Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 8

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10890)
Phần 8


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 8)


Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ hai, “Xưng tán Như Lai”

Câu này rất quan trọng đặc biệtxã hội ngày nay. Xã hộian định hay xã hội động loạn đương nhiên phụ thuộc nhiều nhân tố, nhưng có một nhân tố quan trọng nhất, Phật pháp gọi là duyên. Một trong số các duyên chínhtán thán, cũng chính là ngôn ngữ lời nói của chúng ta. Phật Bồ tát hy vọng chúng taxã hội này phải ẩn ác dương thiện. Kinh văn phía sau, Phật dạy “Khéo giữ khẩu nghiệp không nói lỗi người”. Người ta có điểm tốt, chúng ta phải tán thán, biểu dương, xã hội này liền có thể từ trong hỗn loạn chuyển thành an định. Toàn thế giới ngày nay đều loạn, căn nguyên đó do người thế gian tán thán ác mà che giấu cái thiện. Thiện thì không nói đến, ác thì lại tận lực tuyên dương, tô vẽ khiến lòng người bất an.

Lời nói của chúng ta phải vì xã hội gánh trách nhiệm, phải vì nhân dân cả thế gian gánh trách nhiệm, không thể tuỳ tiện mà nói. Xã hội ngày nay, có thể nói luân lý đạo đức không có người giảng. Nếu trên miệng ai nói đến luân lý đạo đức thì bị mọi người đều mắng là lạc hậu, lỗi thời, không hợp trào lưu, không hợp thời đại, khó nghe hơn là bị cho rằng “tư tưởng phong kiến”. Thế cái gì là hợp thời? Bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là hợp thời?

Cho nên xã hội ngày nay, bao gồm giáo dục ở trường học, học sinh tiểu học nhận giáo dục đã bị tiêm nhiễm công lợi, chỉ có lợi hại, không có đạo nghĩa, cho nên thế giới này làm sao không gặp nạn. Băng của Nam Bắc Cực làm sao không tan ra? Chúng ta học Phật luôn được xem là người sáng suốt, học Phật là người giác ngộ, chúng ta phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ xã hội này, thay đổi thói xấu, phong tục tập khí không tốt, làm thế nào chuyển đổi chúng lại. Phương pháp tốt nhất là hoàn toàn dựa vào chính chúng ta, không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Chính ta phải làm được. Người thế gian bất trung, ta phải tâm trung tâm; người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí; người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại thánh nhân thế xuất thế gian, ta phải y theo toàn bộ, nhất định tin tưởng mình có thể làm được. Người người đều có tín tâm kiên định, ý nguyện kiên định, nỗ lực làm theo, như phía trước đã nói: “Tín huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng Bồ Tát”, thì thế giới này có thể cứu vãn, kiếp vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa giải.

Do đây có thể biết, chính ngay ở mỗi vị đồng tu chúng ta phải phát đại tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói “Đại tâm phàm phu”, chúng taphàm phu phát đại tâm, công đức, uy đức vượt qua Thanh Văn Duyên Giác Quyền Giáo Bồ Tát. Thanh VănA La Hán, Duyên GiácBích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ tát nếu lấy Thiên Thai, Biệt Giáo để nói chính là Bồ tát từ thập hồi hướng trở xuống gọi là Tam Hiền Bồ tát. Cái gì gọi là phát đại tâm phàm phu? Người vừa phát tâm, đem giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy thảy đều làm được. Công đức người đó lập tức liền vượt qua bậc Tam thừa, liền được siêu việt. Kinh Hoa Nghiệm Phật nói “đại tâm phàm phu” nhằm khích lệ chúng ta. Nếu Ngài nói A La Hán mới có thể làm được thì chúng ta sẽ cảm thấy không có phần, nhất định không làm được, tâm này không thể phát. Hoặc nói Bồ tát mới có thể làm, cự ly phàm phu chúng ta quá xa với Bồ tát, cho nên Phật nói phàm phu. Chúng taphàm phu, đại tâm chúng ta phát ra liền có thể siêu việt ba thừa. Lời của Phật nói là thật, không phải giả, chỉ sợ chính chúng ta không chịu phát tâm, còn nếu phát tâm liền siêu việt, gọi là “buông bỏ đồ đao lập địa thành Phật”.

Phát tâm rất quan trọng, không chỉ siêu việt ba thừahiện tại còn có lợi ích. Tầm nhìn của người thế gian rất cạn, chỉ mong cầu cái lợi trước mắt, nếu khônglợi ích, dù bảo người đó làm Phật, họ cũng không làm. Phát tâm được lợi ích gì? Đời sống vật chất không hề thiếu kém, đây là lợi íchhiện tiền người phát tâm có được. Việc này Phật giảng rất có đạo lý. Không phải sẽ có rất nhiều, nếu nói rất nhiều thì hành giả liền sẽ tăng lòng tham. Chỉ nói “Không thiếu hụt”, mỗi ngày có được cái ăn, có quần áo mặc, có nơi để ở. Chỉ cần chúng ta không thiếu hụt, không cần phải có nhiều, vì có nhiều sẽ tăng lòng tham. Đó là lợi ích trước mắt.

Lợi ích thứ hai, thân thể khoẻ mạnh, trẻ mãi không già. Người ở tuổi hai mươi phát đại tâm, làm đại tâm phàm phu sẽ mãi mãi hai mươi tuổi. Dù sống đến bảy tám mươi tuổi, khuôn mặt người đó vẫn tuổi hai mươi. Thân thể khoẻ mạnh, vĩnh viễn không bệnh. Đó là lợi ích hiện tiền, lợi ích chân thật. Làm quan lớn, phát tài to mà thường hay bệnh tật thì đó là việc rất đáng tiếc. Tiền tài cũng dùng hết vào phí thuốc thang. Cho nên đại tâm phàm phu vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khoẻ mạnh, dung mạo sáng lạng, pháp hỉ tràn đầy, an vui tự tại.

Phật pháp rất hiện thực, hiện thực hơn bất cứ thứ gì. Nếu trái với kinh giáo, không luận tu hành thế nào, người sáng mắt vừa nhìn là biết ngay, vì sao? Vì trên mặt không có ánh sáng, người không cần có công năng đặc dị cũng nhìn thấy. Nếu có công năng đặc dị vừa nhìn sẽ thấy rõ ràng hơn. Chúng ta thường nói: “thần khí không tốt”, có thể thấy được khí sắc của họ tối đen, không phải khí sắc sáng lạng. Tỉ mỉ quan sát tiếp, dung mạo không tốt thì dù hoá trang thế nào cũng không cách gì giấu được. Ngay thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói “tướng tuỳ tâm chuyển”. Cái đại tâm vừa phát ra là Phật tâm, tướng của Phật đẹp dường nào. Cái tướng này của chúng ta cũng dần dần chuyển thành tướng Phật, đức tướng viên mãn, không có chút kém khuyết.

Tâm chúng ta thường giữ mặt thiện của tất cả chúng sanh, miệng chúng ta thường hay tán thán mặt thiện của chúng sanh, chúng ta liền tâm thiện, làm thiện, lời nói thiện, tướng mạo liền thiện, thân thể thiện, không có thứ nào bất thiện. Còn nếu thường giữ tâm ác, chuyên gây phiền phức cho người, chuyên nhìn khuyết điểm của người, tâm của chúng ta ác, làm ác, nói ác, cuối cùng tướng mạo chính chúng ta cũng biến thành ác, thân thể ác, làm sao có thể tránh khỏi họa. Người học Phật ngay đạo lý này cũng không hiểu, vậy còn học cái gì.

Vận mệnh của mình hoàn toàn do chính mình nắm lấy. Ngày trước tôi đã giảng rất nhiều lần, rất tỉ mỉ Liễu Phàm Tứ Huấn. Tiên sinh Liễu Phàm là người thành thật, chịu nhận sai, mạnh dạn thay đổi. Ông đã thành công trong việc chuyển biến vận mạng của mình. Sau khi chuyển được vận mạng, ông giúp đỡ rất nhiều chúng sanh chuyển biến vận mạng. Đó là Bồ tát hiện thân. Thời đại này, chư Phật Như Lai hết lời khuyên bảo chúng ta phải phát đại tâm.

Cái gì là đại tâm? Ngay đây tôi có thể nói cụ thể, nhất định phải phát tâm đem những lời giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ thảy đều làm được, đều thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, trong công việc của chúng ta, và trong đối nhân xử thế. Đó là phàm phu phát đại tâm. Làm theo như vậy, tương lai nhất định vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thượng thượng phẩm vãng sanh. Làm đến 90% thì thượng trung phẩm vãng sanh. Không nên rơi xuống dưới bậc thượng, thượng hạ phẩm cũng phải làm đến được 80%. Chúng ta phải đặt tiêu chuẩn, nhất quyết tranh thủ thượng phẩm vãng sanh mới chân thật đại tâm phàm phu. Đại tâm này không phải Bồ tát mà là Phật, “chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Phàm phu phát đại tâm chính là pháp nhất thừa, chúng ta nhất định phải làm được.

Phải xưng tánNhư Lai”, không dùng “chư Phật”, hai cú từ này khác nhau. Trên kinh Phật, việc chuyển đổi danh từ cũng có dụng ý đặc biệt của nó. Trong “Kinh Kim Cang giảng nghĩa” của cư sĩ Giang Vị Nông, ông chú giải rất tường tận. Kinh Kim Cang, có lúc thì nói “chư Phật”, có lúc thì nói “Như Lai”. Cư sĩ Giang giải thích, phàm hễ nói “chư Phật” là từ trên tướng mà nói, từ nơi sự mà nói. Phàm hễ gọi “Như Lai” đều là từ trên tánh mà nói.

Kinh này không ngoại lệ. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng như vậy, cho nên chúng ta phải thông hiểu. “Lễ kính chư Phật” là từ nơi sự tướng mà nói. Trên sự tướng, tất cả cung kính. Còn nói “Xưng tán Như Lai” là từ nơi tánh đức mà nói. Tương ưng với tánh đức, chính là thiện, chúng ta phải xưng tán. Ac, chúng ta không nói cũng tốt nhưng không thể xưng tán mà phải xưng tán cái thiện. Đối với “lễ kính”, chúng ta lễ kính người thiện cũng phải lễ kính người ác. Không thể chỉ tôn kính người thiện, còn với người ác thì không. Như vậy là sai. Chúng ta tôn kính người ác nhưng không tán thán họ. Khác biệt chính ở chỗ này. Tâm cung kính đó không được khác biệt, nhất định phải bình đẳng.

Việc xưng tán nhất định tương ưng với tánh đức, khen cái thiện của người. Tất cả chúng sanh trên thế gian, không ai chưa từng làm việc tốt, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, thiện ác lẫn lộn. Vì chúng sanh thời nay, nghiệp chướng tập khí sâu nặng, ác nhiều lành ít. Nếu có thể chuyển biến lại, làm thiện nhiều ác ít thì toàn phong khí của xã hội đó sẽ được chuyển biến. Chúng ta tán dương thiện, không nói ác, những người làm ác đó theo thời gian dần dần sẽ giác ngộ. Người ác cũng có lương tâm, lâu dần họ sẽ phản tỉnh, sanh tâm hổ thẹn: “Ta tạo nhiều việc ác, mọi người đều không nói, đều có thể bao dung. Ta làm chút việc thiện nhỏ như vậy mà mọi người đều tán thán”. Từ đó họ sẽ liền hồi tâm chuyển ý, ít làm ác, làm thiện nhiều.

Nếu không tán thán cái thiện của người khác, ác nhỏ của họ thì chúng ta làm ầm lên, như vậy sẽ sanh ra hậu quả ngược lại. Người đó sanh tâm hối hận vì đã làm việc tốt, vì làm tốt không ai biết đến, không ai khen ngợi, còn làm chút việc ác liền được thiên hạ biết đến. Người muốn làm thiện nhìn thấy cũng sẽ dần bỏ luôn ý niệm thiện. Trên thế giới, người ta đều làm ác dẫn đến quan niệm sai lầm cho rằng làm ác mới hợp thời. Quan niệm đó dẫn dắt người trên thế gian bỏ đi ý niệm thiện, tăng trưởng ác niệm, liều mạng làm ác, mang đến cho xã hội này những tai nạn lớn, chúng sanh vô cùng thống khổ. Truy cứu nguyên nhân căn bản chính là ở ngay cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ngay cả lời nói không cẩn trọng cũng tạo thành hậu quả, mang đến tai họa. Phật đã nói rất nhiều trong tất cả kinh luận nhưng chúng ta không lưu ý, không tỉ mỉ quan sát, và không cố gắng học tập.

Xưng tán Như Lai”, đặc biệt trong 53 đồng tham, Phật cho chúng ta xem một tấm gương. Chương sau cùng của Hoa Nghiêm nêu ra thiện tài đồng tử, một tấm gương tu học Đại thừa. Thiện Tài đồng tử là mẫu mực đại tâm phàm phu. Ngài gặp Phật pháp, hoan hỉ tín thọ, lễ Bồ tát Văn Thù làm thầy. Nhiều người nghe đến đây sẽ cho rằng Thiện Tài gặp vận may, được thầy giáo tốt là Bồ tát Văn Thù, liệu người khác có được may mắn như vậy và đến nơi đâu để tìm thiện tri thức? Thực ra Bồ tát Văn Thù ở ngay trước mặt mà nhiều người không nhận biết. Đó là “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh”. Văn Thù biểu thị trí tuệ. Kinh này tràn đầy trí tuệ viên mãn. Y theo bộ kinh này mà tu học, đó chính là chúng ta đang thân cận Bồ tát Văn Thù, trở thnh học trò của ngài. Sau khi học thì lập tức ứng dụng, đó chính là tham học. Thiện Ti trong hội của Bồ tát Văn Thù, thành tựu được căn bản trí, sau đó Văn Thù khuyên bảo ngài đi tham học. Tham học biểu thị đời sống. Làm thế nào đem cái mình đã học thực tiễn ngay trong đời sống. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Bồ tát. Họ thị hiện tướng nam nữ già trẻ, các ngành nghề y như đời sống của chúng ta. Từ sớm đến tối, chúng ta tiếp xúc tất cả mọi người, tất cả việc, vật, đó chính là năm mươi ba tham học, thảy đều là hoá thân của chư Phật Như Lai.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14462)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14181)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39812)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15347)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13912)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13955)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37418)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40125)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14671)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14338)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12709)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14886)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19247)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13839)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42705)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13866)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37307)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12712)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11803)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22609)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12548)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12609)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13102)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13134)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17304)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33323)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14866)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11080)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12491)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 12001)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11981)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13181)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51349)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12410)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6648)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30496)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13160)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13361)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30773)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19451)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12512)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11894)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14790)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13232)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13241)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30787)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12070)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11865)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12764)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31977)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29471)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11810)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11777)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10473)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11588)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9665)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9698)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10025)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35489)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10179)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10131)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10070)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9700)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27877)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15561)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9888)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13713)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9875)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9736)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18401)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12081)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9608)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9726)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8743)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8944)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8451)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11514)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31809)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12374)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13360)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8872)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9479)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11974)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9262)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9118)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9717)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29438)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9106)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9131)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33337)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8462)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30690)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31335)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37216)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32346)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9963)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27172)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8477)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19287)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13055)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant