Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suối Tào Khê

17 Tháng Tư 201609:31(Xem: 10819)
Suối Tào Khê

SUỐI TÀO KHÊ

Thích Trung Nghĩa

Suối Tào Khê


‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo. Dòng thiền phương bắc lấy Lục Tổ làm cội nguồn, sử gọi Nam tông (南宗); dòng này chủ trương “không câu nệ hình thức, không bám víu danh từ khái niệm, không chú trọng ngồi thiền, chỉ cần nội tâm trực giác đốn ngộ, tức tâm tức Phật, liền có thể thành Phật”.

Trong nghi lễ Phật giáo cố đô Huế, bài tán Tào khê thuỷ gồm có 7 câu,[1]được cất lên trầm bỗng trong lễ cúng ngọ. Với sử liệu về nghi rất ít ỏi nên khó khảo cứ về gốc tích tác giả, xuất xứ và niên đại của bài này. Do mang công dụngđịch trần cấu; tẩy bụi trần” và “Dương chi sái xứ nhuận tiêu khô; Cành dương rưới héo tàn thành tươi” nên đôi lúc được vị Sám chủ[2] bắt tán bài này thay cho bài “Dương chi tịnh thuỷ, biến sái tam thiên (Nước tịnh cành dương, rưới khắp ba cõi) trong lễ Bạch Phật khai kinh. Cốt lõi sám kệ nhấn mạnh đến “Đề hồ quán đỉnh” (醍醐观顶), vào thời Ấn Độ cổ đại, xem đề hồthức ăn hảo hạng trên thế gian, là chất liệu sữa bò được pha chế rồi biến thành bột sữa tinh khiết nuôi sống mạng người. Theo Phật Quang đại từ điển, cụm từ này nhằm chỉ cho nương vào trí tuệ trong con người mới phá trừ phiền não vô minh, đầu óc nóng bức, trở nên mát mẻ.           

‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo. Dòng thiền phương bắc lấy Lục Tổ làm cội nguồn, sử gọi Nam tông (南宗); dòng này chủ trương “không câu nệ hình thức, không bám víu danh từ khái niệm, không chú trọng ngồi thiền, chỉ cần nội tâm trực giác đốn ngộ, tức tâm tức Phật, liền có thể thành Phật”.[3] Đối lập với dòng này là dòng thiền phương Bắc của Đại sư Thần Tú, chủ trương “duy trì giáo pháp truyền thống, an tịnh toạ thiền, quán niệm hơi thở, dọn trần cấu để thanh tịnh, dần dần chứng ngộ (tiệm ngộ) thành Phật”,[4] sử gọi Bắc tông (北宗.)

Trong sử phiên dịch kinh điển Trung Hoa cổ đại, người mở đầu cho phong trào dịch thuật và khơi dậy việc thiết lập dịch trường Hán dịch Phật điển, ban sơnổi tiếngAn Thế Cao người Ba Tư đến thành Lạc Dương vào niên hiệu Kiến Hoà (174) thời Đông Hán. Kinh An ban Thủ Ý thuộc Tiểu thừa được Thế Cao dịch ra rất sớm, nhấn mạnh thông qua pháp đếm hơi thở mà dứt trừ vọng tưởng tà niệm, xuyên qua soi rọi năm ấm thân thể mà thấy ‘khổ, không’.

Nói đến thiền, thông thường mọi người liên tưởng đến do người Trung Hoa sáng tạo, nhưng thực ra đây là văn minh cổ quốc Ấn Độ của phương đông cổ đại. Trải qua nhiều thời đại và quá trình đúc kết hoằng hoá của Tổ sư mà hình thành trọn vẹn thiền phái[5]. Như tông Thiên Thaitông phái đặc thù của dân tộc hoá. Thời sơ kì Tiểu thừa, cũng từng lưu hành thiền pháp ‘tứ niệm xứ’ nhằm đả phá ngoại đạo và gầy dựng quan niệm ‘thường lạc ngã tịnh’ trên thế gian, soi thấy thân dơ bẩn và tâm vô thường để không bám víu. Thiền pháp “16 đặc tánh pháp” nhấn mạnh việc điều hoà tâm quán tưởng và hơi thở, nhấn mạnh cảm thọ trong hỷ lạc thiền định, để thấy kiếp người là khổ, muôn pháp đều không, thuộc từ Tiểu thừa. Thấy được Phật giáo từ cổ sơ đã lưu hành tư tưởng thiền pháp chán ghét thế gian để sống đời khổ hạnh, là đại biểu đặc điểm căn bản của thiền pháp phương Bắc lúc bấy giờ. [6]

Trong thoáng đại ngộ của Lục Tổ khiến dòng suối cũng mang tính linh thiêng, nên suối này có địa vị rất được sùng cao trong Thiền tông. Tương truyền, Pháp sư Trí Dược người Tây Ấn Độ dong thuyền đến mảnh đất Tào Khê vào thời Lương Nam triều; sư đã vốc nước mà uống, chất nước trong ngọt diệu vời, lên thượng nguồn, trố mắt nhìn quang cảnh sơn thanh thuỷ tú, cảm nhận nguồn suối chứa đất thánh, rồi vận động người con Phật dựng chùa trên đất, đặt tên chùa Bảo Lâm (Nam Hoa). Cách 170 năm sau, có Huệ Năng đến đất thánh này đại khai hoằng giáo.[7]

Trong cỗi nguồn xa xưa, có Đức Thích Tôn dẹp trừ ma quân rồi Đại giác ngộ dưới cội bồ-đề trên đất liền bên dòng sông Ni liên thiền vào lúc sao mai vừa mọc, cách khoảng 1000 năm sau đó, có Huệ Năng (638-713 sTl) “đốn ngộ thành Phật” dưới dòng suối trong trẻo Tào khê. Tương truyền, Lục Tổ từng tắm gội thân thể dưới dòng nước trong veo này, đêm nọ chợt đốn ngộ Phật lý, từ đó, dòng Tào Khê trở nên thánh thuỷ muôn thưở. Ven triền Nam Hoa thiền tự có thánh thuỷ chảy mãi hơn nghìn năm nay, nước mát rượi trong xanh như ngọc bích, mưa xuân Tào khê, hạt rơi lất phất, mưa đêm rả rít, thánh thuỷ róc rách, khiến học nhân chuyên tập thiền quán dễ bề hoát nhiên khai ngộ, nên dân gian còn gọi là ‘Suối trí tuệ’ (开悟泉), ‘suối khai ngộ’ (智慧泉). Và Tào khê được nâng lên địa vị tối cao—Tổ đình Thiền tông.

Lục Tổ lên pháp toà trong chùa Đại Phạm để tuyên giảng pháp tối thượng thừa đốn giáo Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, được đệ tử Pháp Hải tập lục thành bộ kinh điển—Pháp bảo đàn kinh (Đàn kinh), gọi đủ là Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh Lục Tổ Huệ Năng Đại sư vu Thiều châu Đại Phạm tự thí pháp Đàn kinh. Với lời văn thông tục, nội dung dồi dào, truyền trao ‘giới vô tướng’, trả lời câu hỏi của Tăng tín đồ nên đây bản kinh được y cứ quan trọng trong cội nguồn của tư tưởng Thiền tông, là bản trứ tác duy nhất mà được Phật giáo Trung Hoa tôn xưng là kinh.

Tư tưởng thiền học của Lục Tổ lấy Đàn kinh làm căn cứ chủ yếu. Nhưng những năm gần đây có những học giả nêu lên quan điểm khác nhau, học giả Phật học nổi tiếng Lữ Trừng nhận định: “Căn cứ Đàn kinhđể nghiên cứu về Huệ Năng, đây không thể tin cậy”.[8]Bởi Đàn kinh được lưu truyền với thời gian dài và trải qua quá trình không ngừng bổ sung khảo đính của các đại sư học giả, như Thiền sư Thần Hội hay cao tăng Khế Tung, rồi hình thành nhiều bản khác nhau. Nhất là sau khi khai quật thạch động Đôn Hoàng đã phát hiện nhiều cổ bản điển tịch liên hệ Đàn kinh. Tư tưởng trong kinh này không hoàn toànđại biểu của Huệ Năng, nhưng phần nhiều vẫn lấy tư tưởng Huệ Năng làm nền móng, “hiện nay nên lấy Lục Tổ Huệ Năng Thiền sư bi minh  của Vương Duy làm căn cứ.”[9]

Thiền tông lấy Đàn kinh để truyền tông. Lục Tổ chủ trương ‘tức tâm tức Phật”, ‘đốn ngộ thành Phật’; chẳng cần ‘tông thông’ (宗通) hay ‘thuyết thông’ (说通), lìa giáo mà tham là tà nhân, rời giáo mà ngộ là tà giải, nhằm nêu bật cái ý này mà hậu duệ của Thiền tông diễn hoá và lưu truyền 4 câu: “Tông thông không tông giáo, mở lời sẽ loạn đạo. Thông giáo chẳng thông tông, giống như rồng một mắt”, và “đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thiền Đạt-ma.”[10]

Tư tưởng “đốn ngộ”, “tức tâm tức Phật”, chủ trương ‘tam vô’ (三无), lấy “vô niệm làm tông”, “vô tướng làm thể”, “vô trụ làm gốc”, là phạm trù căn bản về nhận thức của Lục Tổ[11]. Đều ảnh hưởng sâu đậm và lấy kinh Lăng-già, kinh Viên Giác, kinh Kim Cang làm kinh điển căn bản. Thông qua cách thức truyền pháp tâm yếu, tham ngộ ấn chứng, thí hoá phương tiện; xuyên qua đối đáp, biện luận, tham cứu giữa thầy và trò, giữa Thiền sưhọc sĩ du phương tham học mà biên thành ngữ lục.[12]

Về khía cạnh triết học ngôn ngữ, ‘phương tiện pháp môn’ được trải dài trên trang tôn kinh. Như kinh Pháp Hoa mượn hình tượng ba xe: xe hưu, xe dê, xe nai để thuyết minh về ba cấp độ thánh quả của Đại thừakinh Kim Cang mượn hình ảnh thanh kiếm trí tuệ (tuệ kiếm) để chắt đứt hàng rào thần ngã hay bốn tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả). Trong nghi cũng vậy, cổ đức mượn ngôn từ biểu tượng mộc mạc để bày tỏ tấc lòng thanh khiết như cỏ thơm. Như khi dâng hiến đến bậc tôn sư ‘kế vãng khai lai’, khai sơn chùa, ân sư, tiền bối hữu công, tiền hậu công đức thì gọi phẩm vật là rau Tào khê, cơm Hương tích, gạo Thiên trù, thanh thuỷ hương tuyền (suối thơm nước trong). Thành duy thức luận nói về thức thứ 6 a-lại-da thức cũng mượn cảnh tượng “Chảy mãi như thác đổ; Hằng chuyển như bộc lưu” để biểu đạt. Cảnh giới văn học Thiền tông, cấu trúc ẩn dụ—‘đàm ẩn dụ nhân’ được dùng đến rất nhiều, như gió thổi cờ lay, trăng Lăng-già hay say sưa đại định Lăng-nghiêm, đều chỉ cho cảnh giới tối cao trong thiền tĩnh. Mượn đàm thiền “Một hoa nở năm lá; Nhất hoa khai ngũ diệp”, nhằm phiếm chỉ Sơ tổ Thiền tông Bồ-đề Đạt-ma từ Đông Độ truyền pháp đến Nhị tổ Huệ Khả và đến Lục tổ Huệ Năng”. Trong thư pháp thiền có truyền tụng câu “nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất Như Lai”, trong cành hoa ngọn cỏ hiện bày cả thế giới, trong ngọn lá hoá hiện đức Như Lai. Thiền sư Linh Vân thấy hoa đào nở bèn ngộ đạo, nghe ngọn bách thảo đong đưa liền tỏ ngộ hay nghe hạt sỏi rơi lốp đốp bên dưới rặng tre, đều là biểu tượng về cảnh vật thiên nhiên và bất chợt ‘đốn ngộ thành Phật’ của thiền giả.

Từ lúc sáng lập phả mạch Tào Khê mãi đến hôm nay, có bề dầy lịch sử lâu đời, hương khói Tào Khê vẫn ướm thịnh, nơi quy tập và hoằng đạo của Đại sư như Hám Sơn, Đan Điền hay Hư Vân, dòng chảy này vẫn không ngớt lưu truyền, là thánh địa nổi tiếng nên mỗi ngày khách hành hương đến tấp nập và dâng tấc dạ khẩn cầu đạo giải thoátthánh địa này. Và “thiền pháp của Huệ Năng là một thứ tôn giáo và một thứ học thuyết xuyên qua nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn học, nghệ thuật”[13]nên phát sinh rộng rãiảnh hưởng rất sâu sắc.

Trích từ: Chú giải nghi Huế (bản cảo)

Phổ Đà, Xuyên Mộc, BRVT



[1] “Tào khê thuỷ, Nhất phái hướng đông lưu, Quán Âm bình nội trừ tai cựu, Đề hồ quán đỉnh đich trần cấu, Dương chi sái xứ nhuận tiêu khô, Yết hầu trung cam lồ, Tự hữu quỳnh tương khấu. Nam mô Hương cúng dường Bồ-tát” (nếu lễ khai kinh thì  Nam mô Thanh lương địa Bồ-tát)

[2]Nghi Huế gọi Sám chủ, nghi Nam gọi Thầy cả, nghi Trung gọi Gia trì sư, khảo cứ Chánh khắc trung khoa du-già tập yếu vào mùa đông niên hiệu Đồng Khánh năm Mậu tý của tạng bản Sắc tứ Báo Quốc tự thì viết là Pháp chủ (法主). Đều là vận tâm bình đẳnghành trì pháp thức ‘Gia trì hiển mật’ (加持显密)  

[3] Huỳnh Hạ Niên, Thích Trung Nghĩa dịch, Lịch sử Phật giáo Trung Hoa cổ đại, tủ sách Đạo Phật ngày nay, Nxb. Hồng đức, 2014, tr. 28

[4] sđd

[5] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề ( 禅宗三百题), phần ‘Tổng luận, Thiền’ của Huỳnh Hạ Niên, Nxb. Cổ tịch Thượng Hải, 2000, tr.1

[6] Thiền tông tam bách đề, phần ‘Giáo nghĩa, thuật ngữ’ của Ôn Kim Ngọc (温金玉), tr.288

[7] tham khảo Hoà thượng Hư VânTái tăng đính Phật Tổ đạo ảnh, q.4

[8] Lữ TrừngTrung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng, Nxb. Thư cục Trung Hoa, 1979, tr.222

[9] Sđd, 223

[10] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề , phần “Tích giáo ngộ tông  (惜教悟宗) là gì?” của Ôn Kim Ngọc (温金玉), tr.290

[11] Sđd, phần “Đặc sắc của Huệ Năng thiền là gì” của Huỳnh Xuân Hoà (黃春和),tr.137

[12] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Phật quang phổ chiếu-Phật giáo (佛光普照-佛教) , Thế giới tôn giáo sử thoại tùng thư, Nxb. Tri thức thế giới, 1999, tr.234

[13] Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề, phần “Đặc sắc của Huệ Năng Thiền như thế nào ?” của Huỳnh Xuân Hoà, tr.137

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39693)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13872)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13916)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37311)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40043)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14631)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14308)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12647)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14819)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19205)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13789)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42602)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13821)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37229)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12660)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11746)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22530)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12505)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12567)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13043)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17255)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33221)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14827)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12376)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6605)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30400)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30664)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19340)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12472)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11838)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14754)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13186)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30662)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12021)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11820)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12712)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31884)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29400)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11777)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9643)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9965)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10136)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27789)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15470)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13659)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9828)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18305)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12040)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9565)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8697)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8405)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11472)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31716)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9214)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9069)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29336)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9064)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9085)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33216)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8419)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30584)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31206)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37094)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32237)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9911)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27078)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8438)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19221)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9770)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant