kiếp người bao xa?

 

Cụ hâm cho bát nước trà,

Tôi ngồi ấm dạ nhìn ra quãng đường.

Gập ghềnh quán dốc chiều sương,

Trong tôi hóa kiếp mười phương giang hồ.

 

Cụ bảo tôi cứ ngồi chờ,

Dặm xa con cụ rừng sâu sắp về.

Góc nhà con muỗi vo ve,

Lão bà, con muỗi và tôi cùng chờ.

 

Quán nghèo gian tối xác xơ,

Cả ba cùng đói bếp trơ than hồng.

Dặm xa se thắt đáy lòng,

Quê hương tôi đó bụi hồng tà huy.

 

Muôn phương rong ruổi tôi đi,

Dáng quê hương đó còn gì trong tôi?

Giang hồ thế đó kiếp người,

Chiều sương quán dốc hôm nay tôi về.

 

Bỗng nghe tiếng động bên hè,

Hình như con cụ đã về rừng sâu.

Củi khô một bó trên đầu,

Hóa ra thiếu phụ bạc màu áo thô.

 

Dắt theo đứa bé xanh xao,

Trên lưng một túi khoai đào còn dây.

Con đưa cho ngoại bọc khoai,

Đi vào chào bác, rửa khoai ngoại làm.

 

Trước nhà khe suối lom khom,

Bóng già nghiêng xuống lưng còm tóc sương.

Bơ vơ quán dốc bên đường,

Nghìn năm tuổi tác quê hương tôi gầy.

 

Vo ve con muỗi đâu đây,

Quanh tôi chỉ thấy thân gầy héo khô.

Ráng hồng rặng núi nhấp nhô,

Rừng tre trở gió rì rào sương tan.

 

Lấy que khơi lớp tro tàn,

Mặt người thiếu phụ lửa than ánh hồng.

Tóc mai thấm ướt sương rừng,

Mồ hôi đọng lại trên lưng áo mòn.

 

Lão bà bước đến lom khom,

Vùi trong bếp lửa tro tàn mớ khoai.

Hai người ngoảnh lại nhìn tôi.

Trong gian nhà tối bốn người nhìn nhau.

 

Đứa bé hai mắt thụt sâu,

Chiếc khăn rách nát quấn đầu rét run.

Bếp hồng tí tách lửa than,

Quanh tôi chiều xuống bạt ngàn sương đêm.

 

Lão bà bới lớp tro đen,

Khoai vùi cụ gắp lên bàn cho tôi.

Đói lòng nghẹn củ khoai bùi,

Thế rồi nước mắt tình tôi hai dòng.

 

                                    Sơn La, 12.03.02

 

Picture6

                                                                               (Tranh H.P.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11550)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13542)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14123)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10307)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10771)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11325)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11276)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11436)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10702)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11316)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42198)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10484)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11862)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10008)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10452)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10615)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45755)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32108)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11321)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10698)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11319)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10630)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13457)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12371)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11019)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10616)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12309)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11167)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11842)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10537)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10235)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10581)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17782)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11862)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12286)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10442)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11697)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10423)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10784)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10147)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10647)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10767)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11221)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10400)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18250)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10519)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12845)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29176)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28295)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13317)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13431)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11575)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13805)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26078)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14480)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11802)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11484)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33181)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12028)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11956)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14226)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13346)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12070)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10393)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11229)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13306)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12619)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12224)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13529)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12619)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12976)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11744)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28428)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13422)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant