Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Định Trong Phật Giáo Tây Tạng

26 Tháng Giêng 201707:59(Xem: 11905)
Thiền Định Trong Phật Giáo Tây Tạng

THIỀN ĐỊNH TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG 
La méditation dans le Bouddhisme Tibétain

Marie-Stella Boussemart

Hoang Phong chuyển ngữ

Thiền định trong Phật giáo Tây Tạng

 

Lời giới thiệu của người chuyển ngữ

            Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung. Hình ảnh Đức Phật tọa thiền dưới một cội cây vào một đêm trăng sáng, đạt được những hiểu biết siêu nhiên đã nói lên thật cụ thể cái "cột trụ" đó.  

            Ngày nay thế giới Tây Phương tuy âm thầm và kín đáo nhưng dường như ngày càng say mê phương pháp luyện tập này của Phật giáo. Ngày chủ nhật vừa qua 08.01.2107, hội Thiền Học Quốc Tế (AZI/Association Zen Internationale) đã tổ chức thật long trọng lễ thụ giới - tiếng Nhật là O'Jujkai - tại tu viện của hội, nhân dịp tiếp đón vị đại sư người Nhật Minamizawa Roshi thuộc học phái Tào Động, phó trụ trì ngôi chùa Eiheiji ở Nhật do chính Dogen (Đạo Nguyên) xây dựng từ thế kỷ XIII. Phóng sự buổi lễ được trình chiếu trên đài truyền hình Pháp trong chương trình Phật giáo (độc giả có thể xem trên mạng: https://www.youtube.com/watch?v=bvU-qLoGtDE). Trong phần phỏng vấn, thiền sư Taiun Jean-Pierre Faure trong ban điều hành của hội có cho biết là 80% sinh hoạt trong các thiền viện ở Nhật ngày nay là nghi lễ và 20% là tọa thiền, trong khi đó tại Âu Châu các thiền viện dành 80% sinh hoạt vào việc tọa thiền và 20% là nghi lễ. Quả là một sự tương phản rõ rệt.

            Tại Á Châu dưới một góc nhìn nào đó thì dường như Thiền học chỉ còn là một chiếc bóng mà thôi. Thật vậy, ngoại trừ Nhật bản và Hàn quốc - dù chỉ còn giữ được một mức độ nào - thì tại các nơi khác ở Á Châu, Thiền học tinh túy từ ngàn xưa có thể nói là không còn nữa. Dưới một góc nhìn bao quát hơn và nhất là tại các nước Á Châu theo Phật giáo Đại Thừa, việc tu tập dường như chỉ chú trọng đến nghi lễ. Trái lại Phật giáo Tây Phương quan tâm nhiều hơn đến việc thực hành, tức là việc luyện tập thiền định. Điều này cho thấy Phật giáo Tây Phương dù non trẻ, nhưng gần hơn với Dhamma (Đạo Pháp) của Đức Phật.

            Dưới đây là bài phỏng vấn ni sư Marie-Stella Boussemart do đài truyền hình Pháp thực hiện ngày 22 tháng 10 năm 2006. Chủ đề"Thiền định trong Phật giáo Tây Tạng". Bài phỏng vấn này cũng chỉ đề cập đến một vài nét đại cươngsơ đẳng về thiền định trong Phật giáo Tây Tạng, tuy nhiên cũng mang lại cho chúng ta một ý niệm về một nền Phật gíáo tuy mang thật nhiều màu sắc, nhưng phía sau là cả một sự hiểu biếtkinh nghiệm thật phong phú, thiết thực và khoa khọc về phép luyện tập thiền định. Người phỏng vấn bà Marie-Stella Boussemart là nữ ký giả Phật giáo Cathérine Barry.

 

THIỀN ĐỊNH TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG 
La méditation dans le Bouddhisme Tibétain

Marie-Stella Boussemart

Hoang Phong chuyển ngữ

 

Cathérine Barry (C.B.): Thiền định nói chung, dù dưới bất cứ hình thức nào, luôn là cốt lõi của việc tu tập Phật giáo, hay ít ra cũng là một trong các sinh hoạt chủ yếu nhất của tín ngưỡng này. Vậy thiền định là gì? Phải thiền định như thế nào thì mới đúng? Thiền định là nhằm vào mục đích gì? Thiền định cần phải được hỗ trợ thêm bởi các phép luyện tập khác hay không? Có thể tự mình luyện tập hay phải nhờ một vị thầy chỉ dẫn? Có trường hợp nào không nên thiền định hay chăng? Nói một cách vắn tắt, thiền định để làm gì? Tại sao lại phải thiền định? Sau hết là việc luyện tập thiền định sẽ mang lại những biến cải nào trong cuộc sống thường nhật? Các thắc mắc này sẽ được nêu lên với bà Marie-Stella Boussemart, đã vui lòng đến với chúng ta hôm nay.     

CB: Xin chào bà Marie-Stella Boussemart. Bà đỗ tiến sĩ Phật học Tây Tạng (guéshé), do đó bà nói và viết tiếng Tây Tạng rất thông thạo. Bà cũng là thông dịch viên của nhiều vị thầy Tây Tạng nổi tiếng, trong số này có đại sư Dagpo Rinpoché, và bà cũng may mắn được tu tập với vị này từ hơn ba mươi năm nay. Nếu quý vị nào chưa có dịp biết đến nhà sư Dagpo Rinpoché thì cũng xin mạn phép có đôi lời, ông là một trong các vị thầy lỗi lạc của học phái Gelugpa (Cách Lỗ phái)chúng ta may mắn được đón rước ông định cư tại Pháp. Ông rất tích cực trong việc giảng dạy, không những trên quê hương chúng ta mà cả trên toàn thế giới. Vậy chúng ta hãy cùng với bà Marie-Stella Boussemart tìm hiểu xem thiền định là gì?

Marie-Stella Boussemart (M.S.B.): Chữ thiền định trước hết có nghĩa là: "Tập cho tâm thức quen dần". Qua ý nghĩa bao quát này thì thiền định không nhất thiết là một phép luyện tập riêng của Phật giáo (thiền định là một phép luyện tập đã có từ trước Đức Phật với các đạo Vệ-đà và Bà-la-môn. Vào thời đại của Đức Phật nhiều vị thầy khác cũng từng giảng dạy về thiền định, và chính Đức Phật cũng đã từng theo học phép luyện tập này với một số các vị thầy nhưng không kết quả). Thiền định là một kỹ thuật luyện tập ngày càng phổ biến trên khắp thế giới ngày nay. Trong khuôn khổ Phật giáo thì thiền định là một phương pháp luyện tập tâm thức giúp nó quen dần với các chủ đề [suy nghiệm] nhằm mục đích biến cải chính nó, hoặc nếu nhìn xa hơn nữa thì đấy là cách tạo ra các điều kiện mang lại cho mình một sự tái sinh thuận lợi hơn, hoặc cũng có thể là một sự giải thoát vĩnh viển khỏi cõi luân hồi (samsara), hoặc tốt hơn nữa - nếu có thể được - là sự Giác Ngộ của một vị Phật (đây là ba kết quả mang lại từ ba cấp bậc tu tập khác nhau: cấp bậc thứ nhất gồm những người mang chủ đích thấp, mong tái sinh trong các hoàn cảnh thuận lợi chẳng hạn như cõi "cực lạc"; cấp bậc thứ hai gồm những người mang chủ đích cao hơn nhằm giúp mình đạt được thể dạng của những vị Arhant/A-la-hán, có nghĩa là không còn tái sinh nữa; và sau hết là cấp bậc thứ ba gồm những người quyết tâm trở thành Phật hầu có thể cứu độ được thật nhiều chúng sinh).       

CB: Samsara (cõi luân hồi) có nghĩa là chu kỳ xoay vần bất tận của những sự tái sinh và cả tâm thức. Vậy xin bà cho biết tâm thức là gì?

M.S.B.: Tâm thức là một trong số các thành phần tạo ra một cá thể, và thành phần gọi là tâm thức này cũng chỉ là một hiện tượng cấu hợp, hàm chứa các đặc tính chủ yếu là sự trong sáng và khả năng nhận thức. Trong sáng có nghĩa là phi vật chất, và cũng nhờ đặc tính này mà tâm thức có thể vượt lên trên mọi thứ chướng ngại. Hơn nữa tâm thức cũng hàm chứa khả năng nhận biết được hình tướng và các thể dạng của các đối tượng mà nó cảm nhận được (các giác quan qua trung gian của não bộ đưa vào tâm thức các loại tín hiệu mà chúng cảm nhận được qua sự tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Tâm thức diễn đạt các tín hiệu này và biến chúng trở thành các sự nhận biết dưới hình thức hình tướng mang các đặc tính và thể dạng khác nhau, qua sự nối kết với nghiệp tồn lưu bên trong chính nó).

C.B.: Việc luyện tập thiền định thường là phải cần đến một vị thầy chỉ dẫn, điều này có thật sự cần thiết hay không?

M.S.B.: Chẳng có gì đơn giản hơn tập đi, thế nhưng cũng cần phải có người tập cho mình những bước đầu tiên. Tập nói cũng thế, cũng phải lập lại âm thanh do một người khác phát ra. Thiền định cũng vậy, cũng phải học. Tuy rằng nhiều người cũng có năng khiếu tự nhiên, thế nhưng thông thường thì phải học, chẳng hạn như lái xe, nếu chưa biết gì cả mà cứ lái bừa thì thật là nguy hiểm. Thiền định mà không theo một phương pháp nào cả thì có thể là tai hại (tự luyện tập có thể lanh quanh và mất thì giờ, mang lại thêm hoang mang, do đó tốt nhất là lúc đầu nên theo một vài khóa học. Thiền định tập thể - tức là với nhiều người - sẽ tạo ra một sự  trợ lực giúp mình cố gắng dễ dàng hơn. Các phương pháp thiền định của Phật giáo Tây Tạng, nhất là ở các cấp bậc thật cao, cần phải có sự hướng dẫn của một vị thầy kinh nghiệm. Dầu sao ngày nay cũng có rất nhiều sách chỉ dẫn của nhiều nhà sư uyên bác - nhất là trong Phật giáo Theravada và Thiền Học Zen, nên có thể khởi sự luyện tập với các tông pháihọc phái này).  

C.B.: Trên đây bà có cho biết thiền định có nghĩa là: "Tập cho tâm thức quen dần", vậy người hành thiền luyện tập tâm thức phải chăng cũng tương tự như một lực sĩ luyện tập thân thể?

M.S.B.: Người hành thiền cũng là một lực sĩ, nếu được như một lực sĩ thượng thặng thì càng tốt hơn nữa, bởi vì phàm làm điều gì thì phải làm cho đến nơi đến chốn. Trong lãnh vực Phật giáo, việc luyện tập tâm thức gồm có hai khía cạnh:

            Thứ nhất là sự tập trung (sự chú tâm), và thứ hai là phép thiền định phân giải (hay phân tích/analytical meditation). Một cách tổng quát thì tốt hơn hết là nên bắt đầu bằng phép thiền định phân giải, vừa đơn giản lại ít nguy hiểm, bởi vì đấy cũng chỉ là cách suy nghiệm (dưới một góc nhìn nào đó lời khuyên này rất hợp lý, bởi vì phép thiền định nhằm mang lại một thể dạng trong sáng, thăng bằng và tĩnh lặng cho tâm thức, chẳng hạn như phép chú tâm vào một điểm hoặc theo dõi hơi thở, đôi khi khó thực hiện, và khi thành công thì cũng có thể sẽ bám víu vào thể dạng trong sáng và tĩnh lặng đó và không thăng tiến được nữa, hoặc thể dạng này qua sự tưởng tượng cũng có thể tạo ra các ảo giác khiến mình hoang mang thêm. Trái lại sự phân giải hay phân tích chỉ là một sự suy tư và tìm hiểu nhằm mang lại cho mình sự hiểu biết. Việc luyện tập này chỉ cần sự kiên nhẫn, các kinh nghiệm trong cuộc sống, nói chung là thuộc vào lãnh vực trí thức. Sau một thời gian kiên trì suy nghiệm thì khả năng chú tâm sẽ ngày càng trở nên sắc bén hơn. Dầu sao thì cách luyện tập phân tích cũng đi ngược lại với phương pháp thông thường là phải tạo cho tâm thức một sự thăng bằng, tĩnh lặng và trong sáng trước khi nhìn vào các hiện tượng để suy nghiệm).

            Đến một lúc nào đó khi bắt đầu thấu triệt được một chủ đề (chẳng hạn như bản chất vô thường của mọi hiện tượng, các nỗi khổ đau trong tâm thức, tính cáchthực thể của mọi hiện tượng, sức mạnh của lòng từ bi, v.v.) thì dần dần sẽ tìm cách gia tăng thêm sức chú tâm của mình. Dầu sao cũng nên hiểu rằng hai phép luyện tập này thuộc vào hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt nhau: sự tập trung (chú tâm) sẽ giúp cho khả năng nhận thức được vững vàng, sự phân giải sẽ giữ phần chính yếu hơn. Tuy nhiên thiền định phân giải đồng thời cũng tạo ra các tác động làm gia tăng thêm sự sắc bén và trong sáng của sự nhận thức, tức thuộc lãnh vực chú tâm (dưới một góc nhìn nào đó cả hai khía cạnh hay lãnh vực này phải được phát huy song song và đồng lượt với nhau, bởi vì cả hai đều hỗ trợ cho nhau).

C.B.: Vậy đối với vấn đề tập trung (chú tâm) thì thế nào? Trước khi thu hình bà có cho biết rằng theo bà thì nên xem đấy là trí nhớ thì đúng hơn (chú tâm hay tập trung là một sự nhớ lại tức là một hình thức trí nhớ).

M.S.B.: Nếu muốn thiền định thì luôn luôn phải cần đến trí nhớ kể cả sự cảnh giác (tỉnh giác, tỉnh thức, tỉnh táo/mindfulness, awareness). Không thể nào có thể thiền định mà lại không cần đến trí nhớ, nếu thiền định là cách luyện tập tâm thức quen dần với một chủ đề đã được chọn từ trước, thì tất nhiên phải cần đến trí nhớ. Nếu quên mất chủ đề thì làm thế nào để quan sát và suy nghiệm về nó được? Tóm lại thiền định phải luôn dựa vào trí nhớ (nói cách khác là các kinh nghiệm và vốn liếng hiểu biết của mình)đồng thời thỉnh thoảng cũng phải cần đến sự cảnh giác (tức là sự tỉnh giác, tỉnh thức hay tỉnh táo, còn gọi là "chánh niệm", giúp mình trở về với chủ đề thiền định) hầu theo dõi xem trí nhớ vẫn còn tiếp tục đảm trách vai trò của nó hay không (tức là thỉnh thoảng phải nhìn lại xem mình có bị sự xao lãng lôi đi quá xa hay không).

C.B.: Vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu chi tiết hơn về một vài khía cạnh kỹ thuật trong việc thiền định qua hai trường hợp sau đây: trường hợp thứ nhất là khi mới bắt đầu luyện tập thì rất hăng say, thế nhưng sau đó thì thối chí; trường hợp thứ hai là các yếu tố nào có thể bất thần xảy đến thúc đẩy mình luyện tập thiền định?

M.S.B.: Thối chí là vì chưa hoàn toàn ý thức được thực trạng tâm thần đầy lầm lẫn của mình trong hiện tại (không trông thấy được vô minh và những nỗi khổ đau sâu kín trong tâm thức mình), mặt khác không ý thức được là thiền định lại có thể cải thiện được tình trạng đó, hầu thúc dục mình phải cố gắng tìm kiếm một giải pháp mang lại sự cải thiện đó.

            Thật ra có nhiều phương tiện khác nhau, trong số này thiền định, tuy không phải là giải pháp duy nhất, nhưng hữu hiệu nhất. Theo tôi người ta chỉ hăng say thiền định khi nào ý thức được phép luyện tập này không vượt quá tầm tay mình và sẽ mang lại cho mình thật nhiều lợi ích.

C.B.: Thế nhưng tất cả mọi ngườiđủ khả năng để luyện tập hay không?

M.S.B.: Trên phương diện tổng quát thì đúng, thật hiển nhiên trên nguyên tắc tất cả mọi người đều hội đủ khả năng luyện tập, bởi vì không bắt buộc là phải luyện tập các phép thiền định vô cùng phức tạp hoặc đòi hỏi một thời gian lâu dài. Thật ra thiền định cũng chỉ cần đều đặn tương tự như học đàn, chẳng hạn như đàn vĩ cầm là một khí cụ rất khó. Tâm thức cũng vậy là một khí cụ rất tinh xảo, do đó rất dễ "đàn sai" một vài nốt nhạc nào đó, vì thế rất khó mang lại ngay tức khắc các kết quả ngoạn mục. Tuy nhiên với sự kiên nhẫn qua từng ngày một và sự giúp đỡ của một vị thầy, cùng sự cố gắng tự tìm một phương pháp phù hợp với mình, thì tất cả mọi người, dù ở lứa tuổi nào, nhất định sớm muộn đều sẽ đạt được kết quả.  

C.B.: Vậy cũng có nghĩa là không bao giờ quá trễ?

M.S.B: Cũng không bao giờ là quá sớm cả!

C.B.: Quả đúng thế. Hơn nữa phải chăng bà cũng cho biết thật hết sức quan trọng là phải thiền định đúng vào giờ giấc quy định?

M.S.D.: Đúng thế, nên giữ sự đều đặn. Chẳng khác gì như ăn uống, nếu muốn giữ sức khỏe tốt thì nên ăn uống đúng giờ. Nếu muốn việc luyện tập sớm mang lại kết quả thì phải đều đặn, bởi vì luyện tập đúng giờ sẽ giúp cơ thể thích ứng nhanh chóng hơn với tư thế ngồi của mình, tâm thức cũng dễ tìm thấy sự tĩnh lặng hơn, nhờ đó sẽ mất ít thời giờ hơn. (ăn uống đều đặn là một thói quen, "đến giờ" thì cảm thấy đói và ăn uống sẽ ngon miệng hơn là ăn quá sớm hay quá trễ, hành thiền cũng vậy "đến giờ" thì thắp một nén hương, ngồi xuống và sẽ lắng vào thiền định dễ dàng hơn).

C.B.: Người ta thường nói tâm thầnthói quen của nó, thân xác cũng vậy cũng có thói quen của nó, vì thế theo tôi phải chăng cũng thật hết sức quan trọng là phải nhấn mạnh một điều là thiền định không những liên hệ đến tâm thức mà cả thân xác?

M.S.B.: Thật vậy, con người chúng ta là một sự cấu hợp gồm thân xác và tâm thức. Trên phương diện tổng quát, tất cả mọi hiện tượng đều tương tác với nhau ; giữa thân xác và tâm thức thì sự tương tác đó lại càng chặt chẽ hơn nữa. Nếu thứ này vận hành tốt thì thứ kia cũng khỏe mạnh hơn. Đối với thiền định cũng vậy, không nên để cho thành phần này hay thành phần kia phải bị bế tắc (không nên chỉ biết phát huy tâm thức mà không nghĩ gì đến thân xác, và ngược lại). Dù rằng thiền định là một phương pháp biến cải tâm thức bởi tâm thức, thế nhưng đồng thời nó cũng tạo ra các tác động ảnh hưởng đến thân xác. Do đó thiền định cũng cần đến sự tham dự của thân xác. Sự góp phần của thân xác là sự thoải máithích nghi của tư thế ngồi thiền hầu tránh khỏi bị buồn ngủ (tức là một tư thế ngay ngắn, uy nghitỉnh táo. Thiền học Zen rất chú trọng đến tư thế ngồi).

C.B.: Vậy không bắt buộc là phải ngồi theo tư thế hoa sen mà các vị thầy cũng như kinh sách

thường khuyên bảo, bởi vì tầm vóc của mỗi người đều khác biệt nhau.

M.S.B.: Tư thế hoa sen là cách ngồi được xem là lý tưởng nhất, thế nhưng đối với trường hợp người Tây Phương chúng ta vì không tập ngồi theo cách đó từ lúc ba hay bốn tuổi, cơ thể chúng ta không quen với tư thế này. Thật vậy tư thế này rất phù hợp với sự luân lưu của khí lực trong cơ thể, nhờ đó người hành thiền sẽ dễ tạo ra cho mình một tâm thức thích nghitrong sáng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng hơn nhiều là tư thế cần phải thích nghi với tầm vóc của mỗi người.

            Có người thuật lại cho tôi câu chuyện sau đây về một nhà sư vào thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế. Nhà sư này dù cố gắng nhưng không sao ngồi đúng cách được, bèn tìm Đức Phật để hỏi: "Tôi không hiểu tại sao tôi không thể ngồi đúng cách được". Đức Phật bèn trả lời như sau: "Vậy thì ngày mai cứ bò bốn chân mà hành thiền". Hôm sau nhà sư này nghe lời Phật bò bốn chân và đạt được các cấp bậc thực hiện thật cao. Mọi người chung quanh đều ngạc nhiên và thắc mắc. Đức Phật giải thích rằng kiếp trước nhà sư này là một con bò nên tạng người vẫn còn thích nghi hơn với tư thế bốn chân, vì thế nếu phải ngồi theo cách của những người khác trong kiếp nhân sinh này của mình thì sẽ không thích nghi lắm. Vì thế sau khi bò bốn chân thì tức khắc người này đạt được kết quả (tạng người là kết quả của nghiệp trong quá khứ, thân xác mang vóc dáng riêng là vốn liếng của mỗi người, không nên tìm cách làm trái ngược lại với cái vốn liếng đó của mình).   

            Thế nhưng cũng có một câu chuyện khác ngược lại. Có một nhà sư rất chăm thiền định nhưng không mang lại kết quả nào, và trong khu rừng nơi nhà sư này hành thiền có một chú khỉ có ý muốn giúp. Nhờ ngao du khắp nơi và có dịp trông thấy tư thế tọa thiền của nhiều nhà sư khác nên chú bèn đến trước mặt nhà sư này và ngồi đúng như thế. Nhà sư này trông thấy và nghĩ rằng tư thế này có thể sẽ thích hợp với mình chăng. Hôm sau nhà sư này bắt chước ngồi đúng như thế và tức khắc đạt được các cấp bậc chú tâm thật cao độ, cách ngồi này được gọi là tư thế hoa sen (hai câu chuyện trên đây cũng chỉ các câu chuyện mang tính cách ẩn dụ).

C.B.: Vậy phải hiểu như thế nào?

M.S.B.: Có nghĩa là tư thế phải phù hợp với người hành thiền, và cũng chính vì thế nên thường là phải cần đến sự chỉ dẫn của một vị thầy.

C.B.: Thưa vâng, có nghĩa là phải chọn một tư thế thích hợp với thân xác và đồng thời cũng phải tạo ra một thể dạng tâm thần thuận lợi cho tâm thức, chẳng qua là vì cả hai đều tương kết với nhau. Thế nhưng thể dạng thuận lợi của tâm thức là gì?

M.S.B.: Trước hết phải tin tưởng thật vững chắcthiền định sẽ mang lại cho mình thật nhiều lợi ích.

C.B.: Thế nhưng phải căn cứ vào đâu để mang lại sự tin tưởng đó?

M.S.B.: Thiền định sẽ tạo ra cho mình một tâm thức vững vàng, và sự vững vàng đó không những góp phần vào việc hành thiền mà còn cải thiện được cả công ăn việc làm của mình trong cuộc sống thường nhật, tức là giúp mình ít phạm vào các quyết định sai lầm. Nhờ phát huy được sự chú tâm cao độ nên chúng ta sẽ xác định được các chủ đề [thiền định] chính xác hơn, và cũng nhờ vào sự chú tâm đó chúng ta cũng sẽ giải quyết sáng suốt hơn bất cứ công việc nào của mình. Sau khi phát huy được sự chú tâm thì chúng ta sẽ chọn các chủ đề nào thích hợp với mình (chủ đề thiền định rất nhiều: lòng hiếu thảo, tình thương yêu, sự hy sinh, hoàn cảnh khổ đau của mình và của chúng sinh, bản chất vô thường của mọi hiện tượng, v.v.)ước tính xem mình có thể dành ra bao nhiêu thời giờ để luyện tập. Lúc đầu không nên thiền định quá lâu, mỗi lần năm mười phút là đủ (dần dần sẽ cảm thấy ngày càng ham thích sự yên lặng và êm ả trong những lúc hành thiền và sẽ ngồi yên được lâu hơn)

C.B.: Thiền định hướng vào một đối tượng có nghĩa là gì?

M.B.S.: Trước hết phải hiểu các đối tượng ở đây là các đối tưọng tâm thần. Thiền định không phải là chú tâm hay quan sát một thứ gì ở bên ngoài tâm thức. Một cách tổng quát, thiền định là một hình thức sinh hoạt nội tâm, chẳng hạn như thiền định về tình thương yêu (tình thương yêu là một đối tượng tâm thần. Suy tư, quán tưởng về tình thương yêu là một sự sinh hoạt tâm thần và cũng là một hình thức "thiền định", một cách "tập cho tâm thức quen dần với tình thương yêu". Khơi động được tình thương yêu rộng lớn trong tâm thức là một liều thuốc hoá giải hận thù, mang lại sự thanh thản, an vui và hạnh phúc trong nội tâm, và cả sức khỏe trên thân xác, giúp mình đến gần với tất cả mọi người dễ dàng hơn, và mọi người cũng sẽ đến gần với mình và thương yêu mình nhiều hơn, v.v. Phép thiền định này tuy đơn giản và không cao siêu lắm nhưng rất hiệu quả, mang lại những biến cải nhanh chóng trong tâm thức mình. Thế nhưng phải cần phân biệt giữa tình thương yêu và sự bám víu, thí dụ trông thấy một người bị tai nạn xe cộ, máu me lênh láng thì mình khiếp sợ, lánh ra xa, thế nhưng nếu người bị tai nạn là một người thân thuộc của mình thì mình khóc la, xông vào người lái xe để chửi mắng hay đánh đập. Trong cả hai trường hợp này không có gì là tình thương yêu cả, mà chỉ là phản ứng mang tính cách bản năngbám víu. Tình thương yêu đích thật phải vô điều kiện, sâu xamênh mông hơn thế rất nhiều). Thế nhưng người ta cũng có thể quán tưởng mình là một vị Phật ây là cấp bậc thiền định rất cao và khó, gọi là phép "quán tưởng" giúp mình đạt được các phẩm tính của một vị Phật). Tuy nhiên trong giai đoạn mới khởi sự thì tốt hơn nên cố gắng phát hiện những khiếm khuyết (các yếu điểm) của mình và thiền định về các phương pháp hóa giải. Thí dụ trường hợp hay nổi nóng thì nên thiền định về tình thương yêu. Nếu cảm thấy mình bám víu quá nhiều (chẳng hạn như đòi hỏi quá nhiều nơi con cái, người thân, bạn hữu, đồng nghiệp, hoặc ghen tuông, so bì, ích kỷ, tính toán từng chút, chăm lo sắc đẹp, quần áo, phấn son, lo sợ bệnh tật... một cách quá đáng!) thì nên thiền định về các sự phiền toái mang lại bởi chính các đối tượng bám víu ấy của mình, nhất là bản chất vô thường của chúng (bám víu vào những gì phù du chỉ mang lại sự thất vọng cho mình mà thôi).

C.B.: Thưa vâng. Chẳng hạn như trong cuộc sống lứa đôi, dù gắn bó với nhau đến đâu đi nữa thì cũng nên thiền định về bản chất vô thường của nhau, điều đó sẽ làm giảm bớt sự cố chấp trước mọi chuyện xảy ra.

M.B.S.: Và cũng chính nhờ đó mà mình mới nhận thấy được những gì chủ yếu hơn. Khi nào ý thức được những thứ ấy chỉ là phù du thì mình mới biết tận hưởng những giây phút hiện tại đang trôi qua. Tất nhiên người phối ngẫu của mình không sao tránh khỏi khiếm khuyết, thế nhưng bù lại cũng có nhiều phẩm tính. Vậy không nên chấp nhất các khiếm khuyết nhỏ nhặt mà hãy nhìn vào những phẩm tính cao đẹp hơn.

C.B.: Có những trở ngại nào có thể xảy ra trong lúc luyện tập hay không?

M.S.B.: Trở ngại lớn nhất trong việc luyện tập thiền định là sự lười biếng. Đấy là nguyên nhân chính ngăn chận những bước đầu của mình. Nhiều người rất muốn luyện tập vì nghĩ rằng thiền định rất tốt, thế nhưng lại có vô số các việc khác đang chờ đợi mình, thiền định thì nào có cấp bách gì, lúc nào mà lại chẳng được. Thế nhưng sau đó thì lại quên đi, chẳng hạn như trong lòng thì muốn tập trung sự chú tâm hướng vào tấm gương của Đức Phật hoặc tình thương yêu chẳng hạn, thế nhưng đầu óc thì lại bận rộn với trăm thứ chuyện khác, không có một chút liên hệ nào với chủ đề mà mình mong muốn suy tư. Như thế thì chẳng có gì gọi là thiền định cả mà chỉ là sự xao lãng

C.B.: Tóm lại phải chăng người ta cũng có thể thiền định bất cứ lúc nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào?  

M.S.B.: Đúng vậy, khi đã quen thì có thể thiền định ở bất cứ nơi nào, trong hoàn cảnh nào, giữa đám đông hay trong lúc ốm đau cũng vậy. Thế nhưng nếu muốn làm được như thế thì cũng phải luyện tập từ trước với các điều kiện thuận lợi hơn, chẳng hạn như trong các khung cảnh an bìnhvắng lặng hơn. Đôi khi cũng nên tập cho các đứa trẻ thiền định ngay từ lúc bé, chẳng hạn như tập cho chúng chú tâm vào hơi thở, đó là cách mang lại cho chúng một sức khỏe tốt, giúp chúng bớt hiếu động, học hành chăm chú hơn, thân thiện hơn với những người chung quanh. Thiền định quả ích lợi đối với tất cả mọi lứa tuổi.

C.B.: Vậy chúng ta hãy mượn câu này thay cho lời kết. Xin cảm tạ bà Matie-Stella.

 

Vài lời ghi chú của người dịch

 

            Nội dung bài phỏng vấn trên đây rất trực tiếp và cụ thể, thiết nghĩ không cần phải ghi chú thêm điều gì cả, nếu không thì cũng chỉ là nêu lên tấm gương của bà Marie-Stella Boussemart một nữ tu sĩ thật uyên báctích cực, và cũng là vị chủ tịch thứ bảy của Tổng Hội Phật giáo Pháp từ năm 2012 đến 2015. Với một phong thái khoan thai, bà hiện ra với mọi người chung quanh thật vui vẻ và từ tốn, thế nhưng bên trong bà dường như ẩn chứa cả một nghị lực vô song. Vài hình ảnh dưới đây cũng đủ để nói lên điều đó:

thien dinh 1

H.1: Bà Marie-Stella Boussemart viếng thăm Bộ Trưởng Nội Vụ Manuel Valls ngày 17 tháng 12 năm 2012 nhằm tranh đấu cho quyền lợi của Phật giáo, đòi hỏi chánh phủ phải thừa nhận trên đất Pháp hiện có một triệu người theo Phật giáo, chính thức hóa tổ chức tuyên úy Phật giáo của Tổng Hội tại các khám đường, giải thích về sự trể nãi trong việc xây cất chùa Khánh Anh mới vì lý do đạo luật gần đây do quốc hội biểu quyết không cho phép các nơi thờ phượng và tư nhân cất giữ tro hỏa táng đã khiến các Phật tử không đóng góp vào việc xây chùa Khánh Anh đúng theo dự tính, v.v.

thien dinh 2 thien dinh 3
2 3

 

H.2 và 3: Lễ Phật Đản tại ngôi chùa của Tổng Hội Phật giáo Pháp tại Paris ngày 26 tháng 5 năm 2013. Hình 2: Lễ Phật trong chính điện, trước mặt bà Marie-Stella Boussemart là vị đại sư Dagpo Rinpoché. Hình 3: Với tư cách chủ tịch Tổng Hội Phật giáo Pháp bà tiếp đón Thủ Tướng Manuel Valls đến viếng chùa vào ngày lễ Phật Đản trên đây (sau lưng bà là nhà sư Dagpo Rinpoché).

thien dinh 44 thien dinh 55

 

H.4 và 5: Ngày 29 tháng 11 năm 2012, bà Marie-Stella Boussemart cùng với các vị đại điện của các tôn giáo lớn tại Pháp được Thượng Viện tham vấn quan điểm của tôn giáo mình về vấn đề hôn nhân giữa những người đồng giới tính, trong khi Hạ-Viện đang soạn thảo dự luật "Hôn nhân cho tất cả mọi người".    

thien dinh 6

H.6: Bà Marie-Stella Boussemart đại diện Phật giáo trong phái đoàn các tôn giáo tại Pháp được Tổng Thống François Hollande tiếp đón và chúc Tết dương lịch tại dinh Tổng Thống ngày 08 tháng giêng, năm 2013.

            Sau đây là một vài đoạn trích dẫn trong bài thuyết trình của bà trước Thượng Viện Pháp về quan điểm của Phật giáo về vấn đề đồng tính luyến ái (độc giả có thể xem toàn bộ phúc trình này và phần thảo luận trên trang mạng: http://www.senat.fr/rap/l12-437-2/l12-437-214.html ):

            Thật ra những gì tôi sắp nêu lên cũng chỉ mang tính cách đại cương mà thôi. Tổng Hội Phật Giáo Pháp (UBF/Union Bouddhiste de France) không phải là một cơ quan lãnh đạo tâm linh. Tôi không mang một tước hiệu nào ngang hàng với Đức Hồng y Vingt-Trois, hay vị Đại Giáo Trưởng (Grand Rabbin) Bernheim (lãnh đạo Do Thái giáo tại Pháp).Tôi chỉ là người đại diện cho một thực thể vô cùng đa dạng.

            Phật giáo được hình thành cách nay 2600 năm ở Ấn Độ và sau đó đã bành trướng khắp châu Á. Tại Pháp tín ngưỡng này được mọi người biết đến từ lâu qua các mối dây liên hệ mang tính cách lịch sử với lục địa này (ý nói đến các phong trào thực dân trong các thế kỷ XIX và XX). Thế nhưng trên phương diện thực hành (tức là sự tu tập dưới hình thức tín ngưỡng) thì cũng mới bắt đầu cách nay khoảng năm mươi hay sáu mươi năm mà thôi, chủ yếu là trong các tập thể những người tỵ nạn từ Đông nam Á, và gần đây hơn là Tây Tạng.

            Sự phong phú đó là cả một sự may mắn đối với chúng ta, nhưng cũng là một sự phức tạp. Bên trong Phật giáo có rất nhiều tông phái, chi phái, học phái, cùng sinh hoạt chung với nhau, và tất cả đều được du nhập vào nước Pháp. Sự đa dạng đó về văn hóa, ngôn ngữ và chính trị thật nổi bật. Tổng Hội Phật Giáo Pháp (UBF) được thành lập kể từ năm 1986, do đó vẫn còn non trẻ, và tôi là vị chủ tịch thứ bảy. [...]

            Tôi không thể khẳng định với quý vị là: "Người Phật giáo nghĩ như thế này hay thế kia"  được. Riêng phần tôi thì tôi cũng không có thẩm quyền nào để nói lên điều đó, bởi vì dù có nói thì cũng sẽ là sai. Tôi cũng chỉ thăm dò người này hay người kia chung quanh tôi. Trên đất Pháp có một triệu người theo Phật giáo, trong số này ba phần tư là người Á Châu, và năm triệu người Pháp có cảm tình với Phật giáo (tổng số dân Pháp là 66 triệu người). Những người Á Châu Phật giáo đó rất biết ơn nước Pháp đã đón nhận họ và họ cũng luôn cố gắng hòa mình [với sự sinh hoạt của xã hội chúng ta], thế nhưng không phải vì thế mà họ quên đi nguồn gốc của mình và một tầm nhìn vào thế giới khác hơn với chúng ta

            Thật ra dự luật này (tức là dự luật cho phép những người cùng một giới tính có quyền thành lập gia đìnhhoàn toàn được thừa hưởng các quyền lợi pháp lý và xã hội tương tự như những người khác phái) không liên hệ gì đến những người theo Phật giáo. Đối với những người Phật giáo, việc cưới hỏi không mang tính cách thiêng liêng tương tự như trên quê hương chúng ta. Đối với Phật giáo không hề có chuyện ban phúc lành, trước hoặc sau các nghi lễ cưới hỏi trong gia đình. Đối với người Phật giáo thì việc kết hôn chỉ là một sự giao ước trên phương diện dân sự và xã hội, giữa hai người, hai gia đình, và cũng có thể là giữa hai dân tộc hay quốc gia khác nhau (có nghĩa là giữa các chủng tộc hay quốc tịch khác nhau qua sự thỏa ước giữa hai quốc gia). Và tình yêu, thì tại sao lại không? Thế nhưng tình yêu cũng chỉ được xem như là một nét lãng mạn (romantic) thế thôi (quả thật tuyệt với góc nhìn của một ni sư Phật giáo về cưới hỏi và "tình yêu" của thế tục). Hôn nhân là một sự thỏa hiệp mang mục đích nối dõi, thừa hưởng gia tàicủa cải. Phật giáo rất cụ thểthực tế. 

            [...]

            Giữa những người Phật giáo cũng có nhiều quan điểm khác biệt nhau, tùy theo văn hóathế hệ (lớp tuổi) của mỗi người. Nói chung, đối với sự luyến ái thì đồng giới hay khác giới tất cả cũng đều là những con người, tất cả đều hàm chưa những tiềm năng giống nhau, thừa hưởng những quyền hạn như nhau. Tất cả các điều này vượt lên trên các yếu tố sinh học mà mình không thể làm gì khác hơn được. Phật giáo không hề kỳ thị những người đồng tính luyến ái. Việc hôn nhân là tùy mỗi người tự thẩm định, tự chọn cho mình một quan điểm phù hợp với mình. Phật giáo không đưa ra một tiêu lệnh nào quy định là phải làm như thế này, không được làm như thế kia (làm như "thế này" hay như "thế kia" đều là do bản năng thúc đẩy. Phía sau sự thúc đẩy đó là nghiệp. Vì thế dù là làm "như thế này" hay "như thế kia" thì cũng đều đưa đến những khổ đau kín đáo mà thôi. Thỏa mãn những đòi hỏi của bản năng cũng chỉ là một thứ "hạnh phúc" nhất thời và giả tạo. Phật giáo không quan trọng hóa vấn đề hôn nhân, nếu không thì chỉ xem đấy là nguyên nhân sâu xa đưa đến sự tạo nghiệp và vướng mắc trong chu kỳ xoay vần bất tận của những sự hiện hữu). Vậy Phật giáo là một tín ngưỡng hay một triết học? Thắc mắc này thuờng được nhiều người nêu lên. Thật ra thì Phật giáo cũng chỉ là một con đường để mọi người bước theo, nhưng không hề là một sự thật tuyệt đốigiá trị đối với tất cả mọi người.

            [...] 

            Sau đây là một đoạn trích dẫn khác về các cảm nghĩ của bà sau khi tham dự một buổi hội thảo với chủ đề "Cái chết và các nghi lễ tôn giáo" được tổ chức ngày 21 tháng 3 năm 2008 tại Rouen, một thành phố trên miền bắc nước Pháp. Các cảm nghĩ này được đưa lên trang "Blog" của bà là "Anecdotes bouddhistes" (Các giai thoại Phật giáo) với tựa "Những người Hồi giáo, anh em của tôi" / "Musulman, mon Frère" (http://anecdotesbouddhistes.blogspot.fr/2008/03/musulman-mon-frre.html ), và sau đó cũng đã được trang mạng rất uy tín là Buddhachanel đăng tải (http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article1916 ):

            Tối hôm qua tôi có dịp tham dự một buổi hội thảo tổ chức tại tỉnh Rouen với chủ đề "Cái chết và các nghi lễ theo các nền văn hóatín ngưỡng khác nhau" - và tôi thì được xem là người đại diện nói lên quan điểm của Phật giáo.

            Ban tổ chức không mời được một vị thầy (imam) Hồi giáo nào có thì giờ tham dự tối hôm đó cả, chỉ có một phụ nữ trẻ chít khăn đại diện trình bày quan điểm của tín ngưỡng Hồi giáo.

            Bài thuyết trình của người phụ nữ này thật minh bạchdứt khoát khiến tôi không khỏi đặc biệt quan tâm, chẳng qua vì từ trước đến nay tôi chưa từng được nghe nói đến các điều này, chẳng hạn như việc cấm đoán không được ăn thịt heo, bởi vì thịt heo rất giống với thịt người! 

            (Thật vậy, từ lâu các khoa học gia đã nghĩ đến việc thay tim người bằng tim heo, bởi vì hiện nay người hiến các bộ phận của cơ thể mình khi chết quá hiếm. Các khoa học gia đã thử nghiệm thay tim heo cho loài khỉ đột và các con khỉ này sống được hơn hai năm. Những người tu tập Phật giáo chân chính không những không ăn thịt heo mà cũng không ăn thịt của bất cứ một sinh vật nào khác, bởi vì ăn thịt là cách tước đi sự sống của một chúng sinh. Sự sống của tất cả chúng sinh đều quý giá như nhau, dù là sự sống của một chúng sinh khờ khạo và đần độn hay một chúng sinh tinh ranh và hung dữ. Nếu mình biết thương sự sống của cha mẹ mình, con cái mình thì cũng nên thương sự sống của tất cả chúng sinh.

            Nếu kính trọng sự sống thì cũng nên bảo toàn phương tiện chuyển tải sự sống đó tức là thân xác, không nên lợi dụng sự đần độn và khờ khạo của một sinh vật để sử dụng thân xác chúng vào những mục đích khác. Miếng thịt heo cũng chẳng khác gì miếng thịt người, cả hai đều tanh tưởi như nhau. Chúng ta ướp miếng thịt heo với gia vị, xào nấu hoặc nướng lên cho thơm thì đấy cũng chỉ là cách đánh lừa khẩu vị của mình. Chúng ta ăn mặc đẹp, tô son điểm phấn, xức nước hoa là để che bớt sự hôi hám và xấu xí của thân thể mình, và đấy cũng chỉ là cách đánh lừa kẻ khác và cả chính mình).

            Thế nhưng có lúc tôi cũng cảm thấy những điều được nghe khá quen thuộc. Cảm giác quen thuộc đó hiện lên với tôi khi người phụ nữ Jasmina (tức là người phụ nữ Hồi giáo) cho biết rằng mỗi ngày người tu tập Hồi giáo luôn suy tư về vô thường và cái chết...

            Người phụ nữ thuyết trình viên bất đắc dĩ này cho biết rằng mỗi tối họ phải gột rửa (ablution) chính mình trước đã, có nghĩa là phải chuẩn bị và tinh khiết hóa mình, bởi vì cái chết biết đâu cũng có thể sẽ xảy đến với mình vào tối hôm nay. Mỗi buổi sáng khi thức dậy cũng vậy, trước khi bắt tay vào bất cứ việc gì thì cũng nên nghĩ rằng ngày hôm nay biết đâu cũng sẽ là ngày cuối cùng trong cuộc đời mình.

                Đối với những người Phật giáo chúng ta cũng vậy, dường như tôi cũng được nghe nói rằng mỗi tối nên "xét lại lương tâm mình" và phải tinh khiết hóa nó với tất cả nghị lực của mình, đó là cách không những ngăn chận không cho các nghiệp (karma) kém đạo hạnh tha hồ khuấy động mà còn giúp mình sẵn sàng đối đầu với cái chết, bởi vì biết đâu cái chết cũng có thể xảy đến với mình vào tối hôm nay.

            Mỗi sáng khi thức dậy, cũng nên cảm thấy vui mừng vì cái chết chưa xảy đến với mình, và hãy khơi động lòng quyết tâm không lãng phí phần còn lại của sự sống này, nhất là trước một ngày đang mở ra trước mặt - bởi vì biết đâu ngày hôm nay cũng là ngày cuối cùng trong đời mình.

             (Vài lời ghi chú trên đây cũng chỉ là để giúp chúng ta ý thức được vị trí và cung cách hành xử của mình trong sự sinh hoạt tập thể của xã hội và trong bối cảnh của sự sống nói chung. Điều thiết yếu và quan trọng hơn cả chính là những lời khuyên - tuy chỉ là căn bản - nhưng rất thiết thực trong bài phỏng vấn bà Marie-Stella Boussemart trên đây. Thật vậy thiền định là một phương tiện hữu hiệu nhất giúp chúng ta trở về với chính mình, hầu biến cải tâm thức mình, và đấy cũng chính là con đường tu tập chân chínhĐức Phật đã vạch ra cho chúng ta)     

                                                                                               

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 24.01.17
                                                                                     Hoang Phong chuyển ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11169)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10982)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11215)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11272)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14275)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12499)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26367)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11717)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29297)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11676)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10799)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11106)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10971)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10794)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11336)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10796)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12261)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11302)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10076)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11416)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13427)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11279)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11488)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12715)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13788)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13199)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12825)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12180)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30162)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24916)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10985)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11750)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10689)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11234)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11545)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12922)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12118)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11339)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10229)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11818)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11213)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10912)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13093)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10207)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10888)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10956)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14549)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10707)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21981)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12086)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11444)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30202)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19611)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20590)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12571)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12569)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21215)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13266)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14479)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30446)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28390)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28699)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21970)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21661)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23428)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26415)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23222)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19865)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22958)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19979)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15435)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14140)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22528)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22572)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22901)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13224)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23206)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13189)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28984)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30523)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14255)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26279)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33248)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8656)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13329)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22154)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21799)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant