Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 7

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10432)
Phần 7


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 7)


Pháp Sư Tịnh Không

 

Chúng ta học Phật có thể được thọ dụng hay không? đúng như bổn kinh đã nói “Huệ dĩ chân thật chi lợi”. Ngay trong một đời hoằng pháp tu học, then chốt thành công hay thất bại cũng chỉ ở câu này. Mười sáu vị Bồ tát phía trên là biểu pháp. Mỗi vị Bồ tát biểu thị một mật nghĩa sâu sắc, người có trí tuệ tương đối, giác ngộ tương đối mới có thể nhìn ra được, còn người thông thường không dễ gì nhận ra. Thế nhưng khi đi vào kinh văn thì người thông thường như chúng ta cũng có thể tường tận. Câu thứ nhất này nói rõ tổng cương lĩnh của toàn kinh.

Ngài Thanh Lương thời nhà Đường hoàn thành phiên dịch kinh Hoa Nghiêm, sau khi hoàn thành chú giải, ngài đặc biệt đem quyển sau cùng lưu thông riêng biệt. Quyển này gọi là Biệt Hành Lưu Thông Bản, chính là “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm” mà hiện tại chúng ta thường thấy. Quyển kinh này là “Hoa Nghiêm 40”, quyển sau cùng trong phẩm Nhập Pháp Giới, là tổng kết cũng là tổng cương lĩnh của kinh Hoa Nghiêm.

Bồ tát Phổ Hiền tổng hợp toàn kinh quy nạp thành mười cương lĩnh mà ngài đã tu. Có lẽ một số đồng tu nghe “Bồ Tát Phổ Hiền đã tu” sẽ cho rằng không liên quan gì đến chúng ta, vì chúng ta không phải là Bồ tát Phổ Hiền. Học Phật như vậy rất khó thành tựu. Cần phải nhận biết, tất cả Bồ tát, chư Phật Như Lai đã nói trong Phật pháp đều là chính mình. Đức hiệu của chư Phật Như Lai là tánh đức của chính chúng ta. Danh hiệu của tất cả chư phật Bồ táttu đức của chính chúng ta. Tánh - tu không hai, đó là điểm khác nhau giữa Phật pháp và các pháp thế xuất thế gian. Ở ngay trong Phật pháp mới có thể mau chóng ổn định được lợi ích chân thật.

Bồ tát Phổ Hiền là ai? Đó là bản thân chính ta. Nếu chúng ta chăm chỉ phụng hành trên kinh điển, từ tư tưởng kiến giải đến lời nói việc làm mỗi mỗi đều phải đối chiếu với kinh điển, thì đó là tương ưng. Nhất định lấy kinh điển làm tiêu chuẩn, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình, đó gọi là tu hành. Y theo bổn kinh để tu hành chính là y theo tiêu chuẩn của Phật A Di Đà, của Bồ Tát Phổ Hiền. Phật A Di Đà là Phật trung chi vương, Bồ tát Phổ Hiền có thể nói là Bồ tát trung chi vương. Trong rất nhiều sám nghi chúng ta đều đọc “Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát”, vua ngay trong các Bồ Tát. Trong hàng Bồ tát, không ai thù thắng hơn Phổ Hiền, cũng như trong các chư Phật, không ai thù thắng hơn so với Phật A Di Đà. Bộ kinh này có vua trong các Phật, vua trong các Bồ tát, chúng ta gặp được bộ kinh này, Phật đã nói “như nghèo được của báu”, vui sướng không thể hình dung. Đạt được rồi, chúng ta nhất định phải lý giải thấu triệt, sau đó phải y giáo phụng hành một cách triệt để. Trước tiên bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ lễ kính.

Lễ kínhkhai hiển ngay trong tánh đức của chính chúng ta. Chúng ta có thể tu lễ kính, đó là lưu xuất của tánh đức. Đại đức xưa thường nói “khởi tu từ tánh”, cách tu học này có thể cảm ứng tương thông cùng với mười phương ba đời tất cả chư Phật Bồ tát, vì chư Phật Bồ tát cũng khởi tu từ tánh. Do đây có thể biết khi chúng ta vừa phát tâm chân thành để tu hành, đó là năng cảm, chư Phật Bồ tát pháp vốn năng ứng. Nguyên do cảm ứng chính ở chỗ này.

Ấn Quang đại sư nói “Một phần thành kính được một phần lợi ích” cũng là như vậy. Một phần thành kính được chư Phật Như Lai gia trì một phần, mười phần thành kính thì được chư Phật Như Lai gia trì mười phần. Nơi một đạo tràng, giờ nào lúc nào, chúng ta cảm thọ ở nơi đây sẽ khác hoàn toàn với cảm thọ trong cuộc sống thường ngày. Cảm thọ ở nơi đây có pháp hỉ, thanh tịnh vui mừng. Một số đồng tu đến nói với tôi, chúng ta bước vào giảng đường nghe kinh là hưởng thụ. Lời nói này là thật. Vì sao chúng ta có hai giờ đồng hồ ở nơi hưởng thụ, mà loại hưởng thụ không thể có ở những nơi khác trong cuộc sống, cái hưởng thụ này từ đâu mà ra? Xin thưa, vì nhờ ánh sáng Phật chiếu vào, mọi ngườiđạo tràng được tắm mình trong ánh sáng Phật.

Có một năm tôi ở Maine, Hoa Kỳ giảng kinh, một số người nước ngoài mỗi lần tôi giảng kinh họ đều đến nghe. Họ ngồi xếp bằng ngay ngắn, nhắm nghiền đôi mắt. Mặc dù họ không hiểu tiếng Trung Quốc, nên không hiểu tôi nói cái gì nhưng mỗi ngày họ đều đến. Các đồng tu hỏi họ: “Bạn nghe hiểu không? Nếu nghe không hiểu thì tại sao mỗi ngày bạn đều đến?”. Họ trả lời: “Oh, vì cảm thọ ở nơi đây rất tốt!”. Như vậy, họ đến để hưởng thụ, họ cho rằng cái từ trường này khác biệt, cảm thọ rất thoải mái. Trong đó, còn có một số người có công năng đặc biệt, Phật pháp gọi là thần thông, cụ thể thiên nhãn thông, nói rằng họ được ánh sáng Phật chiếu vào. Đạo tràng giảng kinh luôn ở trong quang gia trì, cho nên mỗi người ngồi ở đây đều có thể sanh tâm hoan hỉ. Đạo lý chính ngay chỗ này, không phải tôi giảng hay mà nhờ Phật lực gia trì.

Chúng ta nhờ vào cái gì mà được Phật lực gia trì? Đó là một lòng cung kính. Lòng cung kính này là năng cảm, chư Phật Bồ tát liền có ứng, cho nên chúng ta nhất định phải hiểu, dạy người “thành thật”. Cả đời làm người, thành thành khẩn khẩn, trung thực thật thà, dáng vẻ thành thật, không lừa dối chính mình, không lừa dối người khác. Người thật thà vô cùng đáng quý, được Phật quang chiếu đến họ thậm chí ngay cả khi họ không học Phật. Phật tâm thanh tịnh, Phật tâm bình đẳng, không thể nói người học Phật mới đặc biệt được chiếu cố, còn không học Phật thì Phật không chiếu cố, tâm đó làm sao có thể xem là tâm bình đẳng. Không học Phật nhưng có tấm lòng thành khẩn, Phật đều chiếu cố bình đẳng, không hề phân biệt. Thử hỏi tâm thành thật đáng quý dường nào.

Lễ kính chính là lưu xuất thành khẩn. Chúng ta phải kính người, kính việc, kính vật, lễ kính bình đẳng, ngay đến kiến muỗi chúng ta xem thấy cũng như xem thấy chư Phật Như Lai. Như vậy mới gọi là tu hạnh Phổ Hiền. Động vật nhỏ như muỗi kiến cũng có Phật tánh, tất cả động vật đều có Phật tánh. Ngoài động vật, thực vật, khoáng vật cũng đều có pháp tánh, cho nên chúng ta phải cung kính tất cả. Việc này không phải không làm được mà do chúng ta không chịu làm. Người xưa nói, chỉ có hai việc khó: lên trời khó, cầu người khó. Việc này là cầu chính mình, không phải cầu người. Cầu chính mình thì có gì khó, làm cho tánh đức của chúng ta hoàn toàn lưu xuất, chính mình nhất định phải giác ngộ, cho nên nhất định phải nỗ lực. Thế gian hiện tại tai nạn triền miên, nếu chúng ta không chăm chỉ nỗ lực tu, tương lai làm sao có thể tự cứu, cứu người.

Trong cuộc sống thường ngày, tôi không xem truyền hình nên không nắm tin tức bên ngoài, Học hội Tịnh Tông cũng không có truyền hình, tất cả tivi đều phát nội bộ, bên ngoài không có ăngten trời, chúng tôi cũng không nghe phát thanh, không xem báo chí, nhưng có một số đồng tu cho biết, một hai tháng gần đây tảng băng Nam Cực đã tan ra. Vấn đề này tương đối nghiêm trọng, băng của Nam Bắc Cực nếu tan ra, mực nước biển sẽ dâng lên, đô thị Duyên Hải trên toàn thế giới thảy đều chìm vào đáy biển. Tai nạn này do đâu? Có người luôn cho rằng do thiên tai, khoa học gia cũng đổ cho thiên tai, nhưng cách nhìn trong Phật pháp lại không phải như vậy. Phật pháp nói tất cả tai nạn đều do chính chúng ta tạo thành. Người nghĩ ra được như vậy là người đã giác ngộ. Nếu người người có thể tự giác, người người đều có thể thay đổi tự làm mới, tai nạn này liền được tiêu trừ. Nạn nước là từ lòng tham của con người mà ra.

Không ít người đã đọc qua kinh Lăng Nghiêm, Phật trong hội Lăng Nghiêm giảng nói rất rõ ràng, tham dục là nước, sân hận là lửa, ngu si là gió. Tam tai nước gió lửa, nếu người của toàn thế giới đang cố sức tăng thêm tham sân si thì ba loại hiện tượng nước gió lửa này sẽ liền nổi lên. Hoàn cảnhy báo, y báo tuỳ theo chánh báo mà chuyển, chánh báo là tâm của chúng ta. Phật luôn khuyên chúng sanh dập tắt tham sân si, người người đều có thể dập tắt. Môi trường sinh thái trên địa cầu này rất nhanh hồi phục lại bình thường, sẽ không có tai nạn nếu chúng sanh dập tắt tham sân si.

Ngoài tham sân si còn có ngạo mạn, quả báo của mạn là gì? Là động đất. Mạn là tâm không bình, cao thấp nhấp nhô. Những tai nạn tự nhiên này từ lòng người chiêu cảm biến hiện ra. Trên kinh luận, Phật dạy chúng ta những đạo lý phương pháp này, xác xác thực thực chân thật có thể tiêu trừ tất cả tai ương. Vậy phải tiêu trừ từ đâu? Từ ngay nơi nội tâm, Phật pháp gọi là nội học. Dùng nội công để cải thiện hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta không luận đối với người, với việc, với vật, tất cả đều cung kính, dù chúng ta không thể giúp đỡ đại chúng chuyển đổi, một mình ta vẫn có thể chuyển đổi. Một mình chuyển đổi gọi là biệt nghiệp, đại chúng gọi là cộng nghiệp. Phật trong hội Lăng Nghiêm nói, quả báo cộng nghiệp cùng biệt nghiệp không như nhau. Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, cho dù ở ngay trong cộng nghiệp vô cùng ác liệt, chúng ta vẫn có thể tránh được. Ngay trong tai nạn lớn vẫn có rất nhiều người may mắn. Biệt nghiệp không giống nhau, sau một tai nạn lớn, nếu quan sát tỉ mỉ chúng ta sẽ thấy người may mắn sống sót thường là người có tấm lòng lương thiện, ít tham sân si mạn, nhiều từ bi thiện niệm.

Hy vọng đồng tu chúng ta mọi lúc mọi nơi đều dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi cung kính đối với tất cả. Phải tập thành thói quen, thật sự dụng công. Dụng công không phải một ngày đọc bao nhiêu bộ kinh. Khi tư tưởng lời nói việc làm hoàn toàn không tương ưng với kinh thì dù mỗi ngày đọc hai trăm biến cũng uổng công, không dùng được. Trước đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói: “đáng đọa lạc thế nào, vẫn phải đọa lạc thế đó”, không ích gì. Do đó phải thật làm, ngày ngày đọc kinh, kiểm điểm lỗi lầm của chính mình. Đọc kinh cũng giống như soi gương vậy, ngày ngày cầm gương lên soi lỗi lầm của chính mình, đem nó thay đổi lại, như vậy mới hữu dụng, lợi ích vô biên. Cho nên phải tu tâm chân thành, chân thành đối nhân xử thế, chúng ta nhất định có thể vượt qua đại kiếp nạn. Kiếp nạn hiện tiền, chúng ta không hề có chút ý niệm sợ hãi, không hề có chút tâm lo lắng, rất thản nhiên tự tại, đó chính là chúng tacông phu, chân thật được thọ dụng.

(Còn tiếp)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15585)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23039)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14065)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12989)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55123)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9182)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14451)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14171)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14213)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13894)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36330)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19896)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18181)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19228)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19167)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20293)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17644)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31541)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15949)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15026)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46183)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35952)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21616)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23411)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34395)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19497)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18954)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22945)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20204)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18375)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19847)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19538)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33436)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34504)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54533)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37742)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21143)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17894)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63668)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17394)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49671)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27482)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20285)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23048)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18897)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16330)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17929)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20944)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17375)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14479)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16869)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16381)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16003)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17485)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21990)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15113)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13511)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14379)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15412)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15002)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12708)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13355)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27401)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12522)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13202)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14495)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16246)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12414)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15428)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12875)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12210)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13205)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21664)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11287)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22741)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15090)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14958)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46202)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22476)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14591)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12626)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18916)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14745)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43876)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56986)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13851)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47510)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13666)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29020)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33327)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38398)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15414)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31245)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12536)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40399)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43434)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46677)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant