Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 8

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10816)
Phần 8


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 8)


Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ hai, “Xưng tán Như Lai”

Câu này rất quan trọng đặc biệtxã hội ngày nay. Xã hộian định hay xã hội động loạn đương nhiên phụ thuộc nhiều nhân tố, nhưng có một nhân tố quan trọng nhất, Phật pháp gọi là duyên. Một trong số các duyên chínhtán thán, cũng chính là ngôn ngữ lời nói của chúng ta. Phật Bồ tát hy vọng chúng taxã hội này phải ẩn ác dương thiện. Kinh văn phía sau, Phật dạy “Khéo giữ khẩu nghiệp không nói lỗi người”. Người ta có điểm tốt, chúng ta phải tán thán, biểu dương, xã hội này liền có thể từ trong hỗn loạn chuyển thành an định. Toàn thế giới ngày nay đều loạn, căn nguyên đó do người thế gian tán thán ác mà che giấu cái thiện. Thiện thì không nói đến, ác thì lại tận lực tuyên dương, tô vẽ khiến lòng người bất an.

Lời nói của chúng ta phải vì xã hội gánh trách nhiệm, phải vì nhân dân cả thế gian gánh trách nhiệm, không thể tuỳ tiện mà nói. Xã hội ngày nay, có thể nói luân lý đạo đức không có người giảng. Nếu trên miệng ai nói đến luân lý đạo đức thì bị mọi người đều mắng là lạc hậu, lỗi thời, không hợp trào lưu, không hợp thời đại, khó nghe hơn là bị cho rằng “tư tưởng phong kiến”. Thế cái gì là hợp thời? Bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là hợp thời?

Cho nên xã hội ngày nay, bao gồm giáo dục ở trường học, học sinh tiểu học nhận giáo dục đã bị tiêm nhiễm công lợi, chỉ có lợi hại, không có đạo nghĩa, cho nên thế giới này làm sao không gặp nạn. Băng của Nam Bắc Cực làm sao không tan ra? Chúng ta học Phật luôn được xem là người sáng suốt, học Phật là người giác ngộ, chúng ta phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ xã hội này, thay đổi thói xấu, phong tục tập khí không tốt, làm thế nào chuyển đổi chúng lại. Phương pháp tốt nhất là hoàn toàn dựa vào chính chúng ta, không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Chính ta phải làm được. Người thế gian bất trung, ta phải tâm trung tâm; người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí; người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại thánh nhân thế xuất thế gian, ta phải y theo toàn bộ, nhất định tin tưởng mình có thể làm được. Người người đều có tín tâm kiên định, ý nguyện kiên định, nỗ lực làm theo, như phía trước đã nói: “Tín huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng Bồ Tát”, thì thế giới này có thể cứu vãn, kiếp vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa giải.

Do đây có thể biết, chính ngay ở mỗi vị đồng tu chúng ta phải phát đại tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói “Đại tâm phàm phu”, chúng taphàm phu phát đại tâm, công đức, uy đức vượt qua Thanh Văn Duyên Giác Quyền Giáo Bồ Tát. Thanh VănA La Hán, Duyên GiácBích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ tát nếu lấy Thiên Thai, Biệt Giáo để nói chính là Bồ tát từ thập hồi hướng trở xuống gọi là Tam Hiền Bồ tát. Cái gì gọi là phát đại tâm phàm phu? Người vừa phát tâm, đem giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy thảy đều làm được. Công đức người đó lập tức liền vượt qua bậc Tam thừa, liền được siêu việt. Kinh Hoa Nghiệm Phật nói “đại tâm phàm phu” nhằm khích lệ chúng ta. Nếu Ngài nói A La Hán mới có thể làm được thì chúng ta sẽ cảm thấy không có phần, nhất định không làm được, tâm này không thể phát. Hoặc nói Bồ tát mới có thể làm, cự ly phàm phu chúng ta quá xa với Bồ tát, cho nên Phật nói phàm phu. Chúng taphàm phu, đại tâm chúng ta phát ra liền có thể siêu việt ba thừa. Lời của Phật nói là thật, không phải giả, chỉ sợ chính chúng ta không chịu phát tâm, còn nếu phát tâm liền siêu việt, gọi là “buông bỏ đồ đao lập địa thành Phật”.

Phát tâm rất quan trọng, không chỉ siêu việt ba thừahiện tại còn có lợi ích. Tầm nhìn của người thế gian rất cạn, chỉ mong cầu cái lợi trước mắt, nếu khônglợi ích, dù bảo người đó làm Phật, họ cũng không làm. Phát tâm được lợi ích gì? Đời sống vật chất không hề thiếu kém, đây là lợi íchhiện tiền người phát tâm có được. Việc này Phật giảng rất có đạo lý. Không phải sẽ có rất nhiều, nếu nói rất nhiều thì hành giả liền sẽ tăng lòng tham. Chỉ nói “Không thiếu hụt”, mỗi ngày có được cái ăn, có quần áo mặc, có nơi để ở. Chỉ cần chúng ta không thiếu hụt, không cần phải có nhiều, vì có nhiều sẽ tăng lòng tham. Đó là lợi ích trước mắt.

Lợi ích thứ hai, thân thể khoẻ mạnh, trẻ mãi không già. Người ở tuổi hai mươi phát đại tâm, làm đại tâm phàm phu sẽ mãi mãi hai mươi tuổi. Dù sống đến bảy tám mươi tuổi, khuôn mặt người đó vẫn tuổi hai mươi. Thân thể khoẻ mạnh, vĩnh viễn không bệnh. Đó là lợi ích hiện tiền, lợi ích chân thật. Làm quan lớn, phát tài to mà thường hay bệnh tật thì đó là việc rất đáng tiếc. Tiền tài cũng dùng hết vào phí thuốc thang. Cho nên đại tâm phàm phu vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khoẻ mạnh, dung mạo sáng lạng, pháp hỉ tràn đầy, an vui tự tại.

Phật pháp rất hiện thực, hiện thực hơn bất cứ thứ gì. Nếu trái với kinh giáo, không luận tu hành thế nào, người sáng mắt vừa nhìn là biết ngay, vì sao? Vì trên mặt không có ánh sáng, người không cần có công năng đặc dị cũng nhìn thấy. Nếu có công năng đặc dị vừa nhìn sẽ thấy rõ ràng hơn. Chúng ta thường nói: “thần khí không tốt”, có thể thấy được khí sắc của họ tối đen, không phải khí sắc sáng lạng. Tỉ mỉ quan sát tiếp, dung mạo không tốt thì dù hoá trang thế nào cũng không cách gì giấu được. Ngay thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói “tướng tuỳ tâm chuyển”. Cái đại tâm vừa phát ra là Phật tâm, tướng của Phật đẹp dường nào. Cái tướng này của chúng ta cũng dần dần chuyển thành tướng Phật, đức tướng viên mãn, không có chút kém khuyết.

Tâm chúng ta thường giữ mặt thiện của tất cả chúng sanh, miệng chúng ta thường hay tán thán mặt thiện của chúng sanh, chúng ta liền tâm thiện, làm thiện, lời nói thiện, tướng mạo liền thiện, thân thể thiện, không có thứ nào bất thiện. Còn nếu thường giữ tâm ác, chuyên gây phiền phức cho người, chuyên nhìn khuyết điểm của người, tâm của chúng ta ác, làm ác, nói ác, cuối cùng tướng mạo chính chúng ta cũng biến thành ác, thân thể ác, làm sao có thể tránh khỏi họa. Người học Phật ngay đạo lý này cũng không hiểu, vậy còn học cái gì.

Vận mệnh của mình hoàn toàn do chính mình nắm lấy. Ngày trước tôi đã giảng rất nhiều lần, rất tỉ mỉ Liễu Phàm Tứ Huấn. Tiên sinh Liễu Phàm là người thành thật, chịu nhận sai, mạnh dạn thay đổi. Ông đã thành công trong việc chuyển biến vận mạng của mình. Sau khi chuyển được vận mạng, ông giúp đỡ rất nhiều chúng sanh chuyển biến vận mạng. Đó là Bồ tát hiện thân. Thời đại này, chư Phật Như Lai hết lời khuyên bảo chúng ta phải phát đại tâm.

Cái gì là đại tâm? Ngay đây tôi có thể nói cụ thể, nhất định phải phát tâm đem những lời giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ thảy đều làm được, đều thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, trong công việc của chúng ta, và trong đối nhân xử thế. Đó là phàm phu phát đại tâm. Làm theo như vậy, tương lai nhất định vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thượng thượng phẩm vãng sanh. Làm đến 90% thì thượng trung phẩm vãng sanh. Không nên rơi xuống dưới bậc thượng, thượng hạ phẩm cũng phải làm đến được 80%. Chúng ta phải đặt tiêu chuẩn, nhất quyết tranh thủ thượng phẩm vãng sanh mới chân thật đại tâm phàm phu. Đại tâm này không phải Bồ tát mà là Phật, “chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Phàm phu phát đại tâm chính là pháp nhất thừa, chúng ta nhất định phải làm được.

Phải xưng tánNhư Lai”, không dùng “chư Phật”, hai cú từ này khác nhau. Trên kinh Phật, việc chuyển đổi danh từ cũng có dụng ý đặc biệt của nó. Trong “Kinh Kim Cang giảng nghĩa” của cư sĩ Giang Vị Nông, ông chú giải rất tường tận. Kinh Kim Cang, có lúc thì nói “chư Phật”, có lúc thì nói “Như Lai”. Cư sĩ Giang giải thích, phàm hễ nói “chư Phật” là từ trên tướng mà nói, từ nơi sự mà nói. Phàm hễ gọi “Như Lai” đều là từ trên tánh mà nói.

Kinh này không ngoại lệ. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng như vậy, cho nên chúng ta phải thông hiểu. “Lễ kính chư Phật” là từ nơi sự tướng mà nói. Trên sự tướng, tất cả cung kính. Còn nói “Xưng tán Như Lai” là từ nơi tánh đức mà nói. Tương ưng với tánh đức, chính là thiện, chúng ta phải xưng tán. Ac, chúng ta không nói cũng tốt nhưng không thể xưng tán mà phải xưng tán cái thiện. Đối với “lễ kính”, chúng ta lễ kính người thiện cũng phải lễ kính người ác. Không thể chỉ tôn kính người thiện, còn với người ác thì không. Như vậy là sai. Chúng ta tôn kính người ác nhưng không tán thán họ. Khác biệt chính ở chỗ này. Tâm cung kính đó không được khác biệt, nhất định phải bình đẳng.

Việc xưng tán nhất định tương ưng với tánh đức, khen cái thiện của người. Tất cả chúng sanh trên thế gian, không ai chưa từng làm việc tốt, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, thiện ác lẫn lộn. Vì chúng sanh thời nay, nghiệp chướng tập khí sâu nặng, ác nhiều lành ít. Nếu có thể chuyển biến lại, làm thiện nhiều ác ít thì toàn phong khí của xã hội đó sẽ được chuyển biến. Chúng ta tán dương thiện, không nói ác, những người làm ác đó theo thời gian dần dần sẽ giác ngộ. Người ác cũng có lương tâm, lâu dần họ sẽ phản tỉnh, sanh tâm hổ thẹn: “Ta tạo nhiều việc ác, mọi người đều không nói, đều có thể bao dung. Ta làm chút việc thiện nhỏ như vậy mà mọi người đều tán thán”. Từ đó họ sẽ liền hồi tâm chuyển ý, ít làm ác, làm thiện nhiều.

Nếu không tán thán cái thiện của người khác, ác nhỏ của họ thì chúng ta làm ầm lên, như vậy sẽ sanh ra hậu quả ngược lại. Người đó sanh tâm hối hận vì đã làm việc tốt, vì làm tốt không ai biết đến, không ai khen ngợi, còn làm chút việc ác liền được thiên hạ biết đến. Người muốn làm thiện nhìn thấy cũng sẽ dần bỏ luôn ý niệm thiện. Trên thế giới, người ta đều làm ác dẫn đến quan niệm sai lầm cho rằng làm ác mới hợp thời. Quan niệm đó dẫn dắt người trên thế gian bỏ đi ý niệm thiện, tăng trưởng ác niệm, liều mạng làm ác, mang đến cho xã hội này những tai nạn lớn, chúng sanh vô cùng thống khổ. Truy cứu nguyên nhân căn bản chính là ở ngay cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ngay cả lời nói không cẩn trọng cũng tạo thành hậu quả, mang đến tai họa. Phật đã nói rất nhiều trong tất cả kinh luận nhưng chúng ta không lưu ý, không tỉ mỉ quan sát, và không cố gắng học tập.

Xưng tán Như Lai”, đặc biệt trong 53 đồng tham, Phật cho chúng ta xem một tấm gương. Chương sau cùng của Hoa Nghiêm nêu ra thiện tài đồng tử, một tấm gương tu học Đại thừa. Thiện Tài đồng tử là mẫu mực đại tâm phàm phu. Ngài gặp Phật pháp, hoan hỉ tín thọ, lễ Bồ tát Văn Thù làm thầy. Nhiều người nghe đến đây sẽ cho rằng Thiện Tài gặp vận may, được thầy giáo tốt là Bồ tát Văn Thù, liệu người khác có được may mắn như vậy và đến nơi đâu để tìm thiện tri thức? Thực ra Bồ tát Văn Thù ở ngay trước mặt mà nhiều người không nhận biết. Đó là “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh”. Văn Thù biểu thị trí tuệ. Kinh này tràn đầy trí tuệ viên mãn. Y theo bộ kinh này mà tu học, đó chính là chúng ta đang thân cận Bồ tát Văn Thù, trở thnh học trò của ngài. Sau khi học thì lập tức ứng dụng, đó chính là tham học. Thiện Ti trong hội của Bồ tát Văn Thù, thành tựu được căn bản trí, sau đó Văn Thù khuyên bảo ngài đi tham học. Tham học biểu thị đời sống. Làm thế nào đem cái mình đã học thực tiễn ngay trong đời sống. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Bồ tát. Họ thị hiện tướng nam nữ già trẻ, các ngành nghề y như đời sống của chúng ta. Từ sớm đến tối, chúng ta tiếp xúc tất cả mọi người, tất cả việc, vật, đó chính là năm mươi ba tham học, thảy đều là hoá thân của chư Phật Như Lai.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21743)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20444)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22354)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18779)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27040)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18749)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19969)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20160)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28342)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46368)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15459)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65698)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13752)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18660)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15559)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14584)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18746)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12649)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17670)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25504)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38746)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17717)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11253)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18624)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17426)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13229)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13321)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17554)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24319)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12388)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13810)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13004)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12898)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14179)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14636)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21114)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22642)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29989)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13878)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18258)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17073)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12640)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30746)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22815)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14655)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13009)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12750)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12523)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13064)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16319)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15225)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23857)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16193)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29015)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20302)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15582)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37262)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45049)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36931)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant