Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 38

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 11058)
Phần 38


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 38)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ chín, “Hằng thuận chúng sanh”

Ý nghĩa của điều này rất rõ ràng, hồi hướng chúng sanh. Vì sao phải hồi hướng chúng sanh? Tôi đã từng nói qua với các vị, trong kinh Hoa Nghiêm, tận hư không khắp pháp giới, tất cả chúng sanh cùng với chúng tamột thể, cùng một tự tánh, cùng một chân tâm, cùng một lý thể biến hiện ra. Cảnh giới tuy không giống nhau nhưng thể tương đồng, giống như thân thể chúng ta. Nếu muốn nói thân thể này là tự thể của chính mình thì mọi người dễ hiểu, trong thân thể có rất nhiều tổ hợp tế bào, mỗi tế bào đều là chính mình, không phải là người khác. Móng tay của chúng ta là chính mình, tóc của chúng ta cũng là chính mình. Nhưng vì sao phải cắt bỏ nó, chẳng phải nó đều là chính mình sao? Sau khi hiểu rõ đạo lý thô cạn này, bạn tỉ mỉ mà nghĩ và quan sát. Kinh Phật nói, mười pháp giới y chánh trang nghiêm tất cả là do ta. Tự - tha không hai, sanh - Phật bình đẳng, chúng sanh và Phật là bình đẳng, cũng là một thể. Cho nên nhất định phải biết hồi hướng cho chúng sanh.

Hồi hướng thế nào? Tạm dùng lời đơn giản để nói là lấy tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi quan tâm tất cả chúng sanh; yêu thương và toàn tâm toàn lực giúp đỡ như giúp đỡ chính mình. Người không biết quan tâm giúp đỡ chúng sanh chứng tỏ người này không biết quan tâm chính mình. Thế gian thường nói, con người phải biết tự yêu thương. Vậy cái gì là chính mình? Đó tận hư không khắp pháp giới, thế nhưng rất ít người hiểu được. Nếu chúng ta không lướt qua kinh giáo Đại thừa thì chúng ta cũng không hiểu. Chúng taduyên phận tiếp xúc với kinh giáo Đại thừa, đó là thiện căn phước đức nhân duyên từ vô lượng kiếp đã chín muồi mới có cơ hội thù thắng như vậy. Sau khi thông hiểu, nhất định chúng ta phải làm cho được, phải biết quan tâm xã hội, thương yêu toàn thế giới, hơn nữa còn phải dùng tâm bình đẳng, không thể có “đây nồng kia nhạt”. Đó là đạo lý.

Còn trên sự thì sao? Trên sự đích thực có xa gần khác biệt, vì duyên khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói “Ngũ châu nhân quả”, trong Ngũ châu nhân quảnhân quả khác biệt, bình đẳng. Tâm của chúng ta bình đẳng, nguyện là bình đẳng, hiểu là bình đẳng, tánh bình đẳng, thế nhưng trong gia đình, cha mẹ rất gần với chúng ta, đó là duyên phận, vậy chúng ta phải thương yêu, giúp đỡ họ. Đương nhiên đầu tiên giúp đỡ cha mẹ, sau đó người trong nhà, hàng xóm lân cận, bà con trong làng, rồi tiến ra xa một chút, vì duyên không bình đẳng. Trên lý nhất định phải bình đẳng, ngay trong bình đẳng có khác biệt, ngay trong khác biệt có bình đẳng, nên gọi là “viên dung không ngại hành bố, hành bố không ngại viên dung”. Chúng ta phải tu học, phải hoằng pháp lợi sanh như vậy, mới là hồi hướng chúng sanh

Nguyện thứ mười, “Phổ giai hồi hướng”

Phổ giai hồi hướnghồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như, cũng chính là nói chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, đều tương ưng với tự tánh thì mới đúng.

“ĐỨC”

Chủ đề tổng cương lĩnh giảng kinh là “tác sư tác phạm”, học vi nhân sư, hành vi thế phạm. Chư Phật Bồ tát trong chín pháp giới thị hiện ra nhiều hình tướng, nhằm giúp tất cả chúng sanh chưa từng giác ngộ, vẫn còn đang trong tình huống mê hoặc; các ngài biểu diễn ra một người giác ngộ, biểu diễn một đời sống trí tuệ cao độ để chúng ta xem thấy, nghe thấy, và tiếp xúc được, trong lòng liền cảm ngộ, có thể sanh tín tâm, sanh hoan hỉ, và tương lai học tập với các ngài. Đó chính là đức của Đại sĩ, đức của Phật Bồ tát, và thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, mười phương thế giới chư Phật, phàm hễ dùng tâm thanh tịnh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tâm hạnh tất nhiên cũng tương ưng với hạnh của Bồ tát Phổ Hiền, chúng ta gọi là cùng một phương hướng, cùng một mục tiêu.

“CỤ TÚC VÔ LƯỢNG HẠNH NGUYỆN”

Vô lượng là không cách gì tính đếm, vô lượnghạnh”, vô lượngnguyện”. Hạnh cùng nguyện bao gồm cả thảy đời sống của chúng ta, không chỉ một đời này mà còn đời quá khứ và đời vị lai, quá khứ vô cùng vị lai vô tận. Cho nên bên trên mới để hai chữ “vô lượng”. Hiện tại hạnh của chúng tahành vi đời sống, Phật pháp thường dùng ba chữ để khái quát, “thân khẩu ý”, chúng ta gọi là hành vi ba nghiệp. Thân là tạo tác của thân thể, ngữ là ngôn ngữ, ý là tư tưởng, kiến giải. Chúng ta khởi tâm động niệm bao gồm tất cả hành vi. Hành vi vô lượng vô biên đều không ngoài ba loại lớn này, còn gọi là hành vi ba nghiệp, phải tương ưng với mười cương lĩnh của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu trái với mười đại nguyện hay mười cương lĩnh thì hành vi này coi như sai lầm, còn nếu tư tưởng hành vi của chúng ta thảy đều tương ưng với mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, thì cho dù không thể làm đến được tương ưng đầy đủ cũng có thể đạt được một trình độ tương ưng nào đó. Giống như chúng ta học sơ học, dù chưa đạt trình độ cấp bậc nào nhưng có định hướng mục tiêu, vậy cũng được. Tuy bạn chưa đi, chưa khởi bước nhưng phương hướng của bạn đã rất chính xác, hạnh nguyện của bạn chính xác, đó là hạnh Phổ Hiền. Tất nhiên tiêu chuẩn hạnh Phổ Hiền khá cao, người tu học thông thường chúng ta rất khó đạt đến tiêu chuẩn của ngài. Tiêu chuẩn của ngài cũng có rất thấp, nhưng mức thấp nhất chúng ta cũng không thể đạt đến, vậy phải làm thế nào? Phải thuận theo phương hướng, thuận theo mục tiêu.

Cụ túc vô lượng hạnh nguyện an trụ nhất thiết pháp trung”, câu kinh văn này hàm nghĩa rất sâu rộng. Ở đây chúng ta chỉ tiết lượt một số cương lĩnh tu học, tiện lợi ngay trong cuộc sống thường ngày; đem những hành vi sai lầm của chúng ta, y theo điều mục này để sửa đổi. Chúng ta nói qua tam phước, lục hoà, tam học, lục độ, sau cùng là mười nguyện Phổ Hiền. Khi Tịnh tông học hội của chúng ta thành lập, tuyển chọn năm khoá mục này, rất dễ ghi nhớ. Mỗi giờ mỗi phút đều y theo mười điều mục này để tu học. Năm khoá mục này bao gồm hành môn vô lượng vô biên của Bồ tát. Học Phật nếu chúng ta xem thường việc tu sửa tư tưởng hành vi thì trong Phật pháp, không luận nỗ lực dụng công thế nào để cầu giải, thậm chí nói pháp được hoa trời rơi rụng cũng không ích gì. Lão sư Lý thường nói “đáng sanh tử thế nào thì vẫn phải sanh tử như thế”, chính là nói so với liễu thoát sanh tử và ra khỏi ba cõi không có liên quan.

Tam phước

Những gì là phương hướng? Thế Tôn trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã giảng cho chúng ta nghe ba loại tịnh nghiệp, đó chính là phương hướng, là mục tiêu. Cho nên chúng ta học Phật phải bắt đầu từ chú giải của Đại sư Thiện Đạo, đã đặc biệtchúng ta nhấn mạnh việc tu từ tam phước.

Điều thứ nhất của tam phước là phước báu nhân thiên

Có bốn câu:

Ÿ Câu thứ nhất, “Hiếu thuận cha mẹ”

Người học Phật chúng ta nếu ngay cả làm người tốt mà không được thì làm Phật Bồ tát nhất định không có phần. Muốn học làm Bồ tát, học làm Phật, thì trước tiên phải làm người tốt. Đại sư Ấn Quang đã đề xướngGiữ tâm tốt, làm việc tốt, nói lời hay, làm người tốt”, chúng ta đem giáo huấn của tổ sư phổ biến rộng lớn.

Thứ nhất, phải hiếu thuận cha mẹ. Bốn câu trong kinh nói “hiếu dưỡng cha mẹ”, từ “dưỡng” này không chỉ phải dưỡng cái thân cha mẹ, chăm sóc đi đứng đời sống tuổi già của cha mẹ. Dù đời sống đi đứng được chăm sóc chu đáo nhưng nếu cha mẹ thường hay lo buồn, vậy chúng ta vẫn là bất hiếu, chưa thể tận được hiếu. Cha mẹ thường lo buồn điều gì? Đại khái họ rất khó xả con cháu. Con cái càng nhiều, càng bất hoà thì họ càng lo lắng. Do đó phải dưỡng cái tâm của cha mẹ để cha mẹ không lo buồn, ngược lại hoan hỉ vui vẻ trải qua ngày tháng gần cuối cuộc đời. Việc này không dễ, không những gia đình hài hoà, thân tộc hòa thuận, mà ra xã hội, bè bạn hoà kính; đi học ở trường, tôn trọng lão sư, hoà thuận với các đồng học, hữu ái đồng học; làm việc trong xã hội, tôn trọng lãnh đạo, hòa thuận đồng liêu, có như vậy cha mẹ của bạn mới có thể an lòng.

Trung Quốc thời xưa, những người làm đế vương, vì quốc gia, vì địa phương chọn ra nhân tài lãnh đạo, họ thường đề bạt người thế nào? Đó là những hiếu tử, nên gọi là “Trung thần xuất thân từ hiếu tử”. Họ ở nhà có thể tận hiếu, khi được tuyển chọn thì họ tự nhiên liền có thể tận trung với tổ quốc. Trung hiếumột thể, trong đó không có giới hạn. Người thế gian nói hiếu, nhà Nho nói hiếu, Đạo gia nói hiếu, đại khái có thể nói rất viên mãn. Thế nhưng trong nhà Phật nói hiếu thì vẫn chưa được. Nếu dùng tiêu chuẩn của nhà Phật thì bạn chỉ mới làm được một phần mười, vẫn còn chín phần mười chưa làm được, mặc dù một phần mười đối với người thế gian đã là rất viên mãn.

Một gương đại hiếu trong lịch sử Trung Quốc là vua Thuấn. Việc dưỡng cái thân và cái tâm của cha mẹ, ông thật đều làm được một cách viên mãn, không chỉ người thời đó tán thán mà người đời sau chúng ta xem thấy ghi chép này, tâm cung kính tự nhiên liền sanh khởi. Vì sao Phật pháp nói bạn chưa tận được hiếu? Vì Phật pháp hiểu rõ tường tận, sinh mạng là vĩnh hằng, không phải một đời. Nó có đời quá khứ, đời vị lai. Nếu bạn để cha mẹ bạn cứ ở trong sáu cõi luân hồi thì bạn đại bất hiếu. Phải làm thế nào giúp cha mẹ thoát khỏi sáu cõi luân hồi? Trước tiên chính mình phải thoát khỏi sáu cõi luân hồi, bạn mới có thể giúp đỡ cha mẹ, mới có thể giúp đỡ thân bằng quyến thuộc. Nếu chính bạn còn không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, thì chữ hiếu trong nhà Phật, bạn còn kém quá xa.

Điểm này chính là nói đến việc phảidưỡng cái chí của cha mẹ”, ý nghĩa rất sâu rộng. Con cái có thể làm Phật Bồ tát thì việc hiếu đối với cha mẹ mới được xem là viên mãn. Nếu lấy tiêu chuẩn của nhà Phật mà nói, nhất định phải chứng được quả Phật viên mãn thì chữ hiếu mới làm đến được viên mãn. Bồ tát Đẳng giác vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, hiếu đạo còn kém khuyết một phần, chưa viên mãn. Cho nên nhà Phật cùng nhà Nho nói hiếu, trên cảnh giới có chỗ không giống nhau. Thế nhưng Nho cùng Phật, từ học thuyết, tu trì, cho đến giáo học đều lấy hiếu làm căn bản, đều kiến lập trên nền tảng của hiếu đạo, đó là điểm giống nhau, còn cảnh giới thì không giống nhau.

Ÿ Câu thứ hai, “Phụng sự sư trưởng”

Sư đạo cũng được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo. Người học Phật chúng ta cung kính lạy Phật mỗi ngày, nhưng không cung kính đối với cha mẹ, cho nên bạn có học Phật cũng không thành. Các vị thử tỉ mỉ mà nghĩ tưởng xem, bạn học Phật được mấy mươi năm mà vẫn cứ là một phàm phu, chưa vào được cảnh giới của Phật do nguyên nhân gì? Bạn vừa mở đầu đã sai. Cha mẹ ở nhà là hai vị Phật sống nhưng bạn không lạy, lại đi lạy Phật tượng gỗ xi măng mỗi ngày, bạn làm sao có thể thành tựu? Điều này không phải tôi dạy bạn, mà là Thế Tôn dạy chúng ta.

Cha mẹ ở tại nhà là hai vị Phật sống, tuy không cần mỗi ngày sáng sớm thức dậy hướng đến cha mẹ dập đầu ba lạy, cha mẹ cũng không hy vọng bạn làm như vậy, nhưng cái tâm cung kính hiếu thuận đối với Phật như thế nào, nhất định phải đối với cha mẹ y như vậy. Người học Phật chúng ta mỗi ngày đều tụng khoá sớm, trước phải lễ Phật, sau đó tụng kinh, niệm Phật, tam quy, hồi hướng. Sau khi làm rồi, chúng ta cũng phải đem một bộ dùng ngay trong đời sống hôm nay. Ngoài cha mẹ ra, coi tất cả chúng sanh đều là Phật, thì vào được cảnh giớiHoa Nghiêm”. Phật dạy chúng ta phải đặt cha mẹ ở ngôi thứ nhất, Phật là thầy giáo nên đặt ở ngôi thứ hai. Hiện tại chúng ta xem thấy rất nhiều gia đình, cha mẹ phản đối con cái học Phật, có đạo lý hay không? Có. Vì cha mẹ thấy con cái xem trọng pháp sưsư phụ, biết cúi đầu kính lễ, cung kính cúng dường sư phụ, trong khi cha mẹ muốn mua một ít đồ thì con cái lại khó khăn, sắc mặt cũng không vui vẻ. Người làm cha mẹ liền nghĩ, nó coi trọng, thân thích với người ngoài chẳng đoái hoài ân dưỡng dục của cha mẹ cho nên từ đó cha mẹ không ủng hộ con cái học Phật. Cha mẹ có thể nghĩ, hòa thượng ở bên ngoài đó căn bản không có liên quan gì với bạn, nói ra vài câu lừa dối bạn thì bạn liền tin tưởng, như vậy làm sao cha mẹ không cảm thấy đau lòng, làm sao cha mẹ bằng lòng để con cái đi học Phật?

Cho nên cha mẹ không hề sai, sai ở pháp sư không dạy, nên con cái không hiểu chuyện, không hiểu Phật pháp. Mỗi ngày bạn cung kính đối với cha mẹ, mỗi ngày cúng dường bao đỏ, cha mẹ nhất định sẽ khen ngợi: “Con cái tôi học Phật thật đúng”, họ sẽ liền khuyên mọi người học Phật. Mỗi ngày cúng dường cha mẹ bao đỏ là đúng, không cần phải nhiều, chỉ cần hai ba đồng trong bao đỏ là được. Không quên cúng dường như vậy thì bạn chính là “Tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức”, bạn chính là “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện”. Bạn học rồi mà không chịu làm thì không còn cách nào. Nếu chưa làm thì bắt đầu từ sáng mai phải làm. Các vị không nên chỉ nghe suông kinh này mà phải nỗ lực làm, làm cho người trong gia đình đều sanh tâm hoan hỉ. Bạn học Phật khiến người cả nhà đều hoan hỉ, đều học Phật theo, sau đó bạn mới có thể khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đó là đại hiếu. Đến khi “Phụng sự sư trưởng”, cha mẹ bạn sẽ không phản đối bạn bái lão sư hay đi học Phật.

lão sư cũng phải cố gắng dạy bảo bạn làm thế nào hiếu dưỡng cha mẹ, làm thế nào thương yêu anh em, cùng xã hội đại chúng hoà thuận hợp tác lẫn nhau, giúp xã hội phồn vinh, hưng vượng và an định, đó là giáo học. Vị lão sư như thế rất đáng được chúng ta tôn kính, học tập.

Ÿ Câu thứ ba, “Từ tâm bất sát”

Sau đó chúng ta lại mở rộng tâm lượng ra, đó chính là pháp môn của Bồ tát Quán Âm. Các vị nên biết, “Hiếu thân tôn sư” phía trước là pháp môn Địa Tạng, đổi tốt tâm địa của chúng ta trong tư tưởng hành vi. Khi vừa nâng lên là pháp môn Quán Âm. Bồ tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, “Từ tâm bất sát”, pháp môn của ngài mở rộngbồi dưỡng tâm từ bi của bạn. Từ bi chính là thương yêu. Mọi người đều biết Kito giáo nói “bác ái”, kỳ thực hai chữ “bác ái” này là trong kinh Phật, cụ thể ngay bộ kinh Vô Lượng Thọ này của chúng ta. Lịch sử của chúng ta sớm hơn Kito giáo ít nhất hơn 5000 năm theo cách nói của phương Tây. Nếu lấy ghi chép của lịch sử Trung Quốc mà nói thì sớm hơn 1000 năm. Vì sao Phật pháp không dùng từ “yêu”? Yêu là cảm tình nên mới đổi sang cách gọi khác là “từ bi”. Từ bilý trí, là yêu có lý tính, không phải yêu của cảm tình. Việc này chúng ta cần phải hiểu, phải bồi dưỡng tâm yêu thương, mở rộng tâm yêu thương một cách thanh tịnhhoàn toàn bình đẳng.

Ÿ Câu thứ tư, “Tu thập thiện nghiệp”

Thứ nhất, thân “không sát sanh”, không những không sát hại chúng sanh mà nếu khiến cho chúng sanh phiền não đều tự cảm thấy lỗi lầm. Bất cứ nơi nào Bồ tát ở đều có thể khiến tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ. Chúng ta phải nỗ lực mà học tập, phải làm cho được. “Không trộm cắp”, phạm vi này rất rộng lớn. Kinh Phật đích thực phiên dịch là “bất dư thủ”, đồ vật đã có chủ, nếu người chủ không đồng ý thì chúng ta không thể lấy đi. Không những không được lấy mang đi mà còn không được di động nó, vì di động nó thì khi người chủ muốn tìm cũng khó tìm ra, họ liền bị phiền não. Cho nên điều cấm giới này không dễ gì làm được. “Không tà dâm” là điều cấm đối với đồng tu tại gia đã có vợ chồng. Kết hợp của vợ chồng là đạo nghĩa, nhất định phải giữ lễ, giữ phép, có nghĩa có tình, có ân có đức. Đây là ba điều cấm thân thể tạo tác cho nên Phật nêu ra cho chúng ta ba nguyên tắc quan trọng.

Thứ hai, khẩu nghiệp, lời nói thì rất dễ dàng phạm phải, cho nên Phật đưa ra bốn điều: “không vọng ngữ”, tức là không lừa gạt người khác, “không hai lời” tức là khiêu khích phải quấy, “không ác khẩu” là lời nói thô lỗ khó nghe thậm chí còn sanh ra lỗi lầm, “không thêu dệt”, tức là lời nói bóng bẩy ngon ngọt mê hoặc lòng người. Hiện tại chúng ta xem trên một số truyền hình, phim ảnh, ca múa, có lúc thì màu vàng, có lúc thì màu xám, loại này đều thuộc về thêu dệtPhật pháp đã dạy, khiến mọi người rất thích nghe nhưng nội dung bên trong đều không phải là chánh pháp, đều phá hoại đạo đức xã hội chứ không xây dựng. Cho nên những thứ này chúng ta phải tránh tiếp xúc, chính mình càng không nên làm theo.

Thứ ba, ý nghiệp, chính là khởi tâm động niệm. Trong ý nghiệp nhất định phải học “không tham, không sân, không si”. Thuận cảnh không sanh tâm tham ái, nghịch cảnh cũng không khởi tâm sân hận, đối với tất cả sự lý rõ ràng tường tận thông suốt thấu đáo, đó là trí tuệ, cũng chính là không mê. Tham sân si gọi là phiền não ba độc vì tất cả ác pháp đều từ tham sân si mà ra. Chúng ta ngay trong lúc giảng giải cũng thường vận dụng danh từ hiện đại, “bệnh độc”. Bệnh độc nghiêm trọng nhất là tham sân si. Nếu trong có tham sân si, ngoài có mê hoặc của năm dục sáu trần thì con người này làm sao chịu nổi, làm sao họ không bị bệnh chứ? Không những thân phải bị bệnh mà y báo cũng tuỳ theo đó chuyển đổi. Y báohoàn cảnh sinh hoạt cũng biến đi càng ngày càng xấu.

Các vị đều biết, đại hoàn cảnh sinh hoạt hiện tại của chúng ta thật ra mỗi năm mỗi tệ. Có rất nhiều người nhận định địa cầu này đã bệnh rồi, khí hậu khác thường, tai nạn triền miên, hơn nữa tai nạn mỗi năm một nghiêm trọng hơn. Địa cầu này chân thật đã bệnh, vì sao bệnh? Do tâm của chúng ta không tốt, trong tâm có quá nhiều tham sân si cho nên thân có bệnh, hoàn cảnh đời sống cũng bệnh, đúng như Phật pháp đã nói “đời ác năm trược”. Trước đây chúng ta đọc đến “đời ác năm trược” không dễ cảm xúc, vì thấy thế gian này rất đẹp mà sao Phật lại nói thế giới này là đời ác năm trược. Ngày nay chúng ta đọc đoạn kinh văn này mới sâu sắc cảm nhận. Thích Ca Mâu Ni Phật rất trác tuyệt, chân thật trí tuệ. Ba ngàn năm trước ngài đã biết địa cầu của chúng ta bệnh rồi, chân thật tướng năm trược hiện tiền.

Chúng ta phải làm ngay bốn câu này “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, phải nỗ lực chăm chỉ mà làm. Bạn niệm danh hiệu Phật thì sẽ tương ưng với Phật. Cũng giống như điện báo, đường truyền được thông, chúng ta vừa niệm Phật A Di Đà thì Phật A Di Đà liền có cảm ứng. Nếu bạn không làm được bốn câu này thì dù một ngày niệm mười vạn danh Phật hiệu, Phật A Di Đà cũng không nghe thấy một lời, vì ngay trong có chướng ngại, dẫn đến đường điện tín không thông. Đó gọi là “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”, bạn làm không được thì “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Cho nên người niệm Phật rất nhiều nhưng người vãng sanh không nhiều, nguyên nhân do đâu? Chính do chỗ này. Hiểu được rồi thì bạn phải đem những lỗi lầm thiếu sót mà thay đổi, có như vậy chúng ta cùng Phật A Di Đà liền có thể giao thông qua lại, ngay trong mỗi niệm liền có cảm ứng. Từ nền tảng này mà phước đức trời người được nâng cao, vậy mới vào được cửa Phật.

Điều thứ hai của tam phước bao gồm “Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”

Ÿ Câu thứ nhất, “Thọ trì Tam Quy”

Việc trước tiên khi vào cửa Phật là phải quy y Tam Bảo. Hiện tại ngay trong đồng tu chúng ta, người quy y Tam Bảo rất nhiều, thế nhưng có thọ trì hay không? Chưa chắc. Ở trước mặt Phật Bồ tát phát thệ, làm nghi thức quy y nhưng trên thực tế không hề quy, cũng không hề y. Chỉ làm hình thức mà thôi, vậy thì không thể dùng. Nhất định chúng ta phải thọ trì.

Thọ là hoàn toàn tiếp nhận. Hai chữ “tiếp nhận” này lại càng không dễ dàng. Nếu bạn không thông hiểu tường tận đạo lý của tam quy y, bạn không biết tác pháp thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày thì bạn làm sao học tập. Công đức, lợi ích, cảnh giới của tam quy y, bạn không biết được thì làm sao có thể sanh tâm hoan hỉ. Cho nên khi truyền thọ tam quy, nhất định phải giảng rõ ràng thấu đáo. Thông thường cử hành nghi thức tam quy, nhiều người không có thời gian nên không giảng giải một cách tường tận. Tuy nhiên chúng ta vẫn có phương pháp bổ cứu bằng việc nghe băng thu âm, đọc sách. Nói chung đồng tu nhà Phật không luận đã quy y Phật hay chưa, thì đây vẫn là bài khoá cần thiết của chúng ta.

Hiện tại chúng ta học Phật có hai quyển sách nhỏ, một là “Nhận Thức Phật Giáo”, hai là “Tam Quy Truyền Thụ”. Hai quyển này là bài khoá cần thiết, nhất định phải làm cho rõ ràng tường tận. Phật giáo rốt cuộc là cái gì? Phật giáo phải tu học như thế nào?

Danh từ “Quy y Phật, Quy y pháp, Quy y tăng”, vào thời xưa giảng giải, mọi người đều có thể lý giải, không đến nỗi sanh ra hiểu lầm. Còn hiện tại hiểu lầm cho rằng Phật pháptôn giáo, mê tín, cho nên chúng ta đối với “Phật Pháp Tăng” của Tam Bảo càng phải giảng cho rõ ràng tường tận.

Một ngàn ba trăm năm trước, Đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu thiền tông Trung Quốc khi giảng quy y đã không dùng danh từ “Phật, Pháp, Tăng” mà dùng danh từ “Giác, Chánh, Tịnh”, có thể thấy cách nói khế cơ. Nhất định phải hiểu khế cơ. Đại sư Huệ Năng không nói “Phật Pháp Tăng” vì sợ thính chúng sanh ra hiểu lầm sẽ không dễ dàng lý giải và không nhận được hiệu quả thực tế, cho nên đại sư đổi lại thành “Giác, Chánh, Tịnh”. Phật là giác, pháp là chánh, tăng là thanh tịnh. Cách nói này làm cho chúng ta cảm thấy rất dễ hiểu, hơn nữa ba chữ này đều lưu xuất từ tự tánh. Quy y giác là tự tánh giác. Do đây có thể biết quy y không phải là quy y một người nào đó. Mỗi ngày chúng ta tu thời khoá sớm tối gọi là tam tự quy. Phật là tự tánh giác, pháp là tự tánh chánh, tăng là tự tánh tịnh. Chúng ta đối với giáo huấn của Phật Đà không thể không bội phục đến năm vóc sát đất. Phật không hề dạy chúng ta quy y ngài, mà Phật dạy chúng ta quy y tự tánh Tam Bảo.

Ta muốn học Phật thì phải học với Phật Thích Ca Mâu Ni”, quan niệm này là mê tín. Phật Thích Ca Mâu Ni nói “bạn phải nương vào tự tánh của chính mình”. Phật Thích Ca Mâu Ni nương vào tự tánh, chúng ta cũng nương vào tự tánh, cho nên tự tánh Tam Bảo quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Tự tánh giác, tự tánh chánh, tự tánh tịnh là ba đại cương lĩnh tu học Phật pháp.

Chúng ta đích thực vốn mê không giác, khởi tâm động niệm vốn tà không chánh, nhiễm không tịnh, do đó Phật dạy chúng ta từ mê quay lại nương vào tự tánh giác, từ tà tri tà kiến quay đầu lại nương vào chánh tri chánh kiến, và từ tất cả ô nhiễm quay đầu lại nương vào tâm thanh tịnh. Thế là Phật giáo liền có ba pháp môn, giống như cái giảng đường này có ba cái cửa để bước vào, giác chánh tịnh. Chúng ta xem thử trình độ của chính mình, căn tánh của chính mình dễ vào cửa nào thì ta đi vào cửa đó, không nên miễn cưỡng.

Các vị nên biết thiền tông tánh tông vào từ “cửa giác”, cho nên gọi là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là người căn tánh lanh lợi nhất, thông minh nhất thế gian mới có năng lực tu pháp môn này. Đại sư Huệ Năng giảng, những đối tượng mà ngài tiếp dẫn là người thượng thượng thừa. Nếu không phải người thượng thượng thừa thì cửa này không thể vào được. Ngày trước khi tôi mới học, lão sư nói với tôi, thiền giống như một bước lên trời. Bạn có bản lĩnh này thì đương nhiên rất tốt, một bước lên trời. Người Trung Quốc gọi là công phu, từ dưới đất nhảy một cái liền lên đến lầu mười, vậy thì còn lời gì để nói. Việc này không phải người thông thường có thể làm được, vì nếu bạn không nhảy lên được mà rớt xuống sẽ tan xương nát thịt.

Người trung hạ, người không có loại căn tánh này thì phải làm sao? Đừng lo, chúng ta còn có cầu thang leo từng cấp từng cấp đi lên, tuy chậm nhưng chắc. Giáo hạ là vào từ “cửa chánh”, chánh tri chánh kiến. Nói chung đường đi của Phật rất nhiều. Leo cầu thang thời gian dài phải đến ba A Tăng Kỳ kiếp, đó là nói học giáo. Như vậy hiện tại chúng ta rớt hai cửa đầu. Chúng ta không phải là thượng căn, không thể một bước lên trời; leo cầu thang quá chậm và mệt lại không muốn leo, còn phương pháp nào không? Vẫn còn, niệm A Di Đà Phật là vào từ “cửa tịnh”, tức tu tâm thanh tịnh.

Thực tế mà nói, dù bạn có công phu hay không, chỉ cần bạn dùng một câu A Di Đà Phật tịnh hoá ô nhiễm, ngày nay chúng ta gọi là ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tâm lý, ô nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải, thậm chí ô nhiễm cả sinh lý. Chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật tịnh hoá nó, sau đó chúng ta nương công đức bổn nguyện của A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương tịnh độ. Sanh đến thế giới Cực Lạc thì thọ dụng của chúng ta so với người căn tánh thượng thượng căn của thiền tông không biết cao hơn gấp bao nhiêu lần. Cho nên pháp môn này thù thắng không gì bằng. Hôm nay chúng ta giảng chính là giảng pháp môn niệm Phật, một pháp môn được chư Phật tán thán, ngay Bồ tát Phổ Hiền cũng bội phục.

Tóm lại Tam quy, trong ba cái cửa để đi thì chúng ta nên vào cửa tịnh, vì giác và chánh rất khó đi. Tâm thanh tịnh là điểm quan trọng hơn bất cứ thứ gì.

Ÿ Câu thứ hai, “Cụ túc chúng giới”

Câu này dạy chúng ta phải trì giới. “Chúng giới” có nghĩa là rất nhiều giới, không chỉ năm giới, mười giới, giới tỳ kheo, giới tỳ kheo ni, giới Bồ tát, hoặc rộng hơn so với phạm vi này, đó là giới điều, tất cả vẫn còn nhỏ hẹp. “Chúng giới” chỉ lời giáo huấn của Phật trong kinh. Nhưng chúng ta lại không thể thọ trìkinh điển quá nhiều. Thực ra, ngay trong một đời, chúng ta chỉ thọ trì một bộ kinh là đủ, y theo lời răn dạy của một bộ kinh mà làm là đã rất viên mãn, đặc biệt bộ kinh Vô Lượng Thọ này.

Kinh Vô Lượng Thọ chính là cương yếu của kinh Đại Hoa Nghiêm, là kinh triển khai kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm lại triển khai toàn bộ Đại Tạng kinh. Chúng ta đã chọn đúng tinh hoa, chọn đúng tinh yếu thì phải y theo giáo huấn của bổn kinh mà tu hành, sẽ liền đầy đủ được chúng giới.

Ÿ Câu thứ ba, “Bất phạm oai nghi”

Dùng lời hiện đại mà nói thì oai nghi là lễ tiết. Trong thế pháp, nó là quan niệm đạo đức, phong tục tập quán, nhân tình lễ tiết, mà chúng ta cần phải biết nhất là vào thời buổi hiện nay. Với công nghệ tin tức, giao thông thuận tiện, không gian hoạt động của chúng ta rộng lớn, thường hay có kỳ nghỉ ở nước ngoài. Đi du lịch hay tham quan đến một khu vực nào đó, trước tiên chúng ta phải dò xét phong tục tập quán, phong thổ nhân tình của khu vực đó để nhập cảnh tùy tục. Tuy cùng ở với nhau thời gian ngắn thậm chí chỉ một hai ngày cũng có thể kết với người bản địa một mối duyên hoan hoan hỉ hỉ. Ngay trong cái duyên hoan hỉ, chúng ta đem Phật pháp tặng cho họ ngoài một ít lễ vật tùy thân. Đi đến đâu, chúng ta cũng kết duyên với mọi người, thậm chí chỉ bằng một tấm hình Phật nho nhỏ in rất đẹp, phía sau đề mấy câu kinh văn. Tùy lúc tặng mọi người, mỗi niệm không quên quan tâm chúng sanh, thương yêu, giúp đỡ chúng sanh.

Tặng tấm hình Phật nhỏ cho họ, chính là thương yêu, quan tâm, giúp đỡ họ; khiến cho họ “nghe qua tai mãi trồng được thiện căn”. Nếu họ có hứng thú, có tâm hoan hỉ, chúng ta liền liên hệ với họ, thường không ngừng gửi tặng vật băng đĩa. Tóm lại, mỗi giờ mỗi phút đều phải lưu ý, phải đem Phật pháp giới thiệu cho mọi người, nhất định phải từ “Bất phạm oai nghi” mà làm, để người khác thấy chúng ta liền sanh tâm hoan hỉ. Không nên để người khác nhìn thấy chúng ta liền sanh tâm chán ghét. Cái hoan hỉ đó phải nỗ lực mà làm, ngoài ra còn phải cầu Tam Bảo gia trì. Học Phật phải thành tựu tấm thành tích. Tấm thành tích đó thể hiện trên tướng hảo đổi tốt, và thân thể đổi tốt.

Trong hội trường của chúng ta, có một vị lão pháp sư Hàn Quốc. Năm nay ông tám mươi tuổi, một mình lữ hành cùng cả đống hành lý. Thân thể ông rất khoẻ mạnh, người trung niên không thể sánh bằng. Đây là biểu hiện thành tích của nhà Phật do thường niệm A Di Đà Phật. Lần này ông đến thăm, tôi đề raTín tâm niệm Phật”, ngay trong tín tâm đã đầy đủ tất cả Phật pháp. Người Trung Quốc nói “Nhất tâm niệm Phật”, nhất tâm chính là tín tâm. Còn hoài nghi, xen tạp, thì không gọi là tín tâm. Đại sư Ngẫu Ích nói lục tín trong “Yếu giải” của ngài: tín tự, tín tha, tín sự, tín lý, tín nhân, tín quả. Không có hoài nghi, không hề gián đoạn, gọi là tín tâm niệm Phật, nhất định sẽ nắm phần vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hiện tại tuy chưa đi nhưng đã được ghi danh ở thế giới Cực Lạc, họ có thể đi bất cứ lúc nào. Năm nay ông ấy tám mươi, tuổi tác tuy lớn đối với thế giới này nhưng đối với tất cả chúng sanh, ông chân thật rất thương yêu quan tâm, lo lắng. Ông chỉ sợ Phật pháp về sau không có người kế thừa, nên khi nghe nói chúng ta ở đây mở lớp bồi dưỡng một tốp pháp sư trẻ tuổi tu học pháp môn tịnh độ, ông ấy hoan hỉ không gì bằng, liền đến đây thăm viếng chúng ta. Thấy chúng ta có người kế thừa nên ông ấy vãng sanh sẽ không còn gì lo lắng nữa, có thể an tâm ra đi. Chúng ta đối với hành trì của lão pháp sư cũng rất tôn kínhtán thán.

Điều thứ ba của tam phước

Ÿ Câu thứ nhất, “Phát bồ đề tâm”

Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta vãng sanhTam bối vãng sanh”, “vãng sanh chánh nhân”, trong hai phẩm kinh này đều nói mạnh việc phát tâm Bồ Đề một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật. Nhưng vì sao người niệm Phật thì nhiều mà người vãng sanh lại ít? Từ trước, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam thường nói, một vạn người niệm Phật chân thật có thể vãng sanh chỉ khoảng ba đến năm người. Nguyên nhân cuối cùng do đâu, rất ít người biết. Họ niệm Phật rất chuyên cần, một ngày niệm mấy vạn danh hiệu Phật, xâu chuỗi không rời tay, nhưng vì sao không thể vãng sanh? Vì họ làm được “Một lòng chuyên niệm”, mà chưa làm được “Phát tâm Bồ Đề”. Từ sớm đến tối vẫn niệm Phật, nhưng vẫn còn cãi lộn với người, vậy làm sao được? Một ngày có niệm mười vạn danh Phật hiệu cũng không thể vãng sanh, vì chưa có tâm Bồ Đề. Cho nên Bốn mươi tám lời nguyện, mọi người biết được nguyện thứ mười tám là quan trọng, nguyện thứ mười chín cũng không thể xem thường.

Nguyện thứ mười chín là phát tâm Bồ Đề. Bạn không phát tâm Bồ Đề không được. Tâm Bồ Đề là gì? Là tâm chân thật giác ngộ. Giác ngộ thế gian này khổ không vô thường, đây mới là chân thật giác ngộ. Đối với thế gian này nhất định không tham luyến. Chúng ta sống trên thế gian này như sống trong căn nhà trọ, thời gian rất ngắn, tốt hay không tốt đều được, hà tất phải tính toán, vì chỉ còn mấy ngày phải đi thì có gì đáng để so đo. Cho nên phải nhìn thấy mọi thứ đều tốt, thuận cảnh tốt, nghịch cảnh cũng tốt, người thiện tốt, người ác cũng không tệ. Giữ gìn tâm địa của chính mình thanh tịnh bình đẳng, đó là tâm Bồ Đề. Chúng ta chân thành đối với người, y theo giáo huấn của Phật mà sinh hoạt, làm việc, và đối nhân xử thế tiếp vật, vĩnh viễn giữ gìn tâm thanh tịnh bình đẳng của chính mình. Như vậy mới tương ưng tâm Bồ Đề. Chiếu theo kinh điển, căn bản của tâm Bồ Đềtâm chân thành. Tâm chân thành khởi tác dụng đối với chính mình, chính là lòng tự trọng tự ái, chúng ta gọi là thâm tâm. Đối với người khác quan tâm thương yêu giúp đỡ, đối với tất cả chúng sanh nhất định phải có tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đềchân tâm, cũng là tâm Phật.

Ÿ Câu thứ hai, “Thâm tín nhân quả”

Cái nhân quả này không phải là nhân quả thông thường. Thông thường chúng ta gọi nhân quả, trồng nhân thiện được quả thiện, bạn tạo tác nhân ác đương nhiên có ác báo, đó là nhân duyên quả báo thiện ác, cái ý này còn thấp. Trong tam phước ý nghĩa của “Thâm tín nhân quả” rất sâu. Nhân quả này chuyên nói niệm Phật: “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Thế nhưng rất ít người hiểu được hai chữ “niệm Phật”, họ đều nghĩ đến miệng niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Thực ra, đó không gọi là niệm, mà gọi là hát Phật, bởi vì hát thì chỉ có miệng chứ không có lòng, không thể gọi là niệm Phật.

Chữ Trung Quốc rất trí tuệ, chữ “niệm” của Trung Quốc là một chữ “kim” và một chữ “tâm”. Trong tâm hiện tại của bạn có Phật, vậy gọi là niệm Phật, miệng niệm hay không niệm không hề gì, trong lòng thật có Phật, mỗi niệm đều là Phật. Phật ở trong tâm của bạn chưa từng bị gián đoạn, con người này mới chân thật là người niệm Phật. Chúng ta thường nói “buộc chặt niệm trong tâm”, thường hay niệm lấy. Trên thế gian, người mẹ luôn nhớ con cái của mình, niệm lực này rất mạnh. Cho dù con cái bất hiếu, hay con cái ở phương xa, người mẹ vẫn ngày ngày nhớ chúng, ngày ngày nghĩ đến. Nếu có thể đem cái niệm này đổi thành A Di Đà Phật thì họ nhất định sẽ thành Phật.

Chúng ta phải suy xét cặn kẽ hơn, trong lòng thật có Phật, trong lòng thật có pháp, chân thật muốn đem pháp môn niệm Phật thù thắng giới thiệu cho tất cả chúng sanh; cùng với Bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà, mỗi nguyện đều tương ưng. Một người chân thật niệm Phật chính là người thế giới Tây Phương Cực Lạc rộng độ chúng sanh, là người thừa nguyện tái lai đến thế gian này; sống vì tất cả chúng sanh, chết cũng vì tất cả chúng sanh; sinh hoạt và làm việc đều vì tất cả chúng sanh. Vì chúng sanhchân thật vì chính mình. Vì chính mình mà bỏ quên chúng sanhđặc biệt sai lầm, đó là tâm phàm phu, tâm luân hồi, không phải tâm Bồ Đề. Chúng ta phải sâu sắc tin tưởng cái nhân quả này “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”.

Ÿ Câu thứ ba, “Đọc tụng Đại thừa”

Bộ kinh này là kinh đại thừa, “Phật Thuyết đại thừa”, nên không cần phải niệm đại thừa khác. Đọc một bộ kinh đại thừa cũng là đọc tất cả kinh đại thừa, đó là tổng cương lĩnh, là tinh hoa đại diện. Mỗi ngày đọc đồng nghĩa tiếp nhận giáo huấn của Phật đà. Đọc qua một biến cũng giống như nghe Phật giảng khai thị một lần. Vì sao phải niệm mỗi ngày? Vì chúng ta chưa làm được. Không nên mỗi ngày đọc kinh một cách giải đãi, mệt mỏi, ngày ngày nghe Phật nói những lời này sanh ra xem thường, không có gì mới lạ. Bởi vì bạn không làm đến được cho nên phải đọc kinh mỗi ngày để được nhắc nhở. Ba ngày không đọc kinh, tâm bệnh, tập khí, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta liền thảy đều đầy đủ, vậy không đọc kinh sao được. Mỗi ngày chí ít phải đọc một lần, sau khi đọc phải ghi nhớ, phải hiểu ý nghĩa những lời nói trong kinh.

Lần này chúng taCư Sĩ Lâm có thể trong khoảng thời gian dài. Tôi đã bỏ hết tất cả những lời mời thỉnh của các khu vực khác để lưu lại nơi đây, giảng một bộ kinh Vô Lượng Thọ này, cùng với các vị đồng tu làm một cuộc nghiên cứu tỉ mỉ, nỗ lực tham hiểu, cố gắng mà học tập. Đọc tụng đại thừacần thiết, nhưng đọc tụng mà không hiểu được ý thì không được. Không hiểu ý thì đương nhiên bạn sẽ không biết phải làm thế nào. Nhất định phải hiểu được ý “Tín Giải Hành Chứng”, rồi sau đó mới có thể y dạy mà làm. Sau khi làm, bạn liền có sở đắc, có những công đức thù thắng nào?

Thứ nhất phiền não không còn. Cho dù phiền não không thể hoàn toàn hết nhưng cũng ít đi, vọng niệm ít, mọi người liền trở nên thông minh, có trí tuệ. Bạn được chuyển biến ngay tâm lý. Tâm lý chuyển biến thì dung mạo của bạn cũng đổi tốt theo. Mọi người chẳng phải đều hy vọng mình lớn lên xinh đẹp sao. Các vị thử so sánh với Bồ tát Quán Thế Âm, so sánh với Phật A Di Đà xem. Phật A Di Đàba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, một chút kém khuyết cũng không có. Kinh Phật nói “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, thân thể dung mạo của chúng ta là do tâm tưởng sanh. Mỗi ngày bạn nghĩ tham, khi nghĩ tham nhiều, mặt người sẽ giống như mặt quỷ, vì lòng tham sanh ngạ quỷ. Ngày ngày tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, bạn từ từ tỉ mỉ mà xem, tướng mạo đó dần lộ ra mặt quỷ. Tâm sân hận quá nặng, mặt địa ngục hiện ra. Ngu si hiện mặt súc sanh, vậy vì sao bạn không tưởng Phật? Ngày ngày nghĩ Phật, khuôn mặt chúng ta liền sẽ biến thành mặt của Phật. Nếu các vị muốn chính mình lớn lên xinh đẹp, dễ thương, mỗi ngày nghĩ tưởng Quán Thế Âm Bồ tát, nghĩ tưởng Phật A Di Đà, cứ nghĩ tưởng ba năm, tướng mạo của các vị liền giống như Phật Bồ tát, đó gọi là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh.

Phương pháp niệm Phật được nói rất tường tận trong “Thập Lục Quán Kinh”. Nguyên lý của quán tưởng chính là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, tưởng cái gì thì biến ra cái đó. Cho nên tuổi tác lớn, tại sao không nghĩ mình còn trẻ. Thường hay nghĩ trẻ thì ta sẽ không già. Vạn nhất không nên lo sợ tuổi tác lớn, ngày ngày nghĩ già thì năm sau sẽ già hơn năm trước. Thông thường người thế gian trước khi về hưu, họ không nghĩ họ già, ngày ngày bận lo làm việc nên quên mất tuổi già, tốc độ của sự lão hoá đến với họ rất chậm. Sau khi vừa thoái hưu, hai năm không gặp mặt mà cứ ngỡ hai mươi năm không gặp, họ già rất nhanh, do nguyên nhân gì? Vì họ không có việc làm, mỗi ngày đều nghĩ già, nghĩ bệnh. Ngày ngày chỉ có việc đi khám bác sĩ, khổ nói không ra lời. Chính họ không thể hiểu vì sao họ lại thành ra như vậy, nhưng chúng ta thì biết. Do quan niệm của họ sai.

Tại sao người học Phật, người chân thật dụng công, dù tuổi tác lớn vẫn không già? Vì họ ngày ngày tưởng Phật, tưởng Bồ tát, ngày ngày nghiên cứu kinh giáo, cho nên pháp hỉ sung mãn. Các vị phải biết, dinh dưỡng tốt nhất cho thân thể con ngườihoan hỉ. Người thế gian cũng thường nói, gặp việc vui tinh thần phấn chấn, đạo lý chính là như vậy. Nếu chân thật vào được Phật pháp, thể hội được nghĩa thú của kinh điển, pháp hỉ sung mãn, thì một ngày từ sớm đến tối hoan hỉ, công việc có nhiều hơn cũng không biết mệt, cũng không cần uống bất cứ thuốc thang gì của thế gian.

Lão pháp sư Hàn Quốc đến đây đã hai ngày, chúng ta muốn tiếp đãi ông nên hỏi ông thích ăn uống gì? Ông bảo thích uống nước lạnh. Nước biểu hiện tâm địa thanh tịnh từ bi. Lão pháp sư đến đây để hiện thân nói pháp, biểu diễn cho chúng ta xem. Phật nói những lý luận phương pháp này bạn phải thật làm mới có hiệu quả. Đọc kinh đại thừa phải hiểu nghĩa đại thừa, tu hạnh đại thừa, phải biến nó thành tư tưởng, kiến giải, hành vi thì chúng ta mới được thọ dụng chân thật. Sau khi được thọ dụng chân thật thì lợi ích chúng sanh liền thuận tiện.

Ÿ Câu thứ tư, “Khuyến tấn hành giả”

Khuyến là khuyến khích, giúp người khác tiến bộ về mặt đức hạnh, học vấn, năng lực, công việc, thậm chí tiến bộ trên đời sống. Phật phápgiáo dục toàn diện, không phải một cục diện nào. Trong trường học thế gian, bạn học một hệ khóa, cả thảy xã hội, bạn chỉ biết được cục bộ, cho nên “khác nghề như cách núi”, khi gặp một nghề nghiệp khác thì bạn bế tắc không thông. Phật pháp không phải như vậy, Phật phápviên dung. Phật pháp một thứ thông thì tất cả đều thông, không chỉ ở trong cửa Phật, tông phái, học thuật, kinh luận mà tất cả ngành nghề trên thế gian này cũng đều được thông suốt, không có chướng ngại.

Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật còn ở đời, không ít người cố ý gây khó khăn, đến hỏi một số việc mà cả đời Phật chưa từng làm qua, chưa từng có kinh nghiệm để xem thử ngài có hiểu hay không. Phật đều hiểu. Thí như Thế Tôn xuất thân từ một vương tử. Trước khi xuất gia là một hoàng thái tử, trải qua đời sống giàu có. Sau khi xuất gia, tu hành cầu đạo, ngài chưa từng làm công việc cực nhọc. Có người nói Phật mọi thứ đều có thể, vạn đức vạn năng, nên đến hỏi ngài cách thả bò. Thích Ca Mâu Ni Phật chưa từng thả bò, nuôi bò, chăm sóc bò như thế nào. Thế nhưng khi được hỏi, Thích Ca Mâu Ni Phật liền dạy họ làm thế nào chăm sóc bò, cách chăn bò ra sao. Đại Tạng Kinh còn có “Phóng Ngưu Kinh”, cao minh hơn rất nhiều so với người ngày ngày chăn bò. Mọi người gật đầu bội phục, thật có trí tuệ, ngài không hề học nhưng gì cũng biết.

Do đó, Phật pháp chân thật thông đạt thì tất cả học thuật, tất cả ngành nghề thế xuất thế gian, không thứ nào không thông. Nếu bạn đã học Phật mà còn không biết nấu cơm, xào rau thì Phật pháp của bạn chưa thông. Bạn là người học Phật, làm sao có thể nói không biết nấu cơm, không biết làm thức ăn. Không hề có đạo lý này. Người học Phật mà không biết may quần áo cũng chưa phải là người học Phật. Người học Phật phải biết mọi thứ. Bạn học biết là lẽ đương nhiên, nhưng cái bạn không học mà biết mới là chân thật học Phật, sau đó bạn mới có thể khuyến tấn hành giả.

Khuyến tấn hành giả” là giáo hoá chúng sanh, giúp đỡ người khác. Xã hội phức tạp, do đó nơi chốn giảng kinh Phật cũng không hề giống trường học, không hề giống các buổi diễn thuyết học thuật thông thường trong xã hội, có chuyên môn, có đối tượng đặc biệt. Cách diễn giảng của Phật pháp gọi là đại diễn giảng, thính chúng không phân biệt nam nữ già trẻ, ngành nghề, văn hoá. Có người học vị tiến sĩ, có người không biết chữ, đều ngồi nghe cùng một giảng đường. Nếu bạn giảng mà mọi người gật đầu, vị tiến sĩ gật đầu, người không biết chữ cũng gật đầu, tuy không phải là việc dễ dàng nhưng đó mới là trí tuệ chân thật. Kinh này nói “Trụ chân thật huệ, huệ dĩ chân thật chi lợi”, nếu chúng ta đích thân không làm đến thì không được.

Cho nên học phải hiểu, sau đó phải làm cho được trong cuộc sống thường ngày. Làm được chính là chứng quả, áp dụng những phương pháp lý luận này vào hiện thực. Từ hiện thực chứng minh lý luận của nó là chính xác, phương phápchính xác, đây gọi là tác chứng. Mỗi câu mỗi chữ trong kinh Phật, chúng ta đều phải đối hiện ngay cuộc sống, viên mãn làm ra thành tích tốt đẹp nhất, thù thắng nhất. Đại chúng xã hội xem qua làm sao không ngưỡng mộ, làm sao không phát tâm đến học tập. Chúng ta không đi tìm họ thì họ sẽ tìm đến chúng ta cầu học. Trong nhà Phật không có chiêu sinh, làm gì có chuyện lôi kéo tín đồ, “chỉ văn lai học, dị văn vãng giáo”. Chỉ cần chúng ta biểu hiện là một tấm gương tốt, họ sẽ tự động đến cầu học, không cần chúng ta khuyên. Khi đã nhập môn, phải khuyên họ nỗ lực tinh tấn, hy vọng sớm ngày thành tựu, sớm ngày tham gia sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của chư Phật Bồ tát.

Hiện tại nói “hoằng pháp lợi sanh” trong Phật đường hoặc đạo tràng giảng kinh trường kỳ thì có thể được, nhưng nếu nói danh từ này ở bên ngoài thì ít người chân thật hiểu. Cho nên phải đổi “hoằng pháp lợi sanh” sang cụm từ khác, đó là tham gia công tác “giáo học xã hội”, như vậy mọi người sẽ dễ hiểu hơn. Hoằng pháp lợi sanh chính là giáo học xã hội. Chúng ta từ công tác giáo học xã hội, tham gia công tác giáo học xã hội của chư Phật Bồ tát, cho nên chư Phật Bồ tát trong xã hội rộng lớn thị hiện ở các ngành nghề, thân phận nam nữ già trẻ, gọi là “tùy loại hóa thân, tùy cơ diễn giáo”. Diễn là biểu diễn, giáo là dạy bảo, biểu diễn chính mình để người khác xem, rồi thỉnh giáo với bạn. Người xuất gia hay tại gia đều phải toàn tâm, toàn thân làm việc, gọi là “tác sư, tác phạm”.

Ví dụ bạn buôn bán, là Bồ tát thương nhân, nghề nghiệp mà bạn kinh doanh là mô phạm điển hình cho xã hội. Bạn toàn tâm toàn lực làm tốt sự nghiệp của mình thì cái sự nghiệp này trên toàn thế giới là đệ nhất trong các nghề nghiệp đồng hạng, trở thành mô phạm cho nghề nghiệp đồng hạng. Đây chính là sự nghiệp của Bồ tát, không cần phải đổi thân phận. Còn nghĩ rằng nhất định phải đổi hình tướng thành một người xuất gia, cạo đầu, mặc áo dài, đắp y, như vậy mới là học Phật, thế thì bạn hoàn toàn sai lầm, không hiểu gì về Phật pháp. Đại Bồ tát là, ở loại thân phận nào phải giống người của thân phận đó, nghề nghiệp nào phải giống người của nghề nghiệp đó, còn gọi là tu Bồ tát hạnh. Thương nhân Bồ tát là người ngay trong thương nhân thành công viên mãn, trở thành mô phạm trong thương nhân.

Thương nhân Bồ tát khác với thương nhân thành công thông thường ở chỗ nào? Ở lòng từ bi. Người thông thường buôn bán thành công là họ tự lợi, lợi ích chính mình, mặc dù họ cũng làm một ít công việc từ thiện để hồi báo xã hội, lấy từ xã hội hồi báo lại xã hội. Nhưng họ hồi báo xã hội vẫn còn cần danh, cần lợi. Còn Bồ tát không có danh lợi, không hề đụng đến danh vọng lợi dưỡnghoàn toàn hồi báo cho xã hội, làm ra hoàn toàn vì lợi ích chúng sanh. Hay nói cách khác, Bồ tát từ bất cứ nghề nghiệp nào, đối với xã hội, đối với đại chúng, đều phục vụ, không ham cầu danh vọng lợi dưỡng.

Các vị phải biết, trong phục vụ nhất định sẽ nhận được tôn kính của xã hội đại chúng, “thật chí danh quy”. Cái danh đó là do người khác tôn kính, không phải chính họ muốn. Nếu chính họ lấy đây làm mục tiêu thì họ sai, họ vẫn còn là phàm phu, vẫn tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Cho nên chính mình đích thực phải xa lìa danh vọng lợi dưỡng, không luận từ ngành nghề nào, toàn tâm toàn lực phục vụ xã hội, phục vụ đại chúng, không gì không là sự nghiệp của Bồ tát hạnh, điểm này chúng ta nhất định phải hiểu.

Cho nên trong giáo học của đại thừa, Phật hy vọng tất cả chúng sanh, mỗi mỗi làm Bồ tát, mỗi mỗi đều làm Phật, không phải chỉ mình ngài làm Phật, một ít người làm Bồ tát. Phật hy vọng toàn thể chúng sanh đều làm Phật Bồ tát, vậy mới phù hợp với đại thừa giáo. Bộ kinh này là đỉnh cao nhất của đại thừa giáo, là pháp môn cứu cánh, viên mãn nhất.

Sau khi Phật nói xong ba điều này, là “chánh nhân tịnh nghiệp ba đời chư Phật”, Phật lại giới thiệu cho chúng ta một số vị Phật hiện tại, Phật vị lai. Phật vị lai chính là tất cả chúng sanh của hiện tại. Trong Phật pháp, vĩnh viễnbình đẳng, chân thật bình đẳng, pháp môn tu học của ba đời chư Phật đương nhiên không hoàn toàn giống nhau. Như vừa nói, có người vào từ “cửa giác”, có người vào từ “cửa chánh”. Đó là ba pháp căn bản. Từ ba điều này lại phân ra thành nhiều nhánh rễ. Pháp môn theo đó liền biến thành vô lượng vô biên pháp môn. Tuy nhiên không luận tu pháp môn nào cũng đều lấy ba điều kiện này làm nền tảng. Cũng như chúng ta đổ móng trước khi xây lầu cao.

Singapore có rất nhiều lầu cao không hề giống nhau. Mỗi một tòa lầu có phong cách riêng của nó, tạo hình của nó không như nhau mặc dù nền tảng thì như nhau. Ba tịnh nghiệp này là nền tảng, nhất định giống nhau, rất kiên cốvững chắc, vật kiến tạo bên trên mới không bị dao động. Quán Kinh nói, “Tịnh Nghiệp Tam Phước” là nền tảng cho tất cả pháp môn tu học chứng quả. Thực tế, chúng ta tu hành kém quá xa so với đại đức xưa. Xem cách tu hành của người xuất gia trong “Cao Tăng truyện”, cách tu hành của cư sĩ tại gia trong “Cư Sĩ truyện”, hay “Thiện Nữ Nhân truyện”, người ngày xưa tu hành chỉ cần ba đến năm năm, chậm thì mười đến hai mươi năm đều thành tựu không thể nghĩ bàn. Ngày nay chúng ta vào thời đại khoa học, đời sống dư giả, tiến bộ rất nhiều so với người xưa, tại sao lại tu hành không bằng người xưa? Điều này đáng để chúng ta sâu sắc phản tỉnh.

Thực tế, chúng ta đã xem thườngTam Phước”. Ví như xây phòng ốc, người ta xây thành công, còn chúng ta xây được phân nửa thì sụp đổ, hóa ra bên dưới không có móng. Nếu các vị muốn chân thật từ nền móng mà làm thì sáng sớm ngày mai bắt đầu, cung kính cha mẹ, cúng dường bao đỏ cho cha mẹ, phải bắt đầu từ đây. Tam phước mà hôm nay tôi nói là một yếu tố nhỏ nhưng rất quan trọng trong “vô lượng hạnh nguyện” mà chúng ta phải nỗ lực ghi nhớ và hành theo.

Lục Hòa

Lục Hòa Kính” là qui củ mà Thế Tôn định ra cho chúng ta cùng sống với mọi người cần phải tuân thủ nguyên tắc. Lục là sáu điều, trong sáu điều có hoà, không những hòa mà hơn nữa phải kính, gọi là lục hòa kính. Năm xưa pháp sư Minh Sơn đến Singapore, ông đã viết cho chúng ta sáu phép hòa kính. Chúng ta in rất nhiều, phổ biến cũng rất rộng sáu điều này. Chỉ cần đồng tu học Phật, không luận tại gia xuất gia, không luận từ ngành nghề nào đều cần thiết. Mỗi niệm không rời, phải thường ghi nhớ trong tâm, chăm chỉ nỗ lực y giáo phụng hành.

Thứ nhất, “Kiến hòa đồng giải”

Ngày nay trong xã hội, nhiều người đem hoà bình cùng sống, cùng tồn tại phát triển. Khẩu hiệu này gắn trên miệng, tuy phổ biến tuyên truyền khắp nơi nhưng hiệu quả chưa được như ý muốn. Tuy nói cùng tồn tại hoà bình, nhưng dùng phương pháp gì để đạt đến cùng tồn tại hòa bình thì họ không hề nói được. Chỉ nói một cách không có lý luận, không có phương pháp, thì câu khẩu hiệu đó đương nhiên trống không. Phật dạy chúng taKiến hoà đồng giải” chính là lý. Nền tảng của hòa thuận được xây dựng trên ý niệm này.

Kiến” là tư tưởng, kiến giải. Làm thế nào đạt đến được đồng giải? Dùng lời hiện tại để nói, chính là xây dựng cùng hiểu. Mọi người chúng takiến giải như nhau, nhận biết như nhau, đó là căn bản cùng sống với nhau hòa bình. Vậy tiêu chuẩn ở đâu để kiến giải giống nhau, cách nghĩ giống nhau? Giáp nói tư tưởng kiến giải của ông chính xác, Ất cũng nói tư tưởng kiến giải của ông chính xác, rốt cuộc ai chính xác? Chúng ta phải theo ai? Thực ra, chúng sanh mạt pháp ngày nay cũng giống như kinh Địa Tạng nói “can cường nan hóa”, đều cho rằng chính mình đúng, người khác sai. Người người đều nghĩ như vậy, cho nên sanh ra rất nhiều mâu thuẫn xung đột, làm gì có hoà bình.

Chúng ta xem thấy đấu tranh khắp nơi. Muốn tiêu trừ những đấu tranh này nhất định phải xây dựng cùng hiểu. Phật nói, mỗi người phải buông bỏ thành kiến của chính mình. Việc này cao minh, Phật tuyệt nhiên không hề ý nói, “tri kiến của các người sai rồi, tri kiến của ta mới chính xác”, Phật không hề nói như vậy. Nếu Phật có cách nói này, chúng ta nghe rồi cũng lắc đầu, “Thích Ca Mâu Ni Phật ngài cũng chưa chắc gì chính xác, làm sao tôi có thể đi theo ông được?”.

Phật nói, mọi người chúng ta đều đem cách nghĩ, cách nhìn thảy đều buông bỏ, như vậy chính xác chúng ta có thể tiếp nhận. Chư Phật Như Lai không hề sỏ mũi chúng ta kéo đi, mà dạy bảo chúng ta người người đỉnh thiên lập địa, cho nên Phật pháp gọi Phật là “Vô Y Đạo Nhân”. Phật dạy chúng ta không dựa vào bất cứ người nào. Vừa vào cửa Phật nhận lễ tam quy y. Phật không hề bảo bạn quy y bản thân ngài. Quy y Phật mang ý nghĩa của giác, tự tánh giác. Bạn quy y tự tánh giác của bạn, tự tánh giác là Phật bảo. Quy y tự tánh chánh của bạn là pháp bảo, chánh tri chánh kiến. Quy tự tánh tịnh, tự tánh tâm thanh tịnh, đó là tăng bảo. Cho nên quy y gọi là tam tự quy. Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nói chúng ta phải quy y ngài. Sự vĩ đại của Phật chính ngay chỗ này, đáng được người tôn kính, bội phục. Cách nói của Phật là chân lý, thế nhưng phàm phu chúng ta nghiệp chướng tập khí quá sâu nặng, không có năng lực hồi đầu. Chúng ta rất muốn từ mê quay lại nương vào tự tánh giác nhưng không làm được. Vậy người nào có thể làm được? Người có thể làm được, chúng ta không gọi họ là phàm phu.

Trong pháp đại thừa, vừa quay đầu lại thì siêu phàm nhập thánh, kinh nói Bồ tát sơ trụ, chân thật đã quay đầu. Sơ trụ gọi là phát tâm trụ, chân thật từ mê quay đầu đến giác ngộ. Mê mới có sáu cõi, mới có mười pháp giới. Từ mê quay đầu, chính là từ sáu cõi hay từ mười pháp giới quay đầu lại. Vừa quay đầu thì vào pháp giới nhất chân, đó là điều chư Phật Như Lai kỳ vọng chân thành đối với tất cả chúng sanh, hy vọng chúng ta ngay một đời này siêu phàm nhập thánh. Các ngài chân thật từ bi đến tột đỉnh, quan tâm thương yêu đến tột đỉnh. Các ngài lấy pháp chân thật chí thiện truyền thụ cho chúng ta, hy vọng chúng ta một đời đạt đến thành tựu chí thiện viên mãn, đây là tâm nguyện của Phật. Chúng ta từ tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm quay đầu lại chánh tri chánh kiến, kinh Pháp Hoa gọi là “Phật chi tri kiến”, tức tri kiến trên quả địa của Như Lai.

Làm sao vừa quay đầu thì liền được tri kiến trên quả địa của Như Lai? Vừa quay đầu gọi là tánh; tri kiến trên quả địa của Như Laitri kiến tự tánh, tri kiến của bổn tánh. Bồ tát Mã Minh nói trong Khởi Tín Luận: “bổn giác vốn có”, không phải từ bên ngoài đến. Vì sao chúng ta vốn có? Phật tri Phật kiến có thể bị đánh mất, không khởi được tác dụng, biến thành tà tri tà kiến. Then chốt ở chỗ bạn một niệm vừa mê, mê rồi thì chánh tri chánh kiến vốn có trong tự tánh của bạn biến thành tà tri tà kiến. Khi vừa quay đầu, trí tuệ trong tự tánh liền hiện tiền, tự tánh pháp bảo. Mê mất tự tánh, đức năng vốn có của chúng ta cũng thay đổi, biến thành phiền não sanh tử, nơi nơi đều bị chướng ngại, nghiệp chướng hiện tiền. Cho nên chúng ta phải quy y tịnh. Từ trong ô nhiễm quay đầu nương vào tâm thanh tịnh, hồi phục lại vạn đức vạn năng của tự tánh chúng ta.

Tam quy y này, Phật là thể, pháp là trí tuệ, tăng là tác dụng, từ chỗ này xây dựng cùng hiểu, xây dựng kiến hòa đồng giải, lời dạy này đương nhiên làm cho chúng sanh chín pháp giới chân thật tâm phục khẩu phục. Thế nhưng nghiệp chướng chúng ta thực tế quá nặng, tập khí quá sâu, chúng ta không chuyển đổi được, hay nói cách khác, rất muốn quay đầu mà không quay được. Vào lúc này chúng ta phải tạm dùng pháp phương tiện. Các vị nên biết, phương pháp này chỉ dùng tạm, hữu ích đối với phàm phu sơ học. Chúng ta cần phải tìm hình tướng Tam Bảo để nương tựa, thế pháp nói chúng ta phải tìm núi để dựa.

Phật thì chúng ta tìm ai? Tìm Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây không phải là kỳ vọng của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài hy vọng chúng ta học tập với Phật A Di Đà. Bạn thấy trên kinh tán thán Phật A Di Đà đến tột đỉnh: “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Nếu chúng ta lấy Phật A Di Đà làm thầy, quy y Phật A Di Đà là nguyện vọng của Phật Thích Ca Mâu Ni, thì Phật Thích Ca Mâu Ni hoan hỉ, khen bạn thật biết nghe lời. Phật A Di Đà Phật ở đâu? Không nơi nào không có, nhưng vì sao chúng ta không nhìn thấy ngài? Không nghe được ngài? Không tiếp xúc với ngài?. Ngài chân thật không nơi nào không có, chỉ vì mắt thịt phàm phu chúng ta không thấy được, thế nên Thế Tôn đã giảng cho chúng ta kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh chính là Phật, Phật không hề rời khỏi kinh. Y theo phương pháp lý luận của kinh điển mà làm, chính là qui y Phật A Di Đà, thân cận và học tập với Phật A Di Đà.

Phật A Di Đà không hề có chút kém khuyết, là tấm gương tốt nhất cả đời cho chúng ta tu hành làm người. Cho nên quy y Phật A Di Đà thực tiễnPhật bảo. Quy y pháp cũng thực tiễn. Hiện tại tịnh tông lưu truyền năm kinh một luận. Trong tất cả tông phái, tất cả pháp môn, số lượng kinh điển của tịnh tôngít nhất, nhưng lại thích hợp với thời hiện đại này. Thời đại này mọi người phân công rất chặt chẽ, công việc bận rộn phải tranh thủ từng giây. Kinh luận bộ lớn chúng ta khó tiếp nhận, trong khi kinh điển của tịnh tông thì dễ dàng hơn nhiều. Nếu thực tế công việc quá bận, đến mức năm kinh một luận vẫn không cách gì thọ trì thì tùy tiện ta chọn ra một loại, cả đời phụng hành đều được lợi ích viên mãn.

Thế Tônchúng ta giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, tường tận nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Trong năm kinh đơn giản nhất là Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông Chương, toàn bộ kinh văn chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ, còn ít hơn so với Bát Nhã Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ mà các vị thường đọc, làm gì có chuyện không thể thọ trì. Nhất định chúng ta phải thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói, đó mới là chân thật quy y, chân thật quay đầu. Chúng ta đọc tụng kinh văn phải thâm giải nghĩa thú, tường tận thông hiểu càng sâu càng tốt, từ sơ phát tâm mãi đến thành Phật đều không thể gián đoạn.

Kinh này hiểu được bao sâu? Xin nói với các vị “nghĩa sâu không đáy, ý rộng vô biên”. Nghĩa thú của kinh Phật gọi là tánh, cho nên sâu rộng của ngài cũng gọi là tánh. Chúng ta phải từ trên nền tảng này mà xây dựng cùng hiểu, y theo giáo huấn của Phật. Đây chỉ là giai đoạn ban đầu. Vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, dù cõi phàm thánh đồng cư hạ hạ phẩm vãng sanh, đều là y tự tánh Tam Bảo. Đó là pháp chân thật, không còn phương tiện. Phật pháp thù thắng dường nào, sau khi cùng hiểu thì phải nghĩ đến phương pháp đạt đến hòa thuận cùng sống.

Thứ hai, “Giới hòa đồng tu”

Chữ “giới” này cùng ý nghĩa với “trì giới” trong lục độ ở nghĩa rộng. Các vị xem thấy “giới hoà đồng tu”, thường nghĩ tưởng hạn hẹp ở năm giới, bát quan trai giới, mười giới, thậm chí Bồ tát giới của các Bồ tát tại gia thọ trì, như vậy là sai. Lục hoà kínhtrì giới trong lục độ Bồ tát phải được hiểu theo nghĩa rộng, ngôn ngữ ngày nay gọi là giữ phép. Phật trong tất cả kinh luận giáo huấn chúng ta, chúng ta đều phải tuân thủ không chỉ ở giới điều, không chỉ nắm lấy cương lĩnh mà còn phải biết tế hạnh. Lễ tiết nhỏ nhất ngay cuộc sống thường ngày đều phải tuân thủ. Nếu như bạn xem thường, quên mất những lễ tiết vi tế này thì bạn mê hoặc điên đảo, bạn vẫn là bất giác. Không chỉ giáo huấn của Phật, pháp căn bản của quốc gia, hiến pháp, thậm chí đến phong tục tập quán, đạo đức, quan niệm lý luận, pháp khôngvăn tự, chúng ta thảy đều phải tuân thủ.

Học Phật, tất cả chư Phật Bồ tát là người tuân thủ pháp tắc. Người biết pháp tắc một cách qui củ nhất là Phật Bồ tát. Các ngài làm tấm gương để chúng ta xem. “Giới hòa đồng tu” chính là dạy chúng ta phải giữ phép. Người thông thường từ nhỏ đến lớn, khi còn thơ ấu phải tiếp nhận giáo dục của cha mẹ, thầy giáo, phải được nuôi thành quan niệm giữ phép. Chúng ta học Phật vừa vào cửa Phật thì phải được bồi dưỡng quan niệm giữ phép. Chỉ cần giữ phép, nhất định có thể hoà thuận cùng sống với mọi người.

Thứ ba, “Thân hòa đồng trụ”

Chúng ta cùng rất nhiều chúng sanh hiện tiền trên địa cầu này phải thương yêu địa cầu này. Phải mỗi giờ mỗi phút giữ gìn hoàn cảnh đời sống của chúng ta. Chúng ta hưởng thụ cũng phải để người khác hưởng thụ, đời này hưởng thụ còn phải nghĩ đến đời sau. Đây là từ đại hoàn cảnh. Thu nhỏ lại một chút thì quốc gia này cùng hòa thuận với quốc gia khác. Lại thu nhỏ nữa thì đoàn thể này cùng hòa thuận đoàn thể khác. Chẳng hạn Cư Sĩ Lâm là một đoàn thể có rất nhiều đồng tu. Các đồng tu chọn ra một lãnh đạo đoàn thể là Mộc trưởng. Mộc trưởng và cán bộ lãnh đạo các bộ phận khác cũng chế định ra pháp qui, chương trình. Như vậy chúng ta là một phần tử của xã đoàn, sinh hoạt qui củ trong xã đoàn này, thảy đều phải biết tuân thủ. Các cư sĩ tại gia khi trở về nhà thì gia đình chính là xã đoàn nhỏ nhất. Người cả nhà phải hoà thuận, biết nghe lời dạy bảo của Phật, tiếp nhận giáo huấn của Phật, y theo kinh điển mà làm. Đó là “thân đồng trụ”.

Chúng ta cùng tất cả chúng sanh sống trong hoàn cảnh này thì làm sao không thương yêu hoàn cảnh này, làm sao có thể tùy tiện phá hoại hoàn cảnh. Ý nghĩa ở đây rất sâu rộng, phải tỉ mỉ mà thể hội. Mỗi niệm bảo hộ an toàn cho đoàn thể, mỗi niệm phải nghĩ đến hạnh phúc mỹ mãn cho tất cả mọi người trong đoàn thể.

Thứ tư, “Khẩu hòa vô tranh”

Phật biết những hiểu lầm kết oán của chúng sanh phần lớn đều do lời nói tạo thành, nên gọi là “nói nhiều ắt sai”. Không nên nói quá nhiều, nói nhiều sẽ có sai lầm, dễ dàng dẫn đến nghi hoặc hiểu lầm của người khác, thế là liền kết oán với người. Sau khi kết oán thì oan oan tương báo không hề ngừng dứt. Ngay trong hữu ý vô ý tạo thành chướng nạn trên đạo Bồ Đề. Cho nên người xưa dạy “nói ít một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật”, ngay khi chúng ta muốn nói chuyện, lời nói vừa đến cửa miệng thì “A Di Đà Phật”. Cách này rất tuyệt, chân thật làm đến được “khẩu hoà vô tranh”. Một ngày từ sớm đến tối nhìn thấy người hoan hỉ vui vẻA Di Đà Phật”. Dù người ta nói chuyện gì, chúng ta đều nói “A Di Đà Phật”, tâm bình khí hòa. Một câu A Di Đà Phậtchân ngôn, ngoài câu A Di Đà Phật, còn lại toàn là vọng ngữ. Đọc kinh cũng không thể, chỉ niệm Phật mới vãng sanh, có thể thành Phật. Đọc kinh vẫn còn có thể khởi vọng tưởng. Vọng tưởng xen tạp ngay trong kinh văn thì kinh đó có đọc cũng không hiệu quả, không có tác dụng.

Người xưa nói “đọc kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật”, vì sao? Phật hiệu rất đơn giản, vọng tưởng khó mà xen tạp. Đọc kinh càng dài càng dễ xen tạp. Bạn tưởng tượng xem, bạn đọc chú Lăng Nghiêm nhất địnhvọng tưởng xen tạp trong đó, vì thời gian quá dài, sức mạnh nhiếp thọ của chúng ta không đủ. Niệm một chú vãng sanh tương đối ngắn, tinh thần tập trung từ đầu đến cuối một biến đại khái không đến nỗi xen tạp. Nhưng nếu bạn đọc một lúc ba mươi biến, hay năm mươi biến, nhất định sẽ có vọng niệm xen tạp trong đó. Phật hiệu thì đơn giản hơn nhiều.

Ngày trước tôi truyền dạy cho mọi người niệm Phật hiệu “Nam mô A Di Đà Phật” sáu chữ, một hơi niệm mười lần. Trong mười câu Phật hiệu không xen tạp vọng niệm nào. Một phút thì lực nhiếp thọ của chúng ta có thể làm được, nhưng năm phút thì không thể làm được. Cho nên mỗi ngày thời khóa này của bạn phải là một phút mười câu Phật hiệu. Mười câu Phật hiệu này tương ưng với nguyên tắc niệm Phật của Bồ tát Đại Thế Chí, “tịnh niệm tương tục”, tịnh niệm không hoài nghi, không xen tạp; tương tục là mười câu Phật hiệu liên tục. Mỗi ngày niệm ít nhất chín lần, đương nhiên càng nhiều càng tốt. Cứ như thế tạo thành thói quen, chân thật một lòng chuyên niệm, lại có nguyện vọng khẩn thiết cầu sanh tịnh độ thì làm gì không được vãng sanh.

Đừng xem thường một ngày chín niệm, nó chân thậthiệu quả và thuộc về tịnh niệm liên tục. Cho nên nhất định phải làm được “khẩu hoà vô tranh”. Tất cả pháp thế gian đều là giả, không phải thật, có gì đáng để tranh luận. Người khác tán thán ta là giả, đừng ưa thích; người khác hủy báng ta, nhục mạ ta cũng là giả, hà tất sân hận. Họ mắng người khác, vì sao bạn không tức giận? Vì đó không phải là mắng ta. Mắng người khác bạn không tiếp nhận, nhưng khi họ mắng bạn, bạn lại tiếp nhận, về nhà tức giận bực dọc. Bạn hãy đem chính mình xem thành người khác, họ mắng người khác không liên quan gì với ta, như thế bạn sẽ không tức giận. “Ta” là giả, danh là giả, tướng cũng là giả. Người ta mắng, người ta làm nhục, thực tế mà nói cùng với cái danh này, cái tướng này, gió thổi qua tai không hề liên quan. Đây là chân tướng sự thật. Hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta lại đi học Phật, hiểu được một chút đạo lý thì khi họ mắng, ta hãy “A Di Đà Phật” cám ơn đã tiêu tai giải nạn. Họ là đại thiện tri thức, đại ân nhân của chúng ta. Mỗi câu của họ đều tiêu tai giải nạn thay ta. Nghiệp chướng của chúng ta sẽ được tiêu hết. Cho nên bạn có thể hoan hỉ tiếp nhận, như như bất động.

Còn nếu bạn khởi tâm sân hận, vậy thì bạn tạo nghiệp chướng. Chỉ ở ngay trong một niệm, khi chuyển đổi lại không những không tạo nghiệp chướng trái lại còn tiêu nghiệp chướng. Phật thật có trí tuệ, ngài dạy chúng ta tuyệt chiêu này. Cho nên đối với tất cả oan gia trái chủ, mỗi ngày chúng ta đem công đức tu tích được hồi hướng cho họ, báo đại ân của họ. Những oan gia trái chủ này ngày ngày giúp ta tiêu nghiệp chướng vô lượng vô biên tích lũy từ vô thỉ kiếp.

Các vị phải biết, người mỗi ngày tán thán bạn, tâng bốc bạn, họ không thể tiêu được nghiệp cho bạn. Tán thán nhiều thì cống cao ngã mạn càng sanh, lại sanh ra nghiệp chướng. Do đó “khẩu hòa vô tranh”, phải biết nên làm thế nào.

Thứ năm, “Ý hòa đồng duyệt”

Chân thật tu học tương ưng như pháp, bạn nhất định được pháp hỉ sung mãn, đời sống của bạn chân thậtlìa khổ được vui”. Các bạn phải ghi nhớ, sự an vui này không phải do được tiền của, cũng không phải được công danh phú quý. Thực ra, an vui và công danh phú quý, tiền của hoàn toàn chẳng có liên quan. Nếu không tin tưởng, bạn có thể hỏi thử những người đạt địa vị rất cao, có nhiều tiền của xem họ có an vui không. Họ không vui, họ không dám đi một mình trên phố vì sợ bị ám sát, cướp giật. Ngày ngày họ đề cao cảnh giác, sống trong lo sợ. Ra cửa phải nhờ vệ sĩ. Bạn nói xem có đáng thương không? Làm sao được như người nghèo không có thứ gì, muốn đi đâu thì đi, rất tự tại, có thể hoan hỉ với bất cứ người nào. Cho nên an vui không có quan hệ gì với những thứ này.

Sự an vui chân thậtpháp lạc. Thông hiểu đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đó mới là thật an vui. Khởi tâm động niệm lời nói việc làm đều tương ưng với lý, tương ưng với chân tướng sự thật.

Ý hòa đồng duyệt, mỗi người chúng ta đều y theo phương pháp lý luận cảnh giới của kinh Vô Lượng Thọtu học, đều học tập Phật A Di Đà thì thật an vui. Thế xuất thế gian không có bất cứ thứ an vui nào có thể so sánh được với an vui của người niệm Phật. Tu học bất cứ pháp môn nào cũng không thể sánh được với sự an vui của pháp môn niệm Phật. Nếu bạn nói: “tôi niệm Phật nhiều năm đến nay, niệm rất khổ sở, không có một chút an vui nào, đó là do nguyên nhân gì?” Vì bạn vẫn chưa vào được cửa. Bạn niệm không được tương ưng; ngày ngày đọc kinh, đạo lý trong kinh nói không hiểu, không rõ ràng, không tường tận, không thể đem những đạo lý này dùng ngay trong cuộc sống của chính mình. Có học mà không thể dùng, cái khổ của bạn không lìa khỏi. Nếu như cái bạn đã học thảy đều áp dụng ngay trong cuộc sống thường ngày; từng li từng tí đều có thể tương ưng với cảnh giới phương pháp lý luận của kinh điển thì làm gì có chuyện không an vui. Tây Phương gọi là thế giới cực lạc, hiện tại chúng ta tuy chưa đến, nhưng không khí của thế giới cực lạc chúng ta đã có; an vui của thế giới cực lạc có rồi. Như vậy hiện tạihoa báo, chứng thật quả báo thù thắng.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15582)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23037)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14062)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12987)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55119)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9177)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14449)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14169)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14212)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36329)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19892)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18180)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19227)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19165)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20293)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17643)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31539)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15945)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15025)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46182)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35948)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21616)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23409)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34390)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19494)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18952)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20197)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18375)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19846)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19537)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33431)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34495)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54531)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37737)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21141)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17892)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63659)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17392)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49666)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27480)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20280)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23048)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18895)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16328)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17925)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20942)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17372)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14477)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16868)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16378)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16000)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17483)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21988)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15111)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13510)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14377)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15411)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15001)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12706)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13353)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27401)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12520)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13200)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14493)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12413)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15426)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12872)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12209)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13205)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21661)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11286)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22741)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15088)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14953)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46198)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22472)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14590)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12626)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18916)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14744)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43874)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56981)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13848)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47508)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13662)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29018)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33324)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38397)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15411)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31243)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12536)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40397)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43429)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46671)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant